Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng thông tin cho người khiếm thị tại thư viện hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.14 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA THÔNG TIN - THƢ VIỆN
--------------------

NGUYỄN CHÍ TRUNG

NHU CẦU TIN VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG THÔNG TIN
CHO NGƢỜI KHIẾM THỊ TẠI THƢ VIỆN HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH THÔNG TIN - THƢ
VIỆN Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2007-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. TRẦN THỊ QUÝ

HÀ NỘI, 2011

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA THÔNG

TIN - THƢ VIỆN
--------------------

NGUYỄN CHÍ TRUNG

NHU CẦU TIN VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG THÔNG TIN
CHO NGƢỜI KHIẾM THỊ TẠI THƢ VIỆN HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH THÔNG TIN - THƢ
VIỆN Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2007-X



NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. TRẦN THỊ QUÝ

HÀ NỘI, 2011

PHẦN MỞ ĐẦU

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


1. Tính cấp thiết của đề tài
Hà Nội - thủ đô anh hùng, thành phố vì hòa bình, trái tim của đất nước đã bước qua
1000 năm lịch sử. Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, khoa học và giáo dục của cả nước. Là
thành phố có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trình độ dân trí cao và nhu cầu hưởng thụ văn hóa
lớn. Hà Nội là nơi tập trung nhiều cơ quan của trung ương, các bộ ngành, các viện và trung
tâm nghiên cứu….Là thành phố đang trên đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa mạnh mẽ, để có
thể làm chủ máy móc, các trang thiết bị hiện đại và làm chủ quá trình lao động sản xuất, người
lao động nói riêng và người dân nói chung cần phải đọc để hiểu biết. Từ xa xưa cho đến nay,
Hà Nội cũng nổi tiếng là mảnh đất hiếu học, vì thế, nhu cầu đọc và nắm bắt thông tin qua sách
báo là rất cao.
Hà Nội cũng là nơi tập trung nhiều cơ quan thông tin và thư viện hàng đầu của đất
nước, trong đó có Thư viện Hà Nội. Hiện nay, Thư viện Hà Nội phục vụ các nhóm đối tượng
khác nhau như: trí thức, học sinh - sinh viên, người cao tuổi, người lao động, trong đó có
người khiếm thị. Người dùng tin khiếm thị là một trong những nhóm người dùng tin đặc biệt
của hoạt động thông tin - thư viện. Người dùng tin đặc biệt là những người hạn chế về thể chất
hoặc về mặt xã hội có nhu cầu tin và sử dụng thông tin để thỏa mãn nhu cầu của mình. Trong
quá trình thỏa mãn nhu cầu của mình, họ cần sự quan tâm của xã hội. Người dùng tin đặc biệt
bao gồm những người như: người khiếm thị, người già, bệnh nhân, tù nhân, tội phạm, các đối
tượng đang được cải tạo. Người dùng tin khiếm thị là một trong những nhóm bạn đọc mà hệ
thống thư viện, đặc biệt là Hệ thống thư viện công cộng có trách nhiệm phục vụ. Tại điều 6,

khoản 4 Pháp lệnh Thư viện đã khẳng định quyền được sử dụng các tài liệu phù hợp với đặc
thù bệnh của người khiếm thị trong các thư viện như sau: “Người khiếm thị được tạo điều kiện
sử dụng tài liệu thư viện bằng chữ nổi hoặc các vật mang tin đặc biệt”[2;4]. Đồng thời tại điều
2, khoản 4 trong Nghị định của Chính phủ Quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh Thư viện
cũng xác định rõ trách nhiệm của Thư viện trong việc phục vụ người dùng tin khiếm thị: “Thư
viện công cộng có trách nhiệm phối hợp với Hội người mù xây dựng bộ phận sách, báo bằng
chữ nổi và các dạng tài liệu đặc biệt khác phục vụ người khiếm thị”[1;2].
Trong thời kỳ bùng nổ thông tin và công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ thì nhu cầu
thông tin của người dùng tin nói chung và người khiếm thị nói riêng thay đổi nhanh chóng.
Nếu nguồn lực thông tin không ngừng cập nhật, các sản phẩm dịch vụ thông tin và thư

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


viện chậm đổi mới, không chú trọng đa dạng hóa thì hiệu quả đáp ứng nhu cầu tin cho người
dùng tin nói chung và người khiếm thị nói riêng sẽ không đạt hiệu quả cao.
Vì vậy, việc tìm hiểu nhu cầu tin của người khiếm thị và thực trạng khả năng đáp ứng
nhu cầu tin cho người khiếm thị của Thư viện Hà Nội ra sao để từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ cho đối tượng người dùng tin này có ý nghĩa về cả lý luận và
thực tiễn. Do đó, tôi đã chọn đề tài “Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng thông tin cho người
khiếm thị tại Thư viện Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu nhu cầu tin và khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị tại Thư
viện Hà Nội nhằm có cơ sở khoa học để đề xuất những giải pháp nâng cao khả năng đáp ứng
nhu cầu tin cho đối tượng người dùng tin đặc biệt này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Là nhu cầu tin và khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho người dùng tin khiếm thị của Thư
viện Hà Nội.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực trạng nhu cầu tin của người dùng tin khiếm thị tại Thư viện Hà Nội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phƣơng pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin và thư viện.
4.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, tôi đã sử dụng bốn phương pháp nghiên cứu
cụ thể là: phương pháp nghiên cứu, tập hợp và phân tích tài liệu; phương pháp điều tra nhu cầu
tin bằng bảng hỏi; phương pháp khảo sát điều tra thực tế; phương pháp trao đổi mạn đàm.
5. Tình hình nghiên cứu theo hƣớng đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy công tác phục vụ người khiếm thị được
các tác giả nghiên cứu và đề cập từ nhiều góc độ và từng mức độ khác nhau.
Theo hướng đề tài có những tài liệu tập trung vào việc nghiên cứu về người khiếm thị
nhưng chung chung, hoặc công tác phục vụ người khiếm thị tại thư viện khác; hoặc nhóm tài
liệu nghiên cứu về Thư viện Hà Nội nhưng không nghiên cứu về người khiếm thị mà tập trung

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện

4


nghiên cứu các đối tượng khác như: phát triển nguồn tin, tin học hóa, bộ máy tra cứu tin, công
tác bảo quản vốn tài liệu……
Gần đây, do những đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn công tác phục vụ thông tin cho người
khiếm thị, nhiều đơn vị đã có một số đề tài, hội thảo nghiên cứu và trao đổi về nhiều khía cạnh
khác nhau của công tác phục vụ người khiếm thị. Có thể nêu một số bài báo khoa học, công
trình nghiên cứu, niên luận của một số tác giả nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau như:
Bài báo khoa học của tác giả Nguyễn Ngọc Nguyên “Thư viện dành cho người khiếm thị”
đăng trong Tập san Thư viện số 4 năm 2001, Niên luận “Tìm hiểu hoạt động một số phòng đọc

sách tiêu biểu dành cho người khiếm thị ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Nguyễn Thị Đào hoàn thành tháng 3 năm 2003. Đặc biệt là Hội thảo khoa học do Vụ Thư viện
thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức với nội dung về “Tăng cường và nâng cao
chất lượng các dịch vụ thư viện công cộng phục vụ người khiếm thị” diễn ra vào tháng
11/2008, Hội nghị “Tổng kết 10 năm hợp tác giữa Việt Nam và Quỹ Force giai đoạn 2000 2010” vào tháng 11/2010. Bên cạnh đó là cuốn sách “Dịch vụ thư viện cho người khiếm thị:
Cẩm nang thực hành tốt nhất” do tác giả Nguyễn Thị Bắc chủ trì biên soạn năm 2005. Tài liệu
nghiên cứu về Thư viện Hà Nội nhưng không nghiên cứu cụ thể về đối tượng người dùng tin
khiếm thị như: Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Hồ Thị Thúy Chinh “Tìm hiểu nhu cầu tin và
việc đảm bảo thông tin tại Thư viện Thành phố Hà Nội” năm 2007.
Có thể thấy, việc nghiên cứu vẫn chỉ dừng lại sự bao quát, chưa tìm hiểu sâu từng khía
cạnh cụ thể của đối tượng nghiên cứu. Phần lớn các đề tài, bài báo khoa học, khóa luận tốt
nghiệp, cũng như các bài viết đăng trong kỷ yếu hội thảo chỉ đề cập một phần nào đó về việc
nâng cao chất lượng và dịch vụ phục vụ người khiếm thị, chứ chưa đi sâu vào việc nghiên cứu
chính xác nhu cầu tin của người khiếm thị cũng như khả năng đáp ứng của Thư viện Hà Nội
thông qua các phiếu hỏi. Chính vì vậy đề tài “Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng thông tin cho
người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội” là hoàn toàn mới, không trùng lặp với các công trình
nào đã công bố trước đó.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
Góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận về người dùng tin đặc biệt và nhu cầu tin tại
thư viện người dùng tin đặc biệt nói chung và người dùng tin khiếm thị nói riêng trong hoạt
động thông tin - thư viện.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


Trên cơ sở kết quả nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị; tìm hiểu khả năng đáp
ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội để đưa ra một số kiến nghị nhằm
tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho đối tượng này. Đây cũng chính là tài liệu tham

khảo dùng cho những người làm công tác thông tin - thư viện tại Việt Nam nói chung và
những người làm công tác phục vụ người khiếm thị nói riêng tại Việt Nam.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, khóa
luận được trình bày trong ba chương:
- Chƣơng 1: Những vấn đề chung về người khiếm thị tại Thư viện Hà Nội.
- Chƣơng 2: Nhu cầu tin và khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị tại Thư

viện Hà Nội.
- Chƣơng 3: Một số nhận xét và giải pháp đáp ứng nhu cầu tin của người khiếm thị tại

Thư viện Hà Nội.

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ NGƢỜI KHIẾM THỊ TẠI THƢ VIỆN HÀ NỘI

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


1.1. Những khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm nhu cầu, nhu cầu tin và các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm nhu cầu
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin thì cho rằng: Nhu cầu là đòi hỏi khách
quan của con người với một đối tượng nhất định, trong những điều kiện nhất định, đảm bảo
duy trì cho sự sống và sự phát triển của con người.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Nhu cầu là sự phản ánh một cách khách quan
các đòi hỏi về vật chất, tinh thần và xã hội của đời sống con người phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội trong từng thời kì. Nhu cầu hình thành và phát triển trong quá trình lịch
sử. Mức độ nhu cầu và phương thức thoả mãn nhu cầu về cơ bản phụ thuộc vào trình độ phát
triển của xã hội, trước hết là trình độ phát triển kinh tế”. [21]

Nhu cầu là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất và toàn xã hội phát triển. Đặc điểm
nhu cầu của các tầng lớp nhân dân được hình thành tuỳ theo địa vị của họ trong nền sản xuất
xã hội, tuỳ thuộc vào những đặc trưng về nhân khẩu, chủng tộc, dân tộc... về các điều kiện
kinh tế, xã hội, tự nhiên.
Nhu cầu nảy sinh do kết quả tác động qua lại của hoàn cảnh bên ngoài, trong đó quan
trọng nhất là tác động của sản xuất vật chất với các trạng thái riêng của chủ thể. Trong mối
quan hệ đó, hoàn cảnh bên ngoài đóng vai trò quyết định. Xã hội càng phát triển, nhu cầu có
xu hướng đa dạng, phong phú hơn cả về nội dung đối tượng thỏa mãn và phương thức thỏa
mãn.
Nhu cầu được hình thành trên cơ sở sự tác động qua lại của hai loại phản xạ: phản xạ
có điều kiện và phản xạ không điều kiện. Khi nhu cầu mới xuất hiện, chủ thể chưa nhận thức
được những nhu cầu khi được nhận thức sẽ trở thành yếu tố thúc đẩy hoạt động của con người.
Trong nhu cầu luôn có sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan.
Trong đời sống xã hội có nhiều loại nhu cầu tồn tại và phát triển. Tâm lý học Mác xít
phân chia nhu cầu thành hai loại cơ bản: Nhu cầu vật chất (nhu cầu ăn, ở, mặc, sinh lý) và nhu
cầu tinh thần (nhu cầu nhận thức, thẩm mỹ và nhu cầu giao tiếp). Hai loại nhu cầu này có mối
quan hệ biện chứng, chi phối lẫn nhau, trong đó nhu cầu tinh thần là nhu cầu bậc cao, thể hiện
trình độ phát triển của con người. Cơ cấu nhu cầu biến động khác nhau theo giai cấp, theo các
tầng lớp cư dân, các vùng lãnh thổ, tuỳ theo thời kì phát triển kinh tế - xã hội. Xác định nhu

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


cầu là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế và
quản lí kinh tế.
1.1.1.2. Khái niệm nhu cầu tin
Theo quan điểm của tâm lý học Mác xít, có thể coi nhu cầu tin là đòi hỏi khách quan
của con người (cá nhân, nhóm, xã hội) đối với việc tiếp nhận và sử dụng thông tin nhằm duy
trì hoạt động sống của con người. Khi đòi hỏi về thông tin trở nên cấp thiết thì nhu cầu tin xuất
hiện.

Nhu cầu tin là một dạng của nhu cầu tinh thần, nhu cầu bậc cao của con người. Nhu
cầu tin nảy sinh trong quá trình thực hiện các loại hoạt động khác nhau của con người. Thông
tin về đối tượng hoạt động, về môi trường và phương tiện hoạt động là yếu tố quan trọng tạo
nên hiệu quả hoạt động của con người. Bất cứ hoạt động nào muốn có kết quả tốt đẹp cũng
cần phải có thông tin đầy đủ. Hoạt động càng phức tạp bao nhiều thì nhu cầu được cung cấp
thông tin càng cao bấy nhiêu.
Có thể nói, nhu cầu tin là yếu tố quan trọng tạo nên động cơ của hoạt động thông tin và
thư viện. Vì thế, có thể coi nhu cầu tin là nguồn gốc tạo ra hoạt động thông tin.
Nhu cầu tin có vai trò định hướng cho hoạt động thông tin - thư viện, đồng thời luôn
biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố, đặc biệt là ảnh hưởng của môi trường
sống và nghề nghiệp của người dùng tin. Nhu cầu tin còn phản ánh sự cần thiết thông tin của
một cá nhân/ tập thể trong quá trình thực hiện một hoạt động nào đó. Nhu cầu tin có thể thay
đổi tùy theo công việc và nhiệm vụ mà người dùng tin phải thực hiện.Vì thế, nắm vững đặc
điểm nhu cầu tin sẽ góp phần định hướng công tác xây dựng và phát triển nguồn tin, nâng cao
chất lượng phục vụ.
Nhu cầu tin có thể chia làm 3 giai đoạn chủ yếu trong vòng đời của con người:
- Nhu cầu tin ở tuổi chưa đến trường: là sự khởi đầu của giao tiếp với môi trường xung

quanh.
- Nhu cầu tin trong quá trình được đào tạo (phổ thông, đại học và sau đại học)
- Nhu cầu tin trong quá trình làm việc

Trong thông tin học, người ta chia nhu cầu tin ra thành 3 nhóm chủ yếu. Đó là: Nhu
cầu tin cá nhân, nhu cầu tin tập thể và nhu cầu tin cộng đồng. Nhu cầu tin cá nhân là sự phản
ánh một phần cụ thể của nhu cầu tin tập thể và nhu cầu tin cộng đồng. Nhu cầu tin của tập thể
và cộng đồng không tồn tại bên ngoài hoặc bên cạnh nhu cầu tin cá nhân.

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện

8



Như vậy, từ những quan điểm nêu trên, có thể thấy rằng: Nhu cầu tin là loại nhu cầu
tinh thần đặc biệt mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người
và là động lực để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Các nhu cầu tin của người dùng tin thường
nảy sinh khi họ nắm bắt được những kết quả của một lĩnh vực mà họ quan tâm, khi họ cần
nắm bắt được các thông tin dữ kiện, những số liệu và phương pháp cần cho công việc của họ.
Các nhu cầu tin này thay đổi tuỳ theo bản chất công việc và nhiệm vụ mà người dùng tin phải
hoàn thành.
1.1.1.3. Một số khái niệm liên quan đến nhu cầu tin
+ Yêu cầu tin:

Yêu cầu tin là sự thể hiện bằng lời hoặc bằng văn bản một phần nhu cầu tin của người
dùng tin đối với hệ thống thông tin tại thời điểm nhất định. Hay nói khác đi, yêu cầu tin là sự
biểu hiện cụ thể của nhu cầu tin dưới dạng một loại thông tin nhất định.
Trong công tác phục vụ thông tin, chu trình “Nhu cầu tin - yêu cầu tin” xảy ra 2 trường
hợp:
- Nhu cầu tin trùng khớp với yêu cầu tin (nghĩa là người dùng tin có khả năng diễn đàn

đầy đủ nhu cầu tin trong yêu cầu tin).
- Yêu cầu tin chỉ phản ánh được một phần (nghĩa là người dùng tin không có khả năng

diễn đạt hết nhu cầu tin của mình). Thường trong trường hợp này, người dùng tin phải nhờ sự
hỗ trợ của cán bộ.
- Trong nhiều trường hợp, nhu cầu tin của người dùng tin cụ thể thường được thể hiện

qua các yêu cầu tin cụ thể. Có 4 loại yêu cầu tin chủ yếu:
+ Thư mục: yêu cầu cung cấp chỉ dẫn các tài liệu về một vấn đề nào đó
+ Tài liệu: yêu cầu liên quan đến nội dung tài liệu
+ Dữ kiện: yêu cầu cung cấp số liệu về những dữ kiện cụ thể

+ Kỹ thuật: yêu cầu tư vấn, môi giới…
+ Sở thích tin:

Sở thích tin là nhu cầu tin thể hiện qua ý thức chủ quan của con người. Nhu cầu tin và
sở thích tin có sự tương đồng nhưng không thống nhất. Quá trình chuyển hóa nhu cầu tin
thành sở thích tin có sự chế định của ý thức chủ quan của mỗi cá nhân. Sở thích tin là nhu cầu
tin được biểu thị dưới sắc thái tình cảm. Sở thích tin có vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận
và sử dụng thông tin của người dùng tin. Sở thích tin có tác dụng định hướng quá trình tìm
kiếm và là chất xúc tác nâng cao hiệu quả lĩnh hội thông tin cho mỗi chủ thể.

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


Trong hoàn cảnh khách quan và chủ quan của mỗi con người mối quan hệ giữa nhu cầu
tin và sở thích tin cũng có thể xảy ra 2 trường hợp:
+ Nhu cầu tin trùng khớp với sở thích tin
+ Sở thích tin chỉ biểu đạt một phần nhu cầu tin

Thông qua 2 trường hợp trên có thể thấy rằng: Nếu con người có sở thích tin thì chắc
chắn có nhu cầu tin. Nhưng nếu con người có nhu cầu tin thì chưa chắc có sở thích tin. Đây
chính là kết luận có ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan thông tin và thư viện trong quá
trình phục vụ và đáp ứng thông tin cho các đối tượng người dùng tin.
1.1.2. Khái niệm ngƣời dùng tin
Người dùng tin là thuật ngữ dùng phổ biến thay cho bạn đọc, khách hàng. Người dùng
tin là cá nhân, nhóm cá nhân, tập thể, cơ quan, tổ chức sử dụng tài liệu và các dịch vụ của thư
viện nhằm mục đích học tập, nghiên cứu hoặc giải trí.
Người dùng tin là người sử dụng thông tin để thỏa mãn nhu cầu của mình. Người dùng
tin là người có nhu cầu tin, là chủ thể của nhu cầu tin. Giá trị của mỗi con người thể hiện ở
nhân cách của họ.
Người dùng tin là yếu tố cơ bản của mọi hệ thống thông tin. Đó là đối tượng phục vụ

của công tác thông tin tư liệu. Người dùng tin vừa là khách hàng của các dịch vụ thông tin,
đồng thời họ cũng là người sản sinh ra thông tin mới.
Người dùng tin giữ vai trò quan trọng trong các hệ thống thông tin. Họ như là yếu tố
tương tác hai chiều với các đơn vị thông tin. Người dùng tin luôn là cơ sở để định hướng các
hoạt động của đơn vị thông tin. Người dùng tin tham gia vào hầu hết các công đoạn của dây
chuyền thông tin. Họ biết các nguồn thông tin và có thể thông báo hoặc đánh giá các nguồn tin
đó. Trong hoạt động thông tin - thư viện, chính sách bổ sung phụ thuộc vào yêu cầu của người
dùng tin.
1.1.3. Khái niệm ngƣời khiếm thị
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: “Người khiếm thị là người sau khi được điều trị
hoặc điều chỉnh khúc xạ mà thị lực bên mắt tốt vẫn còn từ dưới 3/10 đến trên mức không nhận
thức được sáng tối, và bệnh nhân vẫn còn khả năng tận dụng thị lực này để lên kế hoạch và
thực thi các hoạt động hàng ngày”. [20]
Theo Tiến sĩ Gillian Burrington - nguyên giảng viên chính Khoa Thông tin - Thư viện
của Trường Đại học Bách khoa Manchester, người đã viết và điều hành nhiều chương trình tập
huấn về công tác quản lý, trong đó có cả vấn đề người khuyết tật cho rằng: “Thuật ngữ khiếm

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


thị dùng để mô tả tình trạng thị lực không thể điều chỉnh bằng kính thuốc hay phẫu thuật. Nó
bao gồm những người mắc bệnh thị lực chỉ còn một phần và những người bị mù hoàn toàn.
Một số người khiếm thị khó nhìn thấy những vật ngay trước mặt nhưng có thể nhìn thấy những
vật trên sàn nhà hoặc ở hai bên, một số người khác lại có thể thấy rõ ràng những vật ngay
trước mắt nhưng không thấy gì ở hai bên. Một số trường hợp bệnh lý có thể gây thị lực chỉ
nhìn lốm đốm từng vùng, một số bệnh lý khác ảnh hưởng đến sự nhận biết màu sắc hoặc khả
năng nhận biết khoảng cách. Cũng có một số người thì rất khó khăn khi gặp ánh nắng chói
chang và một số người khác có thể không nhìn thấy gì cả khi gặp ánh sáng yếu”. [8;29] Có thể
coi đây là khái niệm hoàn chỉnh nhất, bao quát nhất về người khiếm thị. Khái niệm này cho ta
một hình dung về người khiếm thị, cũng như những dạng khiếm thị cụ thể của con người.

Như vậy, thông qua các khái niệm, quan điểm nêu trên, chúng ta có thể nhìn nhận rằng:
người mù và người khiếm thị là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau bởi người mù hoàn toàn
không có khả năng nhận thức sáng tối. Để chỉ chung người khiếm thị và người mù người ta
thường dùng thuật ngữ người mù lòa (visually impaired) mà đôi khi còn có tên khác là người
suy giảm thị lực. Hay nói khác đi, người khiếm thị không hẳn là người mất hẳn khả năng nhìn.
Chẳng hạn, một số người có thị lực chỉ còn một phần vẫn có khả năng đọc sách có kích thước
chữ bình thường mà không cần sử dụng bất kỳ dụng cụ phóng to nào.
Vì vậy, các thư viện phải chú ý tới hai đối tượng khiếm thị này để phục vụ tốt nhu cầu
tin của họ, đặc biệt là các nhu cầu về hình thức tài liệu cũng như thói quen sử dụng các dịch
vụ.
1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng tới nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị
1.2.1. Yếu tố hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Nhu cầu tin được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển của xã hội, chịu
ảnh hưởng của điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội thể hiện trên hai
phương diện là chế độ chính trị - xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Hiện nay, khoa
học kỹ thuật càng phát triển thì nhu cầu tin càng phong phú và đa dạng.
Đối với người khiếm thị, yếu tố hoàn cảnh lịch sử - xã hội cũng tác động tới nhu cầu
tin của họ như những người dùng tin bình thường khác. Trong xã hội hiện đại, khi khoa học và
công nghệ phát triển, khi sự công bằng và phúc lợi xã hội được đề cao, người khiếm thị được
quan tâm tới đời sống văn hóa tinh thần nhiều hơn thì nhu cầu tin của họ cũng được kích thích,
hình thành và phát triển.
1.2.2. Yếu tố nghề nghiệp

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


Nghề nghiệp là hoạt động lao động chủ yếu của con người trong xã hội, đòi hỏi con
người cần có kỹ năng, kỹ xảo riêng để đáp ứng yêu cầu của công việc. Đối với người khiếm
thị, để nâng cao trình độ, họ luôn có nhu cầu tin đến các thông tin phù hợp với nghề nghiệp
của mình. Nghề nghiệp khác nhau để lại những dấu ấn khác nhau trong nội dung nhu cầu tin

và tập quán sử dụng thông tin của mỗi người. Lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp của người
khiếm thị cũng thường chi phối đến nhu cầu tin.
1.2.3. Yếu tố trình độ học vấn
Trình độ học vấn có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống tinh thần của người khiếm thị.
Trình độ văn hoá chứng tỏ sự phát triển trong đời sống tinh thần, người hiểu biết càng cao thì
nhu cầu đọc càng lớn, nhu cầu thông tin càng sâu và rộng. Đối với người khiếm thị, yếu tố này
tác động rất mạnh mẽ, đa phần người khiếm thị đều có trình độ học vấn hạn chế, khả năng tìm
kiếm thông tin phục vụ nhu cầu của mình là rất hạn chế.
1.2.4. Yếu tố lứa tuổi
Người dùng tin bình thường nói chung và người khiếm thị nói riêng cũng chịu sự tác
động của yếu tố này. Tuổi tác có ảnh hưởng đến năng lực nhận thức, tâm lý của con người, do
đó nó có ảnh hưởng đến nhu cầu tin của người dùng tin. Người khiếm thị càng lớn tuổi thì nhu
cầu tin của họ càng lớn, họ luôn có trong đầu những nhu cầu tin đa dạng, phong phú.
1.2.5. Yếu tố giới tính
Đặc điểm về giới tính được hình thành bởi các yếu tố như: Cấu trúc sinh lý, năng lực,
tâm lý. Những đặc điểm đó có ảnh hưởng đến nhu cầu tin của con người. Nhu cầu tin của nam
giới khác với nữ giới bởi nam giới có tính cách mạnh mẽ, tự tin, thích tìm tòi cái mới theo tư
duy logic…, còn nữ giới dịu dàng, mềm mại, tế nhị và thích các biểu lộ tình cảm… Có thể
thấy các đặc điểm giới tính cũng được biểu thị trong các sắc thái nội dung và cách thức thỏa
mãn nhu cầu tin của mỗi người.
1.2.6. Yếu tố sở thích cá nhân
Sự tác động của môi trường đến mỗi con người không giống nhau, sự tiếp thu của từng
người đọc trước tác động của các nhân tố khách quan cũng khác nhau. Bởi vậy sở thích cá
nhân khác nhau ở từng người dùng tin khiếm thị cụ thể, dẫn đến nhu cầu tin của mỗi người lại
khác nhau.
1.3. Tính chất của nhu cầu tin nói chung và nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị nói riêng
1.3.1. Tính xã hội

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


12


Nhu cầu tin xuất hiện và phát triển dưới ảnh hưởng của các nhân tố xã hội như điều
kiện đời sống tinh thần, vật chất và các quan hệ xã hội. Hay nói khác đi nhu cầu tin của con
người mang tính xã hội. Xã hội luôn luôn biến động, biến đổi và phát triển không ngừng, nhu
cầu tin luôn luôn phản ánh trình độ phát triển của xã hội. Con người sống trong những cộng
đồng khác nhau cũng có nhu cầu tin khác nhau.
1.3.2. Tính cơ động
Sự thay đổi linh hoạt của nhu cầu tin đồng thời cũng là một biểu hiện về tính cơ động
đặc biệt của nó. Nhu cầu tin có thể thay đổi, sinh ra và mất đi trong những điều kiện nhất định.
Nhu cầu mất đi khi đối tượng không được đáp ứng hoặc liên tục không được đáp ứng. Có thể
nói, cũng như các loại nhu cầu tinh thần khác của con người, nhu cầu tin có tính cơ động cao
hơn, dễ biến đổi hơn so với nhu cầu vật chất.
1.3.3. Tính bền vững
Nhu cầu tin khi được hình thành sẽ tồn tại trong những điều kiện nhất định và trong
khoảng thời gian nhất định. Điều đó có nghĩa là sự bền vững của nhu cầu tin phụ thuộc vào
điều kiện bên trong và các yếu tố bên ngoài tác động vào nó, trong đó có yếu tố mức độ thỏa
mãn nhu cầu tin.
Nhu cầu tin tồn tại và phát triển theo chu kỳ nhất định, nhưng độ dài của chu kỳ nhu
cầu tin không bền vững, phụ thuộc khá lớn vào điều kiện bên ngoài, đặc biệt là vào khả năng
đáp ứng của môi trường. Nếu được thỏa mãn tới mức tối đa, chu kỳ ngày càng rút ngắn.
Nhưng nếu không được thỏa mãn đầy đủ, chu kỳ sẽ kéo dài hơn.
1.4. Khái quát về Thƣ viện Hà Nội
1.4.1. Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển
Thư viện Hà Nội là một trong những hệ thống thư viện tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Thư viện được thành lập ngày 15/10/1956 với tên gọi ban đầu “Phòng đọc sách
nhân dân”. Thư viện đã qua nhiều lần thay đổi địa điểm. Đến tháng 1/1959, thư viện chính
thức đóng tại 47 Bà Triệu và mang tên “Thƣ viện nhân dân Hà Nội”, nay là Thư viện Hà
Nội.

Số lượng cán bộ trong những ngày đầu mới thành lập chỉ có 4 người, với vốn sách nhỏ
bé vài ngàn cuốn được chuyển từ kháng chiến về, ngoài ra là một số báo, tạp chí, cơ sở vật
chất của thư viện còn nghèo nàn. Tuy nhiên, cán bộ của thư viện đã tìm mọi cách khắc phục
khó khăn để từng bước đưa thư viện thành phố Hà Nội đi lên.

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện

13


Trong hoàn cảnh hoà bình vừa lập lại một nửa, đất nước bước vào giai đoạn phục hồi
kinh tế, thư viện đã tập trung sách báo phục vụ nhân dân thủ đô, đồng thời chú trọng phát triển
mạng lưới các thư viện cơ sở, từ một thư viện thành phố sau này phát triển thêm các thư viện
Quận (huyện) phục vụ nhân dân nội và ngoại thành.
Đến năm 1973, phòng Thông tin - Thư mục địa chí của Thư viện Hà Nội được thành
lập và tổ chức hoạt động với mục đích phục vụ bạn đọc tìm hiểu, nghiên cứu về Thủ đô. Có
thể nói, đây là quyết định đúng đắn của thư viện, nó đánh dấu bước ngoặt phát triển mới của
hoạt động thư viện Thủ đô.
Với mặt bằng khiêm tốn, sau nhiều lần được thành phố đầu tư nâng cấp đến nay công
trình tòa nhà của thư viện được đầu tư xây dựng hiện đại, gồm 8 tầng nổi và 1 tầng hầm, cao
2

29.7m, diện tích sàn 6.161m với hệ thống trang thiết bị đồng bộ, phụ trợ tốt cho hoạt động
phục vụ người đọc.
Sau gần 55 năm hoạt động, Thư viện Hà Nội đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp xây
dựng, phát triển và bảo vệ thủ đô cũng như “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài”. Vì thế, Thư viện Hà Nội đã vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần
thưởng cao quý như: Huân chương lao động (1991,1996, 2001); Huân chương Độc lập hạng
ba (2006), được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen ba năm liền (1977, 1978, 1979). Bên
cạnh đó, Thư viện Hà Nội cũng được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch) và Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố tặng 5 cờ thi đua xuất sắc dẫn đầu (1997,
2000, 2002, 2004 và 2005) và nhiều bằng khen khác.
Thư viện đang lưu giữ một kho tàng thư tịch khá đồ sộ của Thủ đô và nhân loại, nhiều
loại hình tài liệu cho người sáng và người khiếm thị; có phòng tra cứu, phòng địa chí về Thăng
Long - Hà Nội.
Năm 2008, Quốc hội thông qua Nghị quyết điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính
2

Thủ đô Hà Nội. Với hơn 3.300 km , Hà Nội được lọt vào hàng ngũ các thành phố, thủ đô có
diện tích lớn nhất thế giới. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: "Việc mở rộng địa giới
hành chính vừa bảo đảm không gian cho Hà Nội phát triển bền vững trong giai đoạn trước mắt
cũng như trong tương lai lâu dài, vừa tạo điều kiện cho Hà Nội phát triển toàn diện, xứng đáng
là trung tâm đa chức năng là yêu cầu cấp thiết hiện nay”.
Vì vậy, từ ngày 1/8/2009, Thư viện Hà Nội chính thức được hợp nhất với Thư viện tỉnh
Hà Tây. Hiện tại, thư viện có 2 cơ sở: 47 Bà Triệu (Quận Hoàn Kiếm) và 2B Quang Trung
(Quận Hà Đông).

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


Thư viện Hà Nội là thư viện công cộng lớn nhất của Thủ đô, trung tâm thông tin văn
hóa, giáo dục quan trọng của thành phố, là trung tâm đầu ngành của mạng lưới thư viện ở Thủ
đô. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, thư viện đã không ngừng lớn mạnh,
xứng đáng là địa chỉ văn hóa quen thuộc và đáng tin cậy cho bạn đọc Thủ đô và cả nước. Cũng
vì lẽ đó mà Thư viện Hà Nội có vị trí đặc biệt, vì thế nên được quy định chức năng và nhiệm
vụ vô cùng quan trọng.
1.4.2. Chức năng và nhiệm vụ
Thư viện Hà Nội có những chức năng chủ yếu như sau:
- Thư viện là trung tâm thu thập, tàng trữ, luân chuyển các loại hình sách báo, tài liệu


về tất cả mọi lĩnh vực phục vụ bạn đọc Hà Nội.
- Thư viện đồng thời là trung tâm nghiên cứu địa chí về Hà Nội. Đây là công tác đặc

thù, thư viện tiến hành thu thập, lưu trữ, tổ chức, bảo quản và phục vụ bạn đọc các tài liệu địa
chí từ nhiều nguồn khác nhau.
- Thư viện biên soạn và phổ biến các loại thư mục, nhất là thư mục địa chí nhằm phục

vụ tích cực các nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về Thủ đô và phục vụ đắc lực cho sự phát triển
kinh tế - văn hóa - xã hội của Thủ đô, cũng như của đất nước.
Đặc biệt, Thư viện Hà Nội còn là trung tâm hướng dẫn nghiệp vụ cho thư viện cơ sở
trên địa bàn Hà Nội. Thư viện kiểm tra và thường xuyên mở các lớp tập huấn bồi dưỡng
nghiệp vụ, nâng cao trình độ cán bộ thư viện cơ sở trên địa bàn nhằm đẩy mạnh phong trào
đọc sách của nhân dân địa phương.
Với những chức năng nêu trên, để thực hiện công tác điều hành, hoạt động, thư viện có
các nhiệm vụ như sau:
-

Thư viện Hà Nội có nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu đọc sách, nghiên cứu,

giải trí của đông đảo bạn đọc Hà Nội. Cung cấp cho cán bộ lãnh đạo nhà nước,
các nhà nghiên cứu, sản xuất và nhân dân Thủ đô những thành tựu khoa học tiến
bộ của nhân loại.
-

Tuyên truyền, giới thiệu tài liệu cho bạn đọc, tổ chức hướng dẫn bạn đọc

đọc những tài liệu bổ ích, có giá trị và loại bỏ những nhu cầu đọc không lành
mạnh.

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


15


-

Thu thập, xử lý, phân loại, lưu trữ các di sản văn hóa thành văn, các loại

bản đồ, bản nhạc, tài liệu nghe nhìn và các dạng tài liệu khác. Bảo quản và bổ
sung các loại hình sảch báo cũ và mới xuất bản trong nước, cũng như ngoài
nước, phù hợp với đặc điểm và phương pháp phát tiển kinh tế, văn hóa của địa
phương, phục vụ nhu cầu nghiên cứu, góp phần nâng cao kiến thức văn hóa cho
quần chúng.
-

Không ngừng phổ biến, tuyên truyền các thành tựu khoa học công nghệ.

Tổ chức luân chuyển sách báo, thường xuyên tiến hành soạn thảo các thư mục
sách mới.
-

Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và

nghiệp vụ cho các cán bộ cơ quan và hướng dẫn nghiệp vụ cho thư viện cơ sở.
-

Nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thư

viện.
1.4.3. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ

- Về cơ cấu tổ chức: Hiện tại Thư viện Hà Nội được cơ cấu như sau: Ban giám đốc,

Hội đồng khoa học và 5 phòng là: Phòng Hành chính - Tổng hợp, Phòng Bổ sung và xử lý kỹ
thuật, Phòng tin học, Phòng Địa chí và Thông tin thư mục (TTTM), Phòng Phục vụ bạn đọc
(PVBĐ), Phòng Nghiệp vụ và Phong trào cơ sở (NV&PTCS).
5 phòng nêu trên chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc Thư viện Hà Nội. Khi có
bất cứ thông tin gì liên quan đến kỹ thuật, nghiệp vụ, phục vụ người dùng tin, Ban giám đốc sẽ
chuyển thông báo xuống các phòng ban để triển khai về cho phòng mình. Đối với các phòng
như: Báo - Tạp chí, Đọc tổng hợp, Mượn, Khiếm thị, Thiếu nhi và Đọc chuyên biệt thuộc khối
Phòng Phục vụ bạn đọc. Các phòng thuộc khối phục vụ bạn đọc sẽ chịu trách nhiệm hỗ trợ lẫn
nhau mỗi khi có những công việc liên quan như. Minh họa dưới đây, cho ta thấy các quan hệ
chỉ đạo (với mũi tên

), quan hệ phối hợp (với mũi tên

Thư viện Hà Nội.
Hội đồng khoa học

Ban giám đốc

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện

) giữa các phòng ban trong


P. Hành chính Tổng hợp

P. Báo
- Tạp chí


- Về đội ngũ cán bộ: Hiện nay thư viện có 69 cán bộ. Trong đó có 50 cán bộ thuộc diện

biên chế, 19 cán bộ thuộc diện hợp đồng. Trình độ đội ngũ cán bộ cụ thể như sau:
STT
1.

Tiến sỹ

2.

Thạc sỹ

3.

Đại học ng

4.

Đại học ng

5.

Đại học ng

6.

Đại học ng

7.


Trung cấp

8.

Chưa qua đ

Có thể thấy, đội ngũ cán bộ của Thư viện Hà Nội đều là những người có trình độ cao.
Thư viện thường xuyên chú trọng đến việc nâng cao trình độ cho cán bộ như: cử cán bộ đi học
cao học về thông tin - thư viện, cử cán bộ đi học các lớp đào tạo về tiếng Anh, Tin học, hoặc
cử đi trao đổi, học tập ở các cơ sở trong và ngoài nước.
1.4.4. Đặc điểm cơ sở vật chất
Năm 2008, trụ sở 47 Bà Triệu được khánh thành và đi vào hoạt động gồm 8 tầng nổi và
2

1 tầng hầm, cao 29,7m, diện tích sàn 6.161m với hệ thống trang thiết bị đồng bộ, phụ trợ tốt
cho hoạt động phục vụ người đọc. Với trụ sở mới, cơ sở vật chất của thư viện được đồng bộ
hơn. Hệ thống phòng phục vụ của thư viện bao gồm:
- Phòng đọc báo và tạp chí có 50 chỗ ngồi
- Phòng đọc mở có 350 chỗ ngồi

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


- Phòng đọc sách ngoại văn có 40 chỗ ngồi
- Phòng đọc địa chí và thông tin thư mục có 10 chỗ ngồi
- Phòng đọc thiếu nhi có 30 chỗ ngồi
- Phòng đọc khiếm thị có 20 chỗ ngồi

Về trang thiết bị, thư viện hiện có các loại máy móc như: máy hút bụi, máy hút ẩm,
máy điều hòa, hệ thống tự động phòng chống hỏa hoạn, các trang thiết bị về ánh sáng, quạt

thông gió. Tất cả các trang thiết bị này đều được trang bị ở tất cả các phòng.
Về ứng dụng công nghệ thông tin, thư viện có khoảng 40 máy tính dùng cho cán bộ
thư viện lưu trữ cơ sở dữ liệu, phục vụ bạn đọc tra cứu tài liệu và truy cập Internet. Thư viện
trang bị 4 máy in, trong đó có 3 máy in lazer và một máy in kim phục vụ việc in văn bản, in
phích, nhập worksheet, xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu. Thư viện hiện đang sử dụng phần
mềm Libol thống nhất ở hai cơ sở. Bên cạnh đó, thư viện còn có 8 máy điện thoại, 2 máy
photocopy phục vụ sao in tài liệu cho bạn đọc có nhu cầu. Từ năm 2005, thư viện tiến hành
nối mạng Internet phục vụ bạn đọc và xây dựng trang Web của thư viện, tuy nhiên ở thời điểm
này, trang Web vẫn còn nghèo nàn.
1.4.5. Đặc điểm nguồn lực thông tin
Về nguồn tài liệu truyền thống, thư viện có hơn 600.000 cuốn sách, 450 loại báo và tạp
chí trong và ngoài nước.
Về nguồn tài liệu điện tử, thư viện đã tạo lập 6 cơ sở dữ liệu với hơn 174.000 biểu ghi. Về tài
liệu địa chí, thư viện hiện đang lưu giữ 13.510 tài liệu địa chí Hà Nội (trong đó có 154 cuốn
sách tiếng Pháp, 68 cuốn sách tiếng Anh). Mảng tài liệu địa chí nhiều nhất là
tiếng Việt với 7.759 cuốn có các tài liệu đặc biệt quý hiếm như:
- Hương ước: 475 bản
- Thư tịch Hán Nôm: 850 cuốn
- Văn bia Hà Nội: trên 1682 bản
- Bản đồ: 55 tờ
- Báo, tạp chí về Hà Nội đóng bìa: 1263 cuốn
- Bên cạnh đó, thư viện đã hoàn thiện và cho ra mắt “Tủ sách Thăng Long” với 1159

tài liệu đúng dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Về tài liệu phục vụ người khiếm thị, thư viện hiện có nguồn lực như sau:

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện

18



- Với tài liệu chữ nổi, thư viện có 2531 cuốn và thường xuyên tiến hành đặt Thành hội

người mù Hà Nội sản xuất với giá thành: 3000đ/trang. Tính bình quân 01 trang sách tương
đương 04 trang chữ nổi.
- Với nguồn sách nói, thư hiện có 70 đĩa CD-ROM, 1911 cuộn băng cassette bằng hình

thức thư viện tự sản xuất và thông qua nguồn biếu tặng. Trong hai năm chuyển trụ sở sang
Thành cổ nên đã không sản xuất tiếp và không có kinh phí hoạt động.
1.5. Vai trò của việc nghiên cứu nhu cầu tin nói chung và nhu cầu tin của ngƣời khiếm
thị nói riêng
1.5.1. Vai trò của nghiên cứu nhu cầu tin của ngƣời dùng tin nói chung
Hệ thống thông tin muốn đạt được hiệu quả kinh tế và khoa học thì phải nghiên cứu kỹ
nhu cầu tin của người dùng tin. Việc nghiên cứu nhu cầu tin của người dùng tin nói chung có ý
nghĩa và vai trò hết sức quan trọng, bởi các lý lẽ sau:
- Giúp các thư viện tạo ra nguồn tin phù hợp với từng đối tượng người dùng tin, từng

mức độ người dùng tin.
- Nghiên cứu nhu cầu tin để các thư viện tổ chức xây dựng các sản phẩm thông tin,

dịch vụ thông tin, thiết kế mối quan hệ thông tin, hệ thống thông tin và xây dựng các công cụ
thông tin tương ứng phù hợp với từng đối tượng người dùng tin để đảm bảo cho hệ thống
thông tin đạt kết quả cao.
- Việc nghiên cứu nhu cầu còn giúp thư viện xây dựng chương trình đào tạo người

dùng tin, đảm bảo cho họ có những kiến thức sâu rộng về thông tin và sử dụng thành thạo các
phương tiện hiện đại.
1.5.2. Vai trò của nghiên cứu nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị
Như đã trình bày ở trên, người khiếm thị là một trong những đối tượng đặc biệt, họ bị
hạn chế ở nhiều mặt. Cụ thể là: Họ luôn có tâm lý mặc cảm, vì vậy họ ngại giao tiếp. Do hạn

chế về thị lực nên việc đi lại đối với họ là rất khó khăn. Hơn nữa, cũng chính vì khiếm thị nên
họ không tự mình tìm tòi, quan sát để tìm ra những phương pháp tra cứu, tìm tài liệu thích hợp
và có hiệu quả. Mặt khác, sự hạn chế trong giao lưu và hoạt động xã hội của họ cũng chính là
rào cản để họ nảy sinh nhu cầu thông tin. Vì vậy, hơn đối tượng người dùng tin khác, thư viện
tiến hành nghiên cứu nhu cầu tin của họ có vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn. Chính việc
nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị là thể hiện sự quan tâm của xã hội, cộng đồng, là
nguồn động viên họ nảy sinh nhu cầu tin, tiếp cận tri thức của nhân loại, nâng cao chất lượng
cuộc sống về văn hóa, tinh thần cho người khiếm thị, giúp họ hòa nhập với cộng đồng dễ dàng

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


hơn, giúp họ tự tin trong cuộc sống, góp phần cống hiến vào sự phát triển chung của đất nước,
của cộng đồng. Ngoài ra, việc nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị là vô cùng cần thiết
và quan trọng, nó giúp các thư viện thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Trên cơ sở thực trạng nhu cầu tin của người khiếm thị để xây dựng chiến lược bổ

sung tài liệu, chuyển dạng tài liệu để tạo ra nguồn tài liệu, nguồn tin ngày càng phong phú cho
người khiếm thị, giúp họ gắn bó hơn và hòa nhập hơn với cộng đồng.
- Nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị sẽ nắm bắt được thói quen tra cứu, sử

dụng tài liệu, khả năng khai thác tri thức trong tài liệu để các thư viện xây dựng các sản phẩm
và cải tiến dịch vụ phục vụ người khiếm thị ngày càng tốt hơn. Đồng thời, học hỏi kinh
nghiệm và sáng kiến của các thư viện khác trong việc phục vụ người khiếm thị.
- Việc nghiên cứu nhu cầu còn giúp thư viện xây dựng chương trình đào tạo người

khiếm thị, giúp họ nắm bắt được nhiều hơn, mở mang trình độ kiến thức và năng lực của bản
thân.
- Nghiên cứu nhu cầu tin của người khiếm thị để nâng cao hiệu quả hoạt động của thư


viện và góp phần triển khai Luật “Người khuyết tật” mới được Quốc hội thông qua đi vào
cuộc sống thực tiễn.
CHƢƠNG 2. NHU CẦU TIN VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG
NHU CẦU TIN CỦA NGƢỜI KHIẾM TẠI THƢ VIỆN HÀ NỘI
2.1. Khái quát về ngƣời khiếm thị tại Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng
2.1.1. Khái quát về ngƣời khiếm thị tại Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội năm 2010, cả nước 1 triệu
người bị đa khuyết tật. Tham khảo các báo cáo kết quả điều kiều của Bộ Lao động - Thương
binh và xã hội và các tài liệu khảo sát có liên quan, ta có thể thấy thực trạng về người tàn tật
trong đó có người khiếm thị ở Việt Nam có thể được phản ánh như sau:
Các dạng tật chủ yếu:
Dạng

V

Tỉ lệ
Nguyên nhân của các dạng tật :
TT

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện

20


1.

Bẩm sinh

2.


Bệnh tật

3.

Tai nạn lao động

4.

Tai nạn giao thông

5.

Tai nạn chiến tranh

6.

Nguyên nhân khác

Qua bảng thống kê trên, có thể thấy người tàn tật cơ quan vận động chiếm tỉ lệ cao
nhất (chiếm 35.46%), sau đó là thị giác (chiếm 15.70%) và thần kinh (chiếm 13.93%). Nguyên
nhân dẫn tới tàn tật là do: bẩm sinh (chiếm 34.15%), bệnh tật (chiếm 35.75%) và tai nạn chiến
tranh (chiếm 19.07%). Riêng với nguyên nhân tai nạn chiến tranh thì tỉ lệ nam tàn tật cao hơn
nữa.
Nói về hiện trạng người tàn tật có liên quan tới mắt: Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và xã hội, có khoảng 5.1 triệu người có khuyết tật về mắt, chiếm khoảng 6% dân
số.
Trong xã hội cũ, người tàn tật nói chung và người khiếm thị nói riêng bị đặt ra ngoài lề
xã hội, trên 95% bị mù chữ, đa đa số chỉ sống với nghề hát xẩm, tẩm quất, hoặc lang thang ăn
xin ở các bến tàu, bến xe. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, nhờ được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, sự dìu dắt của Hội Người mù nên đời sống của người khiếm thị cơ bản
được thay đổi. Hội người mù Việt Nam từ khi ra đời đã xây dựng được tổ chức ở 43 tỉnh,

thành phố và 365 Quận (huyện). Với chức năng chăm sóc mọi mặt tinh thần và đời sống vật
chất cho hội viên, Hội người mù Việt Nam đã tổ chức nhiều lớp dạy chữ, dạy nghề cho hội
viên làm cho trình độ học vấn của hội viên ngày càng được nâng cao.
Bên cạnh đó, người khuyết tật nói chung và người khiếm thị Việt Nam nói riêng rất vui
mừng khi được Đảng, Nhà nước quan tâm tới các chính sách hỗ trợ cho mình. Việc ban hành
Pháp lệnh về người tàn tật đã cho thấy rõ điều này. Hiện nay, có rất nhiều chính sách và biện
pháp của Chính phủ Việt Nam được thực hiện để hỗ trợ người khiếm thị, cải thiện mức sống
và tăng cường việc hội nhập xã hội. Đặc biệt, có thể kể đến chính sách đảm bảo của các cơ
quan, xí nghiệp phải sử dụng tối thiểu 2% lực lượng lao động của mình là người khuyết tật.
Tính đến năm 2010 đã có hơn 400 cơ sở sản xuất, kinh doanh lần lượt sử dụng hơn 20.000
người khuyết tật. Chính phủ đã có quy định về tiêu chuẩn xây dựng, bảo đảm cho người
khuyết tật phải tiếp cận được.

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện

21


Trong lĩnh vực giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có chỉ thị cho việc áp dụng
các chương trình và cơ sở giáo dục hội nhập, các chương trình giáo dục bán hội nhập và đặc
biệt dành sự quan tâm cho đối tượng người khiếm thị. Chữ Braille cũng được tuyên bố là ngôn
ngữ chính thức trong trường phổ thông và sách giáo khoa bằng chữ nổi cũng đã được Bộ Giáo
dục và Đào tạo in ấn.
2.1.2. Khái quát về ngƣời khiếm thị tại Thủ đô Hà Nội
Tại Hà Nội, theo số liệu thống kê của Thành hội người mù, số lượng người khiếm thị
của Thủ đô là 12.000 người trên tổng số 60.052 hội viên cả nước (số liệu: 12/2010). Họ bị
khiếm thị do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là bị bẩm sinh, do tai nạn, hoặc do chi chứng
của chiến tranh hoặc do bệnh tật như: bệnh đục thuỷ tinh thể (chiếm 57.1%); các bệnh bán
phần sau nhãn cầu (chiếm 13.6%); bệnh glôcôm và teo nhãn cầu (chiếm 9.8%)....
Bên cạnh việc làm kinh tế gia đình bằng chăn nuôi trồng trọt, hay làm những công việc

để mưu sinh như xoa bóp, sản xuất tăm chổi….Người khiếm thị ở Hà Nội đã được dạy chữ,
dạy nghề và được tạo điều kiện để thu nhập ngày càng tăng lên. Tuy vậy, đặc điểm đời sống
của người khiếm thị nhìn chung còn nghèo, việc tìm đến sách để thỏa mãn nhu cầu của mình
còn gặp nhiều khó khăn, mặc dù nhu cầu tiếp cận của họ vô cùng phong phú.
Về trình độ học vấn, họ có trình độ ngày càng cao. Số lượng người có trình độ trung
học cơ sở đến sau đại học chiếm đa số (khoảng 25 - 30%). Toàn Thành hội người mù Hà Nội
có khoảng 40 người có trình độ đại học. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trên địa bàn Hà
Nội có khoảng 600 người có nhu cầu thường xuyên đọc sách báo, trên 100 người có khả năng
truy cập Internet. Những con số này cho thấy một lượng cầu không nhỏ đối với công tác phục
vụ cộng đồng người khiếm thị của các thư viện công cộng trên địa bàn.
2.2. Đặc điểm nhu cầu tin của ngƣời khiếm thị tại Thƣ viện Hà Nội
Với số lượng bạn đọc khiếm thị tăng lên theo từng năm cùng với sự tăng trưởng kinh
tế, phát triển về văn hóa, sự tăng nhanh và phong phú các xuất bản phẩm và các công tác tuyên
truyền giới thiệu sách báo đã tạo điều kiện để nhu cầu tin tăng lên.
Để có cơ sở khoa học cho việc nắm bắt đặc điểm nhu cầu tin của người khiếm thị của
Thư viện Hà Nội, tác giả đã tiến hành điều tra 110 người khiếm thị thông qua phương pháp
điều tra bằng phiếu hỏi, kết hợp với phương pháp phỏng vấn sâu.
- Số phiếu phát ra: 110 phiếu
- Số phiếu thu về: 110 phiếu (Tỉ lệ 100%)

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện

22


- Số lượng các câu hỏi trong phiếu điều tra: 11 câu và đề cập tới những nội dung chính

sau:
+ Quý độc giả tiếp cận tới vốn tài liệu thư viện với mục đích gì?
+ Quý vị thường dành bao nhiêu thời gian cho việc đọc tài liệu?

+ Quý độc giả có nhu cầu đọc tài liệu có nội dung thuộc lĩnh vực nào?
+ Quý vị thường có nhu cầu sử dụng loại hình tài liệu nào dưới đây?
+ Quý vị có nhu cầu sử dụng tài liệu bằng hình thức nào?
+ Ngôn ngữ tài liệu quý vị có nhu cầu sử dụng?
+ Vốn tài liệu của thư viện phục vụ cho Quý vị như thế nào?
+ Quý vị thường tìm được tài liệu thông qua hình thức nào dưới đây?
+ Quý vị có nhu cầu được thư viện hướng dẫn tìm tin?
+ Theo quý vị, thái độ phục vụ của cán bộ thư viện như thế nào?
+ Quý vị cho biết mức độ cần ưu tiên cho các giải pháp trong thời gian tới của thư

viện?
Và dưới đây, tác giả sẽ lần lượt làm rõ đặc điểm nhu cầu tin của người khiếm thị tại
Thư viện Hà Nội. Trước tiên là bảng tổng hợp đặc điểm lứa tuổi và trình độ học vấn của người
khiếm thị Thủ đô Hà Nội thông qua phiếu khảo sát.

Bảng 1: Đặc điểm lứa tuổi và trình độ văn hóa của người khiếm thị

Lứa tuổi

Dưới 18 tuổi
Từ 18 đến 25 tuổi
Từ 26 đến 45 tuổi

Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện

23


Từ 46 đến 60 tuổi
Trên 60 tuổi

Tổng cộng
Như vậy phân theo nhóm sẽ là:
- Nhóm người dưới 18 tuổi chiếm 9.09%
- Nhóm người từ 18 đến 25 tuổi chiếm 25.45%
- Nhóm người từ 26 đến 45 tuổi chiếm 41.82%
- Nhóm người từ 46 đến 60 tuổi chiếm 20%
- Nhóm người trên 60 tuổi chiếm 3.64%

Thông qua bảng khảo sát, có thể thấy ở các lứa tuổi khác nhau sẽ có các trình độ học
vấn khác nhau. Lứa tuổi có trình độ học vấn cao nhất là lứa tuổi từ 26 đến 45 tuổi (chiếm
41.82%). Điều này có thể giải thích rằng đây là lứa tuổi chiếm đa số ở các cơ sở người mù
hiện nay, xu hướng những người trẻ bị khiếm thị cũng đang gia tăng bởi trước khi bị khiếm
thị, họ phải thực hiện nhiều công việc nguy hiểm có liên quan trực tiếp đến mắt, hoặc do bị tai
nạn nghiêm trọng.....
2.2.1. Mục đích sử dụng tài liệu
* Với lứa tuổi dƣới 18 tuổi: Tác giả tiến hành nghiên cứu 10 người dùng tin của Thư

viện Hà Nội là học sinh trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu. Mặc dù trường PTCS Nguyễn
Đình Chiểu có thư viện riêng nhưng số lượng tài liệu còn nghèo nàn và Thư viện Hà Nội đôi
lúc “chưa chú trọng” đến đối tượng này.
Bảng 2: Mục đích sử dụng tài liệu của lứa tuổi dưới 18 tuổi
Trình độ
học vấn
THCS

SL
10

Kết quả điều tra cho thấy: 100% có số người được hỏi đều sử dụng tài liệu với mục đích
học tập. Điều này chỉ ra rằng: Ở lứa tuổi này, nhu cầu tiếp cận tri thức là rất cao, và hầu hết tri thức

này đều nằm trong sách giáo khoa, sách tham khảo và thông qua kiến thức thầy cô giảng trên lớp.
Lứa tuổi dưới 18 là lứa tuổi đến trường, không phải chỉ có người khiếm thị mới có nhu cầu học
tập, mà cả những người bình thường ở độ tuổi này đều có nhu cầu “làm chủ” tri thức để phục vụ
các công việc trong tương lai của mình. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Trẻ em Việt Nam ngày nay
được hưởng nền giáo dục tốt hơn. Khoảng 95% trẻ trong độ tuổi đi học được đến trường. Các cơ
hội tăng cường sự tham gia của trẻ em ngày càng được mở rộng. Việt


Bàn Thị Năm K52 Thông tin – Thư viện


×