Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Sự biến đổi đời sống văn hóa của cư dân nông thôn huyện thường tín, hà nội trong sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THỊ MẾN

Ự IẾN Đ I ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƢ DÂN
NÔNG THÔN HUYỆN THƢỜNG TÍN, HÀ NỘI
TRONG SỰ NGHIỆP Đ I MỚI

LUẬN VĂN THẠC Ĩ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THỊ MẾN

Ự IẾN Đ I ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƢ DÂN
NÔNG THÔN HUYỆN THƢỜNG TÍN, HÀ NỘI
TRONG SỰ NGHIỆP Đ I MỚI

LUẬN VĂN THẠC Ĩ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 80 22 90 01 02

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Thị Phƣợng


Hà Nội – 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS. Ngô Thị Phượng. Các số liệu, tư liệu và tài liệu
được sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ
ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.

TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Mến


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ của
các thầy, cô giáo Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN,
đặc biệt là các thầy, cô giáo Khoa Triết học - những người trực tiếp dạy dỗ,
dìu dắt tận tình cho tôi trong suốt quá trình tôi học tập và rèn luyện tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Ngô Thị Phượng, người đã
dành rất nhiều tâm huyết và thời gian hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè - những người
đã luôn sát cánh bên tôi, động viên, cổ vũ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn
thành luận văn một cách tốt nhất.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn Ban lãnh đạo và nhân dân huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội, những người trực tiếp tạo điều kiện và giúp
đỡ nhiệt tình tôi trong quá trình nghiên cứu, khảo sát, điền dã, để tôi có được
những tư liệu quý báu hoàn thành luận văn này.
Mặc dù tôi đã cố gắng bằng tất cả sự nhiệt tình và năng lực của mình,
nhưng luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được

những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 06 năm 2020
Học viên

Nguyễn Thị Mến


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................... 7
6. Đóng góp mới của luận văn ........................................................................ 8
8. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 9
CHƢƠNG 1. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƢ DÂN NÔNG THÔN HUYỆN
THƢỜNG TÍN, HÀ NỘI TRONG SỰ NGHIỆP Đ I MỚI ..................... 10
1.1. Khái niệm và cấu trúc đời sống văn hóa .............................................. 10
1.1.1. Khái niệm văn hóa ............................................................................... 10
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa ................................................................ 15
1.1.3. Cấu trúc của đời sống văn hóa ............................................................ 19
1.2. Khái quát về huyện Thƣờng Tín và các yếu tố tác động đến đời sống
văn hóa của cƣ dân nông thôn huyện Thƣờng Tín, Hà Nội trong sự
nghiệp đổi mới ............................................................................................... 29
1.2.1. Khái quát về huyện Thường Tín, Hà Nội ........................................... 29
1.2.2. Một số yếu tố tác động đến đời sống văn hóa của cư dân nông thôn

huyện Thường Tín, Hà Nội trong sự nghiệp đổi mới .................................. 36
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 48
CHƢƠNG 2. SỰ BIẾN Đ I ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƢ DÂN
NÔNG THÔN HUYỆN THƢỜNG TÍN, HÀ NỘI TRONG SỰ NGHIỆP
Đ I MỚI: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ............................................. 49


2.1. Thực trạng biến đổi đời sống văn hóa của cƣ dân nông thôn huyện
Thƣờng Tín, Hà Nội trong sự nghiệp đổi mới ............................................ 49
2.1.1. Biến đổi theo chiều hướng tích cực đời sống văn hóa của cư dân
nông thôn huyện Thường Tín, Hà Nội trong sự nghiệp đổi mới ................ 49
2.1.2. Biến đổi theo chiều hướng tiêu cực đời sống văn hóa của cư dân
nông thôn huyện Thường Tín, Hà Nội trong sự nghiệp đổi mới ................ 66
2.2. Một số giải pháp chủ yếu phát huy những biến đổi tích cực và hạn
chế những biến đổi tiêu cực trong đời sống văn hóa của cƣ dân nông thôn
huyện Thƣờng Tín, Hà Nội hiện nay ........................................................... 72
2.2.1. Nhóm giải pháp về liên quan đến chủ thể văn hóa ............................ 73
2.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến các giá trị văn hóa ............................ 80
2.2.3. Nhóm giải pháp liên quan đến các thiết chế, thể chế văn hóa và tổ
chức các hoạt động văn hóa .......................................................................... 83
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 92
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

BCH

: Ban chấp hành


BCĐ

: Ban chỉ đạo

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

UBND

: Ủy ban nhân dân

VHTT&DL

: Văn hóa Thể thao và Du lịch

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn ba mươi năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản khởi
xướng, đất nước Việt Nam đã cơ bản thoát khỏi tình trạng nước nghèo, nước
kém phát triển, để bước vào thời kỳ phát triển mới, nhằm từng bước hiện thực
hóa mục tiêu xây dựng nước Việt Nam thành một quốc gia “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong quá trình đổi mới, đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở
Việt Nam đã có sự thay đổi căn bản theo hướng phát triển, tiến bộ. Từ nền
kinh tế kế hoạch hóa, tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, với nhiều thành phần kinh tế, đã khai thác được tiềm năng, thế
mạnh của bản thân người lao động cũng như từng địa phương, khu vực trên
lãnh thổ Việt Nam. Sự thay đổi trong đời sống kinh tế là yếu tố quyết định
đến sự thay đổi trong đời sống văn hóa, xã hội và sự ổn định chính trị - xã hội
của đất nước cũng như của từng khu vực, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng
bằng, trung du đến miền núi. Tuy nhiên, sự thay đổi đời sống kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội trong quá trình đổi mới ở mỗi địa phương, mỗi khu vực
diễn ra với mức độ không giống nhau, điều đó, tùy thuộc vào điều kiện kinh
tế, xã hội, vị trí địa lý, tiềm năng thế mạnh đặc thù và con người ở mỗi địa
phương, khu vực cụ thể.
Với đặc điểm là một nước nông nghiệp, nên khu vực nông thôn là địa bàn
cư trú chủ yếu người dân Việt Nam. Nông thôn Việt Nam cũng là khu vực có ý
nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của đất nước. Trong quá trình đổi mới, bộ
mặt nông thôn Việt Nam đã có những thay đổi vượt bậc, theo hướng tiến bộ trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, đời sống văn hóa là lĩnh vực có nhiều
dấu ấn đặc sắc. Các giá trị văn hóa truyền thống được giữ gìn và phát huy, các

giá trị văn hóa, thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại được tiếp thu trong xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1


Thường Tín là một huyện ngoại thành, nằm ở phía Nam của thành phố
Hà Nội. Trong quá trình đổi mới, đặc biệt từ khi sáp nhập về thủ đô Hà Nội,
năm 2008 đến nay, Thường Tín đang có sự thay đổi căn bản về cơ cấu kinh tế,
cơ cấu xã hội, cũng như đời sống văn hóa. Từ một huyện, mà cơ cấu kinh tế
cho thấy sản xuất nông nghiệp là chính chuyển sang cơ cấu kinh tế công
nghiệp, xây dựng - thương mại, dịch vụ - nông nghiệp, trong đó kinh tế nông
nghiệp chiếm tỷ lệ thấp nhấp. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó gắn liền với
quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa với tốc độ ngày càng tăng đã dẫn đến
những biến đổi nhanh chóng trong đời sống văn hóa của cư dân nông thôn
huyện Thường Tín theo hai chiều hướng, cả tích cực và tiêu cực.
Điểm nhấn trong sự phát triển đời sống văn hóa của cư dân huyện
Thường Tín là mặt bằng dân trí nói chung, trình độ khoa học, công nghệ trong
lao động sản xuất và cuộc sống sinh hoạt được nâng cao. Đời sống tinh thần
ngày càng phong phú, các nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân được đảm
bảo. Các lễ hội truyền thống tôn vinh các danh nhân lịch sử, làng nghề tuyền
thống được duy trì. Các phong trào xã hội hướng tới giá trị văn hóa, nhân văn
được tổ chức thường xuyên với sự tham gia tích cực của đông đảo cư dân trên
địa bàn Huyện.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển đời sống văn hóa của cư dân huyện
Thường Tín theo hướng tích cực, còn không ít những biểu hiện lệch lạc ở mọi
tầng lớp xã hội, nhất là thế hệ trẻ. Những yếu tố phản văn hóa, phản phát triển
biểu hiện cả trong văn hóa lao động sản xuất, văn hóa giáo dục, văn hóa chính
trị, văn hóa lãnh đạo quản lý và trong đời sống tinh thần của cư dân. Những
yếu tố phản văn hóa, phản phát triển đó, nếu không được phát hiện và ngăn
chặn kịp thời thì mục tiêu phát triển nhanh, mạnh, toàn diện, bền vững xã hội

sẽ không thể đạt được.

2


Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn vấn đề: “Sự biến đổi đời sống
văn hóa của cư dân nông thôn huyện Thường Tín, Hà Nội trong sự nghiệp
đổi mới” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài của luận văn, đã có nhiều công trình nghiên cứu
được công bố dưới dạng sách, bài viết hoặc các ấn phẩm khác. Các công trình
đó, được phân chia thành các nhóm sau:
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa nông thôn Việt Nam
Đời sống văn hóa nông thôn Việt Nam là vấn đề thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, khi tìm hiểu về văn
hóa Việt Nam. Đã có nhiều công trình đồ sộ của các nhà nghiên cứu lớn như
Phan Đại Doãn, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Quang Ngọc… được công bố. Kế
thừa và tiếp nối các công trình đó, gần đây có một số công trình tiêu biểu sau:
- Bài viết Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là các giá trị cơ bản
của văn hóa làng Việt, tạp chí Xã hội học, số 1, 2009 của tác giả Mai Văn Hai.
Bài biết đã phân tích sự biến đổi gia đình, dòng họ, thôn làng với tích cách là
những thiết chế xã hội cơ bản ở nông thôn. Cùng với sự biến đổi của ba thiết chế
xã hội đó là sự biến đổi những giá trị văn hóa. Từ những biến đổi ấy, tác giả đã
chứng minh rằng, trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị
trường, gia đình, dòng họ và thôn làng có thêm sức sống mới.
- Vũ Ngọc Khánh (2010), Văn hóa làng ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Điểm nổi bật trong cuốn sách này là tác giả đã cung cấp
cho người đọc thấy đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở làng xã Việt Nam. Cư
dân nông thôn dường như không có hoạt động tôn giáo rành mạch, rõ ràng
như ở đô thị. Họ tin và thờ cả Trời, Phật, Thánh, Thần. Tín ngưỡng của
người Việt rất thực tiễn, tâm lý thiên về sự cân bằng, sự bù đắp, mong mỏi

một kết thúc có hậu, nỗi khổ hôm nay phải được bù đắp về sau. Con người
tin có cõi tiên nhưng cần cuộc sống thực ở chốn trần gian. Cuốn sách cũng
3


đề cập đến đặc điểm văn hóa dân gian ở làng thông qua văn học nghệ thuật,
kho tàng văn hóa phi vật thể và các lễ hội phong phú của làng Việt.
- Phan Thanh Tá (2011), Văn hóa cổ truyền trong làng xã Việt Nam hiện
nay, Nxb Lao Động. Cuốn sách trình bày tổng quan về văn hóa cổ truyền Việt
Nam, coi văn hóa làng là phương thức chuyển tải của văn hóa cổ truyền Việt
Nam. Văn hóa làng luôn có sự vận động, biến đổi cùng với văn hóa dân tộc quốc gia. Ngày nay, văn hóa cổ truyền đang chịu tác động bởi các yếu tố:
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, nền giáo dục hiện đại, công nghệ thông tin và truyền thông đại
chúng. Những nhân tố này đã và đang làm cho văn hóa làng chuyển dịch tới
văn hóa đô thị.
- Phạm Quỳnh Chinh, Văn hóa làng trong quá trình đô thị hóa ở đồng
bằng sông Hồng hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2018. Tác giả luận án
đã nghiên cứu và khái quát đặc trưng văn hóa làng Việt Nam, sự biến đổi của
văn hóa làng Việt Nam dưới tác động của quá trình đô thị hóa theo hai chiều
hướng tích cực tiêu cực, biểu hiện trên một số phương diện: phong tục, tập
quán, văn hóa - nghệ thuật, tổ chức quản lý cộng đồng. Qua đây, tác giả cũng
cho thấy, ở các địa bàn đang diễn ra quá trình đô thị hóa nhanh, văn hóa làng
đang trong thời kỳ quá độ sang văn hóa đô thị. Ở đó dấu vết “làng” và dấu
vết “đô thị” đan cài với nhau, chi phối lẫn nhau. Dấu vết văn hóa “làng” còn
tồn tại nhưng không còn nguyên gốc, dấu vết văn hóa “đô thị” hình thành nhưng
chưa hoàn thiện.
….

4



2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa của cư dân Thủ
đô Hà Nội và cư dân nông thôn huyện Thường Tín, Hà Nội
- Trần Đức Ngôn (2004), Văn hóa truyền thống làng xã ngoại thành Hà
Nội dưới tác động của nền kinh tế thị trường, đề tài khoa học cấp Bộ. Ở công
trình này, tác giả xem xét sự biến đổi của văn hóa truyền thống thông qua sự
biến đổi của văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể ở khu vực ngoại thành Hà
Nội, trong đó có huyện Thường Tín. Mặc dù không định lượng sự biến đổi của
văn hóa truyền thống, nhưng sự biến đổi của văn hóa truyền thống là không
tránh khỏi trong sự phát triển của kinh tế thị trường. Trước sự biến đổi đó, hiện
đang có hai xu hướng thái độ khác nhau đối với văn hóa truyền thống, xu
hướng bảo tồn và xu hướng phủ định.
- Ngô Văn Giá (chủ biên), (2007), Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền
thống ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Cuốn sách trình bày về sự thay đổi của văn hóa làng xã vùng ven đô Hà
Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thành phố Hà Nội
và các vùng ngoại ô là nơi chứa đựng đầy đủ những giá trị của nền văn hóa
truyền thống Việt Nam. Dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xu hướng đô thị hóa và nền kinh tế thị trường. Các giá trị văn
hóa truyền thống , giá trị cộng đồng làng, giá trị gia đình, giá trị đạo đức cá nhân
đang biến đổi theo hai chiều hướng, tích cực và tiêu cực.
- Lê Quang Hưng (chủ biên), Nguyễn Văn Thắng, Mai Thị Hạnh, (2015),
Sự biến đổi văn hóa truyền thống vùng ven đô Hà Nội trong bối cảnh đô thị
hóa, Nxb Thế giới. Cuốn sách nghiên cứu văn hóa truyền thống ở ba phương
diện: văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa tổ chức làng xã. Dưới tác
động của quá trình đô thị hóa, văn hóa truyền thống đang có sự chuyển biến
căn bản, theo hai xu hướng, xu hướng phục hồi văn hóa truyền thống, xu hướng
du nhập, hình thành và phát triển những yếu tố văn hóa mới. Ở đó, lối sống
công nghiệp, văn hóa đô thị đang tràn vào làng xã. Văn hóa truyền thống được

5


tái hiện nhưng không đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng văn hóa ngày càng đa
dạng phong phú của cư dân.
Cùng với đó là một số cuốn sách của tập thể các tác giả đã nghiên cứu về
đời sống văn hóa của cư dân nông thôn huyện Thường Tín, Hà Nội như:
- Cuốn “Các nhà khoa bảng, trí thức và nghệ nhân tiêu biểu huyện
Thường Tín (1075 – 2015)” (2016), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật. Nội dung
cuốn sách đã tập trung khái quát về quá trình phát triển của sự nghiệp giáo dục
- đào tạo; trình bày những đóng góp quan trọng của các nhà khoa bảng, trí thức
và nghệ nhân tiêu biểu huyện Thường Tín trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
quê hương, đất nước; góp phần thể hiện nét đẹp đáng tự hào về truyền thống vẻ
vang của quê hương Thường Tín. Qua đó, gợi mở định hướng phát triển nguồn
nhân lực, chất lượng cao cho cư dân huyện Thường Tín trong thời kỳ đổi mới.
- Cuốn “Làng quê Thường Tín xưa và nay” (2017), Nxb Chính trị Quốc gia
Sự thật. Đây là công trình khảo cứu dưới góc nhìn lịch sử - văn hóa về làng quê
Thường Tín, gồm 3 phần. Phần thứ nhất, khái quát về lịch sử của vùng đất
Thường Tín xưa như: Lịch sử tên gọi địa danh, quá trình hình thành và phát triển
của làng quê Thường Tín; giới thiệu những giá trị văn hóa đặc sắc của làng quê
Thường Tín xưa và nay. Phần thứ hai, phân tích những nhân tố tác động và sự
biến đối của làng quê Thường Tín; đề ra một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa làng quê Thường Tín trong giai đoạn hiện nay. Phần thứ ba
giới thiệu nét đặc sắc ở 32 làng quê thuộc 29 xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
- Năm 2017, phát hành cuốn “Tập bài giảng Lịch sử huyện Thường Tín”
với nội dung giới thiệu về đặc điểm các xã, thị trấn và những di tích lịch sử văn hóa của huyện được xếp hạng. Một số câu chuyện gắn với lịch sử - văn hóa
của cư dân huyện Thường Tín. Cuốn tập bài giảng được sử dụng làm tài liệu
tham khảo quan trọng trong các nhà trường trên địa bàn huyện, để giáo viên
giảng dạy về lịch sử địa phương cho học sinh hiểu biết sâu sắc về lịch sử - văn
hóa của quê hương mình.

6


Ngoài ra, còn một số công trình khác, dưới dạng bài viết đăng tạp chí, báo
nghiên cứu về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cư dân ngoại thành Hà Nội
trong thời kỳ đổi mới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự biến đổi đời sống văn hóa của
cư dân nông thôn huyện Thường Tín, Hà Nội trong sự nghiệp đổi mới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu sự biến đổi đời sống văn hóa của cư
dân huyện Thường Tín trên các phương diện cơ bản: các chủ thể văn hóa, giá
trị văn hóa, các thiết chế, thể chế văn hóa và các hoạt động văn hóa.
- Về không gian: Luận văn thực hiện nghiên cứu tại địa bàn huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội bao gồm một thị trấn và 28 xã.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu sự biến đổi đời sống văn hóa của cư
dân nông thôn huyện Thường Tín, Hà Nội, đặc biệt trong thời gian từ 2008,
khi huyện Thường Tín được sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Từ những vấn đề lý luận chung về đời sống văn hóa, luận văn trình bày
những biến đổi cơ bản trong đời sống văn hóa của cư dân nông thôn huyện
Thường Tín, Hà Nội trong sự nghiệp đổi mới, đề xuất giải pháp nhằm phát
huy những biến đổi tích cực và hạn chế những biến đổi tiêu cực trong đời
sống văn hóa của cư dân trên địa bàn huyện Thường Tín, Hà Nội.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Trình bày khái niệm văn hóa, đời sống văn hóa và cấu trúc đời sống văn hóa.
- Trình bày các yếu tố tác động đến đời sống văn hóa của cư dân nông

thôn huyện Thường Tín, Hà Nội trong sự nghiệp đổi mới.
7


- Phân tích những biến đổi cơ bản đời sống văn hóa của cư dân nông
thôn huyện Thường Tín, Hà Nội trong sự nghiệp đổi mới.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích
cực và hạn chế những biến đổi tiêu cực trong đời sống văn hóa của cư dân
nông thôn huyện Thường Tín, Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa,
đời sống văn hóa. Ngoài ra, Luận văn còn kế thừa kết quả của các công trình
khoa học đã công bố liên quan đến đời sống văn hóa Việt Nam, đời sống văn
hóa của vùng Đồng bằng sông Hồng và của Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng phương pháp kết hợp logic và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, khái quát hóa và trừu tượng hóa, một số phương pháp
cụ thể của xã hội học như thống kê, phỏng vấn, so sánh.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã trình bày thực trạng đời sống văn hóa cư dân nông thôn
huyện Thường Tín, Hà Nội trong sự nghiệp đổi mới. Từ đó, đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực và hạn chế những
biến đổi tiêu cực trong đời sống văn hóa của cư dân nông thôn huyện Thường
Tín, Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ những biến đổi cơ bản đời sống văn hóa ở

nông thôn Việt Nam trong quá trình đổi mới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
8


Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu về
văn hóa, đời sống văn hóa trong quá trình đổi mới đất nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.

9


CHƢƠNG 1
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƢ DÂN NÔNG THÔN
HUYỆN THƢỜNG TÍN, HÀ NỘI TRONG SỰ NGHIỆP Đ I MỚI
1.1. Khái niệm và cấu trúc đời sống văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là phạm trù được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, tùy
thuộc vào góc độ tiếp cận, mục tiêu nghiên cứu của mỗi người hoặc cộng
đồng người. Tuy nhiên, điểm thống nhất trong mọi cách tiếp cận về văn hóa là
khi nói tới văn hóa là nói tới con người, chỉ ở con người, văn hóa là giá trị
người. Văn hóa là kết quả sáng tạo của con người, vì con người.
Khái niệm văn hóa theo cách tiếp cận phương Đông
Ở phương Đông, thuật ngữ văn hóa được sử dụng sớm nhất vào năm 77
trước Công Nguyên. Ở phương Đông, văn hóa bắt nguồn từ Trung Quốc, với
ý nghĩa là một phương thức giáo hóa con người Văn trị giáo hóa (phương
thức đối ngược lại với phương thức vũ lực).

Văn hóa được hiểu là toàn bộ sản phẩm có giá trị xã hội do con người
sáng tạo ra trong quá trình hoạt động sống cùng với các phương thức hoạt
động sống khác của các cộng đồng người tạo nên văn minh vật chất và văn
minh tinh thần trong quá trình phát triển xã hội loài người.
Theo một góc nhìn khác, nghiên cứu văn hóa còn được hiểu là thiên
nhiên thứ hai, được loài người sáng tạo ra. Trong đó, chia thành hai hệ thống
hoạt động là hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động sản xuất tinh thần, điều
cốt lõi của việc chi phối các hoạt động này là hệ giá trị xã hội của nó. Văn hóa
được xem là cái mà ở đó mỗi người được sinh ra và lớn lên, vì thế môi trường
văn hóa sẽ là tác nhân trực tiếp, tác động trực tiếp tới sự hình thành nhân
cách, sự phát huy mọi năng lực sáng tạo của con người và khả năng giao tiếp
giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên.
10


Khái niệm văn hóa theo cách tiếp cận phương Tây
Ở phương Tây thời cận đại, khái niệm văn hóa được dùng để chỉ trình độ
học vấn, học thức, tri thức, phép lịch sự của con người. Đến nay, khái niệm
“văn hóa” vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và do đó có những định nghĩa khác
nhau về văn hóa.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con
người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [108, tr. 13]. Với góc
nhìn từ định nghĩa này, văn hóa và văn minh được coi là đồng nghĩa. Văn hóa
bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín
ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật... Định nghĩa này mang tính “bách
khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người [10, tr. 39].
Cùng nghiên cứu về văn hóa, nhà nghiên cứu F. Boas lại có định nghĩa,
rằng: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt

động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa
có tính tập thể, vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự
nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm
và của chính các thành viên này với nhau” [106, tr.149]. Ở định nghĩa này,
thấy được mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là yếu tố quan
trọng trong việc hình thành văn hóa của con người.
Ngoài ra, một định nghĩa khác về văn hóa mà A.L. Kroeber và
Kluckhohn đưa ra là “Văn hóa là những mô hình hành động minh thị và ám
thị được truyền đạt dựa trên những biểu trưng, là những yếu tố đặc trưng của
từng nhóm người... Hệ thống văn hóa vừa là kết quả hành vi vừa trở thành
nguyên nhân tạo điều kiện cho hành vi tiếp theo”[107, tr.357].

11


Cũng nghiên cứu về khái niệm văn hóa, theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, văn hóa gắn liền với sự sáng tạo và năng lực của con người. Ở
góc nghiên cứu này, sức sáng tạo đó được hiểu là sáng tạo từ lao động sản
xuất. Và theo C.Mác, dựa trên mức độ khai thác, cải tạo tự nhiên của con
người để có thể xét được trình độ văn hóa chung của con người.
Khái niệm văn hóa theo cách tiếp cận Việt Nam
Ở Việt Nam có rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực văn hóa.
Mặc dù được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau nhưng khái niệm văn hoá bao giờ
cũng có thể quy về hai cách hiểu chính là: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Khi nghiên cứu về văn hóa, tác giả Trần Ngọc Thêm Theo định nghĩa về
văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con ngƣời sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội
của mình” (tác giả Trần Ngọc Thêm ghi đậm) [80, tr.27]. Theo ông, văn hoá
được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc theo

thời gian. Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa
của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật,...). Giới hạn theo chiều rộng,
văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp,
văn hoá kinh doanh,...). Giới hạn theo không gian, văn hoá được dùng để chỉ
những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam
Bộ,...). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong
từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn,…). Ở đây, văn hóa
được xem xét theo nghĩa hẹp.
Còn theo nghĩa rộng, văn hoá bao gồm tất cả những gì do con người
sáng tạo ra. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
12


bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn” [65, tr. 431] . Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ
những gì do con người sáng tạo và phát minh ra, là những lĩnh vực liên quan
đến mọi mặt của đời sống con người.
Một cách hiểu khác, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn
hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả
những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt
quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa)
bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí
tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo
vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu
bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [34, tr. 18]. Với cách hiểu này thì

văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên, do con người sáng tạo nên từ
tư tưởng, tình cảm đến ý thức và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Khái niệm văn hóa theo cách tiếp cận của UNESCO
Văn hóa là một hiện tượng xã hội biểu hiện mọi mặt của đời sống, hoạt
động và quan hệ của con người với xã hội. Có rất nhiều các định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Cùng bàn về khái niệm văn hóa thì UNESCO đưa ra định
nghĩa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt
của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khú
cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng rào thế kỉ, nó đã cấu thành
nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên
đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình” [94, tr. 23]. Định
nghĩa này có cái nhìn toàn diện và hoàn chỉnh hơn về văn hóa với việc nhấn
mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình
phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên
13


những giá trị có tính nhân văn phổ quát, cũng như tạo nên tính đặc thù của
mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc trong việc duy trì và bảo vệ văn
hóa hiện nay.
Vì vậy, văn hóa của từng cộng đồng, tộc người sẽ mang những nét đặc
trưng và riêng biệt của cộng đồng, tộc người đó. Mỗi sự khác nhau được hình
thành ở những tộc người khác nhau, trong những môi trường sống khác nhau.
Đặc biệt hơn, văn hóa sẽ bị chi phối mạnh mẽ bởi sự kiểm soát của xã hội,
thông qua những mối quan hệ như gia đình và các tổ chức xã hội, trong đó có
tôn giáo.
Từ những quan điểm khác nhau về văn hóa nêu trên, có thể thấy có bao
nhiêu nhà nghiên cứu văn hóa thì có bấy nhiêu định nghĩa về văn hoá. Mặc dù
số lượng định nghĩa về văn hoá có rất nhiều nhưng các định nghĩa ấy chỉ xoay
quanh một số khuynh hướng cơ bản:

Khuynh hướng thứ nhất, coi văn hóa là những kết quả (sản phẩm) nhất
định. Đó có thể là những giá trị, những truyền thống, những nếp sống, những
chuẩn mực, những tư tưởng, những thiết chế xã hội, những biểu trưng, ký
hiệu, những thông tin được một cộng đồng nào đó đã sáng tạo, kế thừa, và
tích luỹ trong quá trình lao động, sản xuất.
Khuynh hướng thứ hai, xem văn hoá như những quá trình. Là bao gồm
những hoạt động sáng tạo, những công nghệ, những qui trình, những phương
thức tồn tại, sinh sống và phát triển, cách thức thích ứng với môi trường,
phương thức ứng xử của con người trong xã hội.
Khuynh hướng thứ ba, xem văn hoá như những quan hệ, những cấu trúc
giữa các giá trị, giữa con người với đồng loại và muôn loài tồn tại xung quanh
cuộc sống của con người.
Các khuynh hướng, định nghĩa khác nhau của các nhà nghiên cứu về văn
hóa đều có sự hợp lý. Tuy giữa các khuynh hướng, định nghĩa có sự khác biệt
nhưng chung quy lại là do các tác giả đã quá nhấn mạnh vào khía cạnh này
14


hay khía cạnh khác của khái niệm. Ở góc nhìn hay khuynh hướng nào, mọi
định nghĩa văn hoá đều chứa một nét nghĩa chung là con người, các kết quả
nghiên cứu đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn hóa với
con người.
Như vậy, thông qua những quan niệm trên, theo cách hiểu của tác giả
luận văn, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần, do con người sáng
tạo ra trong hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân
con người. Văn hóa phản ánh trình độ phát triển của con người ở cả góc độ cá
nhân, cộng đồng hoặc nhân loại. Nhìn vào văn hóa, sẽ thấy con người phát
triển ở mức độ nào, và con người nào thì sẽ tạo ra văn hóa đó.
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa
Là một lĩnh vực có chức năng và vai trò hết sức quan trọng trong đời

sống thực tiễn của con người, “đời sống văn hóa” đã được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm tìm hiểu và phân tích theo nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Khái niệm đời sống văn hóa có thể coi là một bộ phận trong đời sống xã
hội của con người. Trong đó, khái niệm “Đời sống” trong Đại từ điển tiếng
Việt do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên khẳng định như sau: Đời sống
là“hoạt động của con người về một lĩnh vực nào đó nói chung”[105, tr. 670].
Còn theo Từ điển bách khoa mở, ngoài nghĩa nói trên, “đời sống” còn được
hiểu là phương tiện để sống, lối sống của cá nhân hay tập thể, vì vậy, thường
có các khái niệm như đời sống xa hoa, đời sống cần kiệm, v.v...
Đời sống của con người bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng ở
đó đều có sự liên quan mật thiết với nhau, như: đời sống kinh tế, đời sống
chính trị, đời sống xã hội, đời sống văn hóa, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo...
Như vậy, đời sống văn hóa là lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Khẳng
định vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
cho rằng công cuộc kiến thiết nước nhà, là bao gồm bốn vấn đề: chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa và đều phải coi trọng ngang nhau. Người còn chỉ rõ
15


kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây
dựng kiến trúc thượng tầng. Từ đó, Người nêu ra luận điểm phải xây dựng
kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn
hóa. Người lý giải: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế
và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có
câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển
để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân ta” [66, tr. 59].
Vậy thế nào là “đời sống văn hóa”?
Quan niệm về văn hoá và cấu trúc văn hóa có sự liên quan chặt chẽ đến
đời sống văn hoá. Đây chính là cơ sở để xét khái niệm đời sống văn hoá và

nội dung, vai trò của xây dựng đời sống văn hoá.
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội. Đời sống xã hội
được cấu thành bởi hai mặt: vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật
chất của đời sống xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội.
Đời sống văn hoá chính là sự phản ánh biểu hiện tập trung nhất các mặt của
văn hoá, từ hoạt động sáng tạo, hưởng thụ đến quan niệm về giá trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo,…
Dưới góc độ nghiên cứu các chiều cạnh khác nhau, các tác giả đã đưa ra
những quan niệm khác nhau về đời sống văn hóa. Theo quan niệm của tác giả
Hoàng Vinh trong công trình nghiên cứu “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây
dựng văn hoá ở nước ta” cho rằng: “Đời sống văn hóa là bộ phận của đời
sống xã hội, bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật
thể, các thiết chế văn hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người
và các dạng hoạt động văn hóa của nó). Xét về một phương diện khác, đời
sống văn hóa bao gồm các hình thức văn hóa hiện thực và cả các hình thức
sinh hoạt văn hóa tâm linh”[97, tr. 268].

16


Định nghĩa này về cơ bản đã phản ánh được cấu trúc của đời sống văn
hóa, song trong đó vẫn chưa đề cập đến những giá trị văn hóa. Đồng thời,
cách diễn đạt như thế chưa làm rõ được bản chất của đời sống văn hóa vì chỉ
nêu các yếu tố cấu thành ở thể biệt lập.
Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Hữu Thức trong công trình
“Một số kinh nghiệm quản lý và hoạt động tư tưởng - văn hóa”, quan niệm
rằng: “Đời sống văn hóa được hiểu một cách khái quát là hiện thực sinh động
các hoạt động của con người trong môi trường sống để duy trì, đồng thời tái
tạo sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn
mực xã hội nhất định nhằm không ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội

và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng sống của chính con người”[86,
tr. 35].
Đời sống văn hoá là đời sống diễn ra ở cộng đồng gia đình, làng, bản,
xóm, ấp, doanh nghiệp, cơ quan, bệnh viện, v.v.. Đặc điểm cơ bản của đời
sống văn hoá là các hoạt động văn hoá diễn ra gắn liền với sinh hoạt vật chất
và tinh thần của cá nhân và cộng đồng trong các mối liên kết thường xuyên,
trực tiếp với không gian địa lý nhất định cùng với hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật và các thiết chế văn hoá nhất định. Mỗi cộng đồng dân cư sống cố định
và hình thành một tổ chức hành chính (xã, phường, trường học, bệnh viện)
hay một cộng đồng nhỏ hơn (gia đình, chòm, xóm) đều có thể được xem là
đơn vị văn hoá. Xây dựng đời sống văn hoá có thể hiểu là xây dựng văn hoá
ngay từ trong gia đình và trong cộng đồng dân cư, cộng đồng nghề nghiệp
diễn ra sinh hoạt văn hoá thường nhật của quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, năm 2007 cuốn “Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá” của
Đảng cho rằng đời sống văn hoá bao gồm 4 yếu tố: văn hoá vật thể và phi vật
thể; cảnh quan văn hoá; văn hoá cá nhân; văn hoá của các tầng lớp cư dân
trong mỗi cộng đồng, từ đó Đảng đã nêu lên khái niệm về đời sống văn hoá
là: “một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng thể những yếu tố hoạt
17


động văn hoá vật chất và tinh thần, những tác động qua lại lẫn nhau trong
đời sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hoá trong cộng đồng, trực
tiếp hình thành nhân cách và lối sống của con người”[44, tr. 269-270].
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về đời sống văn hóa. Tuy nhiên, các
định nghĩa về đời sống văn hóa hầu hết không đồng nhất và do đó nhận thức
về đời sống văn hóa không chỉ căn cứ vào lý luận mà còn phải căn cứ vào đời
sống thực tế, vào phương diện và mục đích tiếp cận. Từ những cách hiểu trên
đây về đời sống văn hóa và các lĩnh vực văn hóa, trong phạm vi đề tài nghiên
cứu, trên cơ sở quan niệm của các tác giả đã nêu, luận văn đưa ra khái niệm

đời sống văn hóa như sau: Đời sống văn hóa là toàn bộ hoạt động văn hóa,
thể hiện và thực hiện mối quan hệ của con người với tự nhiên, với bản thân
con người, với xã hội cùng với các giá trị văn hóa, các thiết chế, thể chế văn
hóa hiện hữu trong đời sống của con người. Các hoạt động văn hóa, gồm hoạt
sáng tạo các giá trị văn hóa, hoạt động truyền bá, lưu giữ giá trị văn hóa và
hoạt động hưởng thụ giá trị văn hóa.
Theo cách hiểu như vậy, đời sống văn hóa gồm các mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, đời sống văn hóa là quá trình diễn ra sự trao đổi thông qua các
hoạt động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng sống của con người.
Thứ hai, đời sống văn hóa lại là các yếu tố văn hóa mà con người tiếp
thu được tác động vào đời sống vật chất để con người biến đổi môi trường tự
nhiên tạo lập môi trường nhân văn, làm ra được nhiều sản phẩm vật chất cho
xã hội; tác động vào đời sống tinh thần để con người thỏa mãn nhu cầu chủ
quan của mình, như đáp ứng các yêu cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối
sống; tác động vào đời sống xã hội để xây dựng một hệ thống các giá trị
chuẩn mực xã hội. Đồng thời, đời sống văn hóa lại có vai trò tác động vào
chính bản thân đời sống cá nhân nhằm mục đích điều chỉnh hành vi ứng xử và
giúp cá nhân đó tìm được hướng đi tốt nhất cho cuộc đời mình và đem lại lợi
ích cho xã hội.
18


×