Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh yên bái hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.27 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

Lê Hoài Nam

Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường
chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI - 2008

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

Lê Hoài Nam

Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường
chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Mã Số: 60 22 80
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hồ Trọng Hoài

HÀ NỘI - 2008

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đổi mới hệ thống
chính trị, phát huy dân chủ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta
và hội nhập với thế giới hiện nay. Vì vậy, Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường giáo
dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một
cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”[25, tr.57]. Do đó, việc nâng cao
ý thức pháp luật cho công dân là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn
được các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và các đoàn
thể quần chúng đặc biệt quan tâm nhằm góp phần xây dựng một xã hội văn
minh, kỷ cương, pháp luật của nhà nước được tăng cường.
Trước yêu cầu đó, nhiệm vụ nâng cao ý thức pháp luật cho công dân cần
phải được triển khai rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân đặc biệt trong học
sinh, sinh viên - nguồn nhân lực quan trọng của xã hội. Bởi sự hiểu biết về hệ
thống, các quy phạm pháp luật hiện hành; thái độ tôn trọng đối với pháp luật và
ứng xử phù hợp với yêu cầu của pháp luật... là cơ sở cho mỗi học sinh, sinh
viên nâng cao, phát triển ý thức pháp luật. Đây cũng là một trong những đòi
hỏi bức thiết đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu nguồn
nhân lực cho công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện
nay.
Ở các tỉnh miền núi, những đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn

hoá, xã hội, truyền thống, phong tục, tập quán... nhiều khi đã trở thành những
“trở lực” cho quá trình nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công
dân, thực hành dân chủ, “tăng cuờng kỷ cương, kỷ luật”. Vì vậy, làm rõ thực
trạng và nguyên nhân ý thức pháp luật và chấp hành pháp luật của học sinh


3


các trường chuyên nghiệp ở các tỉnh miền núi, từ đó đề xuất các phương
hướng, giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho nguồn nhân lực này có
ý nghĩa quan trọng trong quá trình thể chế hoá pháp luật, trau dồi văn hoá pháp

lý, “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, thực hiện tốt đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước... của mỗi công dân ở nước ta hiện nay. Chính
vì vậy, tôi đã chọn “Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường
chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học
cho mình. Từ tên đề tài này, hy vọng, qua các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng
cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở địa phương, góp
phần vào việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên trên địa bàn
các tỉnh miền núi nói riêng và cả nước nói chung, đáp ứng yêu cầu nâng cao ý
thức pháp luật công dân trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề về pháp luật, ý thức pháp luật, vai trò của pháp luật, giáo
dục pháp luật, biện pháp giáo dục pháp luật trong nhà trường, tình hình chấp
hành pháp luật của học sinh, sinh viên... ở nước ta hiện nay đã được nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các công trình như: “Những đặc điểm
của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, Luận án TS
Triết học của Đào Duy Tấn (2000); “Giáo dục pháp luật trong các trường đại
học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện
nay”, Luận án PTS Luật học của Đinh Xuân Thảo (1996); Đào Trí Úc với “Xây
dựng ý thức và lối sống theo pháp luật” (Chương trình khoa học công nghệ cấp
nhà nước KX 07-17); PTS.Trần Ngọc Đường - Dương Thanh Mai với “Bàn về
giáo dục pháp luật” (1995); “Một số vấn đề về giáo dục pháp luật ở miền núi
và vùng dân tộc thiểu số” của Nguyễn Duy Lãm chủ biên (1996); TS. Nguyễn

Đình Đặng Lục với “Giáo dục pháp luật trong nhà trường” (2004); “Tăng
cường giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc miền

4


núi tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay” Luận văn tốt nghiệp cao cấp chính
trị của Lò Thị Nga (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001); Vương
Thanh Hương – Nguyễn Minh Đức với “Thực trạng phạm tội của học sinh,
sinh viên trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà
trường”(1995)… ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu, bài báo, bài viết về
vấn đề này, nhưng đều nghiên cứu ở tầm vĩ mô. Vì vậy, nghiên cứu về ý thức
pháp luật của học sinh các trường chuyên nghiệp ở một tỉnh miền núi thông
qua điều tra tại các trường này là đề tài hết sức mới mẻ, chưa từng được quan
tâm, tìm hiểu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở phân tích thực trạng ý thức pháp luật
của học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái nhằm đề xuất các giải
pháp góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng này, đáp ứng yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực với chất lượng ngày càng cao của địa phương hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ bản chất, chức năng của ý thức pháp luật và tầm quan trọng của

việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh
Yên Bái hiện nay.
- Phân tích thực trạng ý thức pháp luật của học sinh các trường chuyên

nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các


trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng ý thức pháp luật của
học sinh các trưòng chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái và nguyên nhân của thực
trạng đó.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là ý thức pháp luật của học sinh các
trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh Yên Bái (thông qua khảo sát các

5


trường: Trung học Nông - Lâm Yên Bái, Trung học Kinh tế Yên Bái, Trung
học Y tế Yên Bái, Trung học Văn hóa nghệ thuật Yên Bái, Trường Trung cấp
nghề tỉnh Yên Bái).
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu của luận văn gồm các sách, báo, bài viết trên những Tạp
chí chuyên ngành; các luận án, luận văn và các công trình nghiên cứu khác có
liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu:
- Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh.
- Sử dụng các phương pháp: phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, điều

tra, biểu đồ...
6. Đóng góp của luận văn

Về mặt khoa học: Luận văn góp phần khẳng định sự quan thiết của việc
nâng cao ý thức pháp luật của học sinh, sinh viên của các trường chuyên nghiệp
nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay.


Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà
trường, các cơ quan pháp luật trong quá trình tuyên truyền và giáo dục ý thức
pháp luật cho học sinh, sinh viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
kết cấu của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Ý thức pháp luật và tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức
pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay
Chương 2: Ý thức pháp luật của học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh
Yên Bái hiện nay - thực trạng và nguyên nhân
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh
các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay.

6


Chương 1
Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NÂNG

CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG
CHUYÊN NGHIỆP Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY
1.1. Ý thức pháp luật - khái niệm, cấu trúc, chức năng và con đường hình thành
1.1.1- Khái niệm ý thức pháp luật
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật ra đời và tồn tại trong xã hội
có giai cấp và nhà nước. Là một trong những biểu hiện của trình độ văn hóa xã
hội, ý thức pháp luật tồn tại khách quan cùng với các hình thái ý thức xã hội
khác như: tôn giáo, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, khoa học…và bị quy định bởi
trình độ kinh tế - xã hội nhất định. Vì vậy, ý thức pháp luật mang tính khách
quan, tính xã hội; nó tồn tại phổ biến trong ý thức cá nhân và toàn xã hội. Nó

phản ánh đời sống pháp luật của xã hội – một bộ phận của tồn tại xã hội. Như
vậy, ý thức pháp luật trước hết là sự phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội
ở một giai đoạn nhất định của lịch sử, đồng thời nó cũng phản ánh mức độ tác
động của giai cấp thống trị đối với xã hội, nghĩa là phản ánh lợi ích của giai
cấp thống trị. Trong sự phát triển của xã hội có giai cấp, ý thức pháp luật phản
ánh tính đa dạng, phức tạp của đời sống pháp luật và mong muốn của giai cấp
nắm quyền lực để điều chỉnh hành vi xử sự của con người bằng các quy tắc
nhằm tạo lập trật tự xã hội nhất định theo ý chí và lợi ích của giai cấp đó. Vậy
ý thức pháp luật là gì? Có nhiều câu trả lời về vấn đề này.
Quan niệm thứ nhất khẳng định: “Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã
hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật” [25, tr.7]. Quan
niệm này mang tính khái quát cao nhưng chưa phản ánh được kết cấu, chức
năng, vai trò của ý thức pháp luật và nhất là chưa chỉ ra nguồn gốc cơ bản hình
thành ý thức pháp luật.

7


Quan niệm thứ hai: thường đi vào nhấn mạnh một mặt của ý thức pháp luật.
Thí dụ cho: ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm pháp luật
và tâm lý pháp luật; là những hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm
pháp luật cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật
[25,tr 7]; hoặc cho rằng: ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư
tưởng quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ
thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã
qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá tính hợp pháp hay không
hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong hoạt động của các
cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội [25,tr.8]; hoặc nhấn mạnh ý thức của chủ
thể pháp luật: ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân
về pháp luật… ý thức pháp luật còn là thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn

trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi vi phạm pháp luật
và phạm tội [25, tr.8].
Quan niệm thứ ba cho rằng: ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là
tổng thể những quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con
người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ đối với pháp luật
hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính công bằng hay không công
bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua
và pháp luật trong tương lai, và hành vi hợp pháp, hành vi không hợp pháp của
cá nhân, các cơ quan nhà nước, tổ chức [25, tr.8]. Quan niệm này đã chỉ ra
được kết cấu, nội dung, tính chất, của ý thức pháp luật.
Vì vậy có thể khẳng định: Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã
hội, phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội thông qua những
quan điểm, tư tưởng, tình cảm, thái độ của con người đối với pháp luật, về
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật, tính hợp pháp hay không hợp
pháp trong hành vi xử sự của con người trong xã hội nhằm bảo vệ trật tự xã

8


hội hiện hành và các lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội theo ý chí của giai cấp
cầm quyền.
Ý thức pháp luật phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội,

trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật, song
nó có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội và các hình thái ý thức xã hội
khác. Ý thức pháp luật của một thời đại bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội
của thời đại đó, do vậy nó chịu sự quy định của điều kiện vật chất xã hội, khi
kinh tế - xã hội chuyển biến thì ý thức pháp luật tất yếu biến đổi theo và làm
cho pháp luật biến động. Ý thức pháp luật cũng có thể lạc hậu, chậm biến đổi
hơn so với tồn tại xã hội, có thể tồn tại cũ mất đi nhưng ý thức pháp luật vẫn có

thể được duy trì trong thời gian dài, đặc biệt là tâm lý pháp luật. Tuy nhiên,
trong những điều kiện nhất định, tư tưởng pháp luật có thể vượt trước so với
tồn tại xã hội, nó thể hiện tính tiên tiến, mở đường cho sự phát triển pháp luật.
Ý thức pháp luật mang tính kế thừa sâu sắc. Nó kế thừa những yếu tố tích cực
của ý thức pháp luật thời đại trước đó; cho nên những tư tưởng, quan niệm
pháp luật tiến bộ được truyền từ thời đại này qua thời đại khác, được tiếp nhận
trao đổi giữa các nước. Ý thức pháp luật có sự tác động trở lại đối với tồn tại
xã hội. Nó có thể phản ánh đúng và cải tạo xã hội. Ý thức pháp luật có mối
quan hệ tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác, đặc biệt là đối
với ý thức đạo đức và ý thức chính trị. Ý thức pháp luật phản ánh mối quan hệ
giữa người với người đối với các quy tắc được chấp nhận trong xã hội nhất
định. Ý thức pháp luật chịu sự tác động trực tiếp của ý thức chính trị bởi vì bản
chất pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền được thể hiện thành luật lệ. Mỗi
chế độ xã hội có giai cấp chỉ có một hệ thống pháp luật duy nhất thể hiện ý chí
của giai cấp cầm quyền, mặc dù trong xã hội còn có hệ tư tưởng, quan điểm
pháp luật của các giai cấp khác, thể hiện ý chí và phản ánh lợi ích riêng của
giai cấp đó nhưng đều bị chi phối bởi ý chí của giai cấp cầm quyền. Như vậy
trong mối quan hệ với ý thức chính trị, ý thức pháp luật bị

9


định hướng bởi ý thức chính trị. Điều này khẳng định tính giai cấp của ý thức
pháp luật. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, lương tâm,
trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… Nó phản ánh mối quan hệ giữa các cá
nhân, từ đó con người điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa
cá nhân với cá nhân trong xã hội. Ý thức chính trị chi phối ý thức pháp luật,
ngược lại ý thức pháp luật phản ánh những yêu cầu của ý thức chính trị dưới
góc độ pháp luật. Cả ý thức pháp luật và ý thức đạo đức đều hướng vào điều
chỉnh hành vi con người nên chúng có sự tương hỗ với nhau. Nhìn chung, ý

thức pháp luật, đạo đức, chính trị nằm trong mối quan hệ hữu cơ và đều phản
ánh tồn tại xã hội nhất định. Cũng khác với tôn giáo, ý thức pháp luật lại sản
phẩm của sự nhận thức lý tính, dù ở trình độ khác nhau nhưng đều có sự sàng
lọc của con người về những điều được coi là cần thiết, bắt buộc phải tuân theo
trong mọi hoạt động, mọi ứng xử để đảm bảo lợi ích của toàn xã hội, mà trước
hết là lợi ích của giai cấp cầm quyền. Ý thức pháp luật khác với ý thức thẩm
mỹ ở chỗ, ý thức thẩm mỹ là ý thức về sự thỏa mãn trước cái đẹp. Về cái đẹp
có thể có những điểm chung không mang tính bắt buộc đối với tất cả mọi
người. Trong xã hội, khó có một tiêu chuẩn chung về cái đẹp cho mọi người và
nó không mang tính cưỡng chế như ý thức pháp luật. Vì thế, ý thức thẩm mỹ,
cho phép các cá nhân có sự lựa chọn rộng rãi; điều này khác với ý thức pháp
luật. Nhà nước và giai cấp cầm quyền luôn thông qua việc đặt ra quy phạm
pháp luật làm chuẩn mực xử sự cho hành vi của mỗi người trong xã hội, tức là
áp đặt ý thức pháp luật cho xã hội. Việc không thừa nhận ý thức này có nghĩa
là chống lại ý chí của nhà nước và sẽ bị cưỡng chế bằng các chế tài của pháp
luật. Ngày nay, ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa –
ý thức pháp luật kiểu mới mà nước ta đang xây dựng mang tính chính trị sâu

sắc, thể hiện những nhu cầu về kinh tế, đạo đức và văn hóa của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Điều này khẳng định hơn vai trò của việc xây dựng
ý thức pháp luật mới trong điều kiện nước ta hiện nay.

10


1.1.2 - Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là hiện tượng chính trị - pháp lý có cơ cấu phức tạp. Căn cứ

vào nội dung và tính chất của sự phản ánh, triết học xem ý thức pháp luật có
hai cấp độ: hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật

bao gồm các quan điểm, tư tưởng phản ánh đời sống pháp luật một cách sâu
sắc và được hình thành một cách tự giác. Hệ tư tưởng pháp luật là kết quả của
sự phản ánh tri giác, có mục đích, có tổ chức, của hoạt động tư duy, là cơ sở
hình thành lý luận, học thuyết về nhà nước và pháp luật của một giai cấp nhất
định. Hệ tư tưởng pháp luật của một quốc gia bao giờ cũng là hệ tư tưởng của
giai cấp thống trị. Khi giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ của xã hội, có lợi
ích phù hợp với lợi ích đông đảo trong xã hội thì tính khoa học, dân chủ và tính
xã hội của hệ tư tưởng pháp luật sẽ thể hiện rõ nét. Ở nước ta hiện nay, sự hình
thành ý thức pháp luật là quá trình tự giác dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Điều này quyết định bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của ý
thức pháp luật. Vì vậy, muốn nâng cao ý thức pháp luật cần dựa trên quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vai trò, bản chất của pháp luật, làm cho các quan điểm
đó trở thành hệ tư tưởng pháp luật chi phối đời sống pháp luật toàn xã hội ở
Việt Nam. Tâm lý pháp luật được hình thành trên cơ sở phản ánh trực tiếp các
hiện tượng pháp luật và sự kiện pháp luật đơn lẻ. Nó được hình thành tự phát
dưới tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng
pháp lý khác. Tâm lý pháp luật thể hiện trình độ nhận thức cảm tính, trực giác
mang nhiều yếu tố chủ quan. Những hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời
sống xã hội thường tác động lên tâm lý từng cá nhân, cả cộng đồng… cho nên
tâm lý pháp luật là bộ phận của tâm lý xã hội và chịu sự quy định của các quy
luật tâm lý xã hội nói chung. Trong những trạng thái của tâm lý pháp luật thì
tình cảm pháp luật là yếu tố năng động. Nếu chủ thể nhận

11


thức được giá trị của pháp luật và cơ chế điều chỉnh của pháp luật phù hợp với
nguyện vọng, lợi ích và nhu cầu của mình thì sẽ có tình cảm pháp luật tích cực,

ngược lại sẽ xuất hiện tình cảm pháp luật tiêu cực. Truyền thống, thói quen,
niềm tin pháp luật là nhân tố ổn định trong tâm lý pháp luật, nó được hình
thành trong thời gian dài giúp con người tự tin trong hoạt động. Tâm lý pháp
luật nhìn chung biến đổi chậm chạp, do đó nó bền vững, bảo thủ hơn so với các
tư tưởng pháp luật. Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng có mối quan hệ biện chứng
với nhau, tâm lý pháp luật chịu sự chi phối của hệ tư tưởng pháp luật, ngược lại
sự phát triển của hệ tư tưởng pháp luật thường được dựa trên những dữ kiện
của tâm lý pháp luật.
Căn cứ vào trình độ nhận thức có thể chia ý thức pháp luật thành: ý thức pháp
luật thông thường và ý thức pháp luật khoa học. Ý thức pháp luật thông
thường là những kinh nghiệm về nhận thức, xử lý các thông tin, các sự kiện
pháp lý và những tập quán, thói quen xử sự của chủ thể pháp luật. Ý thức
pháp luật thông thường phản ánh nhận thức đời sống pháp luật ở trình độ cảm
tính, nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành và nâng cao ý thức pháp
luật cá nhân và xã hội. Ý thức pháp luật khoa học thể hiện ở các học thuyết,
quan điểm về pháp luật. Nó giữ vai trò hướng dẫn, chỉ đạo trong sự hình
thành và phát triển ý thức pháp luật. Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp
luật, có thể chia ý thức pháp luật thành: ý thức pháp luật nhóm, ý thức pháp
luật cá nhân, ý thức pháp luật xã hội…
1.1.3 - Chức năng của ý thức pháp luật
Xem xét từ góc độ triết học, ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội có
những chức năng cơ bản: chức năng nhận thức, mô hình hóa và điều chỉnh
hành vi.
Chức năng nhận thức: ý thức pháp luật phản ánh sự phát triển của đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội. Vì vậy, với tư cách là sản phẩm và là biểu hiện
khách quan của ý thức pháp luật của xã hội, các học thuyết, quan điểm pháp

12



luật là sự phản ánh những yêu cầu tất yếu của đời sống pháp luật cụ thể trong
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi cá nhân khi tiếp thu kiến thức pháp luật
của xã hội sẽ nhận thức được về đời sống pháp luật quá khứ và hiện tại. Thế hệ
đi sau tiếp thu ý thức pháp luật của thế hệ trước để nhận thức đầy đủ hơn lối
sống của xã hội đã qua và kế thừa, vận dụng để xây dựng lối sống theo pháp
luật của xã hội mới cao hơn. Mỗi cá nhân tiếp thu và phát triển ý thức pháp luật
của loài người là nhận thức về lịch sử xã hội, pháp luật đã qua và hiện tại. Ý
thức pháp luật là “lăng kính” phản ánh và đánh giá tồn tại xã hội của đời sống
pháp luật. Chức năng nhận thức tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển các
chức năng khác của ý thức pháp luật.
Chức năng mô hình hoá: ý thức pháp luật là sự phản ánh tồn tại xã hội của đời
sống pháp luật. Do đó cần phải xây dựng các chuẩn mực pháp luật là cơ sở cho
hành vi xử sự của con người, vì vậy các quy phạm pháp luật chính là sản phẩm
của sự mô hình hóa ý thức pháp luật theo yêu cầu của đời sống pháp luật. Nói
cách khác, đây chính là chuẩn mực pháp lý của xã hội. Các quy phạm pháp luật
mô tả các tình huống điển hình của các quan hệ xã hội giữa người với người,
trong đó hành vi của cá nhân được quy định là thế này chứ không phải thế
khác, được phép thực hiện hay không thực hiện. Tuy nhiên việc mô hình hóa
các quan hệ xã hội thành các quy phạm pháp luật cần theo quan điểm và vì lợi
ích của giai cấp cầm quyền (mặc dù có những quan hệ xã hội được pháp luật
điều chỉnh không bộc lộ rõ tính giai cấp). Trong đời sống xã hội, mô hình hóa
các quan hệ xã hội thành quy phạm pháp luật trở thành công cụ cho nhà nước
quản lý xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Vì vậy, quy phạm
pháp luật là những quy tắc xử sự làm chuẩn mực cho hành vi của mọi người,
thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, mang tính bắt buộc chung, do nhà nước
ban hành và bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế của nhà nước.

13



Chức năng điều chỉnh hành vi: nhà nước xây dựng các quy phạm pháp
luật để quy định về việc xử sự của các chủ thể pháp luật, do đó có thể điều
chỉnh hành vi của chủ thể pháp luật. Trên cơ sở các chuẩn mực pháp luật, nhà
nước có biện pháp xử lý đối với các chủ thể có hành vi sai trái, ngược lại sẽ
khuyến khích các chủ thể có hành vi thực hiện đúng chuẩn mực. Do đó, có thể
khẳng định rằng nhà nước nào cũng thực hiện điều chỉnh các hành vi của cá
nhân, tổ chức thông qua ý thức pháp luật của mình. Vì vậy, trong cuộc sống
nếu mỗi cá nhân có sự hiểu biết pháp luật đầy đủ, ý thức pháp luật cao thì họ
càng được tự do trong hành động (tự do trong khuôn khổ của pháp luật). Do
đó, mỗi cá nhân cần tự nâng cao ý thức pháp luật cá nhân để qua đó tự điều
chỉnh hành vi của mình trước khi bị nhà nước điều chỉnh bằng sự cưỡng chế.
Để điều chỉnh hành vi của các chủ thể pháp luật, ý thức pháp luật thể hiện tính
bắt buộc, cưỡng chế đối với mỗi hành vi. Bởi vì, khi ý thức pháp luật được mô
hình hoá thành những quy phạm pháp luật, được nhà nước áp dụng điều chỉnh
hành vi con người không phải bằng sự lựa chọn hay thái độ thích hoặc không
thích. Điều này thể hiện sự khác biệt giữa ý thức pháp luật và các hình thái ý
thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức cũng là
phương tiện điều chỉnh hành vi con người; song ý thức đạo đức cho phép trước
khi hành động con người có thể đánh giá về chuẩn mực đạo đức cần thực hiện.
Do vậy, nếu không đồng ý, người ta có thể làm trái với những chuẩn mực đó
mà không bị cưỡng chế ngay lập tức, cùng lắm lương tâm bị cắn rứt hoặc chịu
áp lực của dư luận xã hội. Cho nên, ý thức đạo đức điều chỉnh hành vi con
người thông qua dư luận xã hội còn ý thức pháp luật thông qua sự cưỡng chế.
Như vậy, chức năng chủ yếu của pháp luật là điều chỉnh hành vi con người
(vừa là sự tự điều chỉnh của cá nhân, vừa là sự điều chỉnh của nhà nước).

14


1.1.4 - Con đường hình thành ý thức pháp luật

Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật hình thành và phát triển trên
cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Vì vậy khi xã hội có giai cấp
và nhà nước thì ý thức pháp luật và đời sống pháp luật cũng ra đời. Như vậy,
trình độ kinh tế - xã hội là nhân tố khách quan tác động đến việc hình thành ý
thức pháp luật. Thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội như thế nào thì việc hình
thành ý thức pháp luật như thế đó (trong xã hội có giai cấp và nhà nước). Trình
độ của ý thức pháp luật biểu hiện “tính trội” ở mặt nào trong cấu trúc của nó là
hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển của tồn tại xã hội. Ý thức pháp luật
biểu hiện ra sâu sắc ở mỗi cá nhân, tập thể, nhóm… phụ thuộc vào trình độ
phát triển của xã hội (kể cả khi ý thức pháp luật biểu hiện ra tính độc lập tương
đối của nó). Sự thay đổi của các quan hệ kinh tế - xã hội là cơ sở nảy sinh ý
thức pháp luật mới. Hệ thống chính trị cũng là nhân tố quan trọng tác động đến
sự hình thành ý thức pháp luật. Việc tổ chức ban hành pháp luật, thực hiện
pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống ra sao là do sự quyết định và tác động
của các bộ phận trong hệ thống chính trị, đặc biệt là vai trò của nhà nước vì
nhà nước thể hiện ý chí, lợi ích vai trò của giai cấp cầm quyền. Kết quả thực
hiện càng cao sẽ giúp cho việc hình thành ý thức pháp luật trong xã hôi càng
tốt. Ngược lại, ý thức pháp luật là cơ sở cho hệ thống chính trị tổ chức ban
hành, thực hiện pháp luật và tuân thủ pháp luật. Việc giao lưu và mở rộng quan
hệ với nước ngoài cũng là nhân tố tác động đến việc hình thành ý thức pháp
luật trong xã hội. Trong quá trình này có sự tác động và thay đổi về điều kiện
kinh tế - xã hội, đặc biệt là làm thay đổi trình độ nhận thức của các cá nhân,
điều này tất yếu dẫn đến sự hình thành ý thức pháp luật mới. Ngoài ra, môi
trường gia đình, môi trường làm việc, nghề nghiệp của mỗi cá nhân, tập thể,
nhóm người trong xã hội cũng là nhân tố khách quan cho việc hình thành ý
thức pháp luật. Sự hình thành ý thức pháp luật nhanh hay chậm, cao hay thấp
phụ thuộc rất sâu sắc vào các yếu tố này.

15



Do đó, để nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay phải căn cứ vào những
cơ sở trên.
Các nhân tố chủ quan quy định quá trình hình thành ý thức pháp luật bao
gồm: trình độ học vấn, văn hoá, thái độ, tình cảm, ý chí, động cơ, mục đích và
vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện của cá nhân... Mỗi nhân tố này quy định việc
hình thành ý thức pháp luật cao hay thấp, đặc biệt là biến việc nhận thức nó
thành hành vi phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực pháp luật. Ý thức pháp
luật được hình thành chịu sự tác động của một loạt những nhân tố kể trên cho
thấy việc hình thành nó, đặc biệt là với mục đích nâng cao ý thức pháp luật
công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
hiện nay ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải tìm tòi những nhóm giải pháp thiết
thực nhất. Việc hình thành ý thức pháp luật đối với mỗi cá nhân thường thông
qua phương thức trực tiếp (mỗi cá nhân do thực tiễn đời sống xã hội mà phải tự
mình tìm hiểu pháp luật, từ đó mà nâng cao ý thức pháp luật cho mình) hoặc
gián tiếp (các cá nhân thông qua khâu trung gian như tuyên truyền, giáo dục
pháp luât… để lĩnh hội các quy tắc, chuẩn mực pháp luật, từ đó hình thành ý
thức pháp luật cho mình).
Tóm lại, sự hình thành ý thức pháp luật trên cơ sở chịu sự tác động tích
hợp của nhiều yếu tố, đây là căn cứ quan trọng để đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân và xã hội.
1.2. Đặc điểm học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái và tầm quan
trọng của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên
nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay
Từ việc chỉ ra bản chất của ý thức pháp luật, các con đường hình thành,
đặc biệt là chức năng của nó đối với đời sống xã hội cho chúng ta thấy tính tất
yếu, khách quan của việc nâng cao ý thức pháp luật cho công dân nói chung,
cho học sinh, sinh viên nói riêng trong công cuộc xây dựng một xã hội “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ở nước ta hiện nay.


16


Đây là cơ sở cho việc chỉ ra vai trò của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học
sinh các trường chuyên nghiệp ở nước ta nói chung và một tỉnh miền núi nói
riêng.
1.2.1- Đặc điểm học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện
nay - Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái
Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc
và Trung du Bắc Bộ, có vị trí cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Yên Bái có diện tích
tự nhiên là 6.882,9 km2, nằm trải dọc đôi bờ sông Hồng. Phía đông bắc, Yên
Bái giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ,
phía tây nam giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp tỉnh Lai Châu và Lào Cai.
Toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số
181 xã, phường, thị trấn.
Địa hình Yên Bái có độ dốc lớn, cao dần từ đông sang tây, từ nam lên
bắc, độ cao trung bình 600m so với mực nước biển và có thể chia làm hai
vùng: vùng thấp ở tả ngạn sông Hồng và lưu vực sông Chảy mang nhiều đặc
điểm của vùng trung du; vùng cao thuộc hữu ngạn sông Hồng và cao nguyên
nằm giữa sông Hồng và sông Đà có nhiều dãy núi. Yên Bái có khí hậu đặc
trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều nên độ ẩm cao. Do
địa hình và thời tiết đã tạo cho Yên Bái có các loại rừng nhiệt đới, á nhiệt đới
và ôn đới trên núi cao. Đất rừng màu mỡ, thuận lợi cho phát triển chăn nuôi và
trồng rừng sản xuất nguyên liệu giấy. Đất nông nghiệp chiếm gần 10% diện
tích tự nhiên, trong đó có cánh đồng Mường Lò rộng 2.300 ha nổi tiếng vùng
Tây Bắc. Dưới bàn tay lao động cần cù của người dân Yên Bái đã tạo ra nhiều
sản vật có giá trị như: chè, quế, gạo nếp Tú Lệ, cam Lục Yên, nhãn Văn Chấn.
Trong lòng đất có nhiều tài nguyên khoáng sản phong phú, trữ lượng lớn với
nhiều mỏ kim loại, mỏ nguyên liệu, khoáng sản phi kim; đặc biệt là các mỏ
thạch anh, đá fenspat, đá trắng phục vụ chế biến nguyên liệu sản xuất công

nghiệp có chất lượng hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Ngoài hai con

17


sông lớn là sông Hồng và sông Chảy, khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ cùng hệ
thống hồ đầm, Yên Bái còn có hồ Thác Bà - hồ nước được tạo nên bởi bàn tay
con người có diện tích mặt nước trên 20.000 ha, trên đó có 1.300 đảo lớn nhỏ.
Hồ có sức chứa 3 – 3,9 tỷ m 3 nước là điều kiện để phát triển nguồn thuỷ sinh
vật và là nguồn năng lượng phục vụ hoạt động của nhà máy thuỷ điện Thác Bà
- công trình thuỷ điện đầu tiên ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hồ Thác Bà cùng
với những tiểu vùng khí hậu, các lễ hội, di tích danh thắng của Yên Bái đang
trở thành điểm đến của du khách gần xa.
Giao thông ở Yên Bái khá thuận lợi với sự có mặt của hệ thống đường
sắt, đường bộ, đường thuỷ. Thông thương từ Yên Bái đến các tỉnh lân cận của
miền Bắc ngày càng phát triển, nhất là khi hệ thống đường bộ tiếp tục được
hoàn thiện, tuyến đường sắt Hà Nội - Yên Bái - Lào Cai nối liền tới nước bạn
Trung Quốc được nâng cấp. Bên cạnh đó, hệ thống bưu chính viễn thông được
hiện đại hoá, đáp ứng mọi yêu cầu về thông tin liên lạc. Công nghiệp khai
khoáng và chế biến đã khai thác được tiềm năng sẵn có, thu hút sự chú ý của
nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. Kinh tế lâm nghiệp phát triển mạnh,
nông nghiệp có bước đột phá trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Nhiều mô
hình kinh tế trang trại thể hiện tính đa dạng trong hoạt động nuôi trồng của
người dân và tạo ra một lượng sản phẩm đáng kể đóng góp vào kim ngạch xuất
khẩu của tỉnh. Kinh tế thương mại có nhiều khởi sắc, chiếm tỷ trọng đáng kể
trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 76.000 người gồm
30 dân tộc anh em chung sống. Yên Bái tự hào là mảnh đất sinh tụ của người
Việt cổ, có nền văn hoá phát triển, thể hiện ở những di vật, di chỉ phát hiện ở
hang Hùm (Lục Yên), công cụ bằng đá ở Thẩm Thoóng (Văn Chấn), thạp đồng
Đào Thịnh, Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng Minh Xuân (Lục Yên). Cùng

với đó là việc phát hiện nhiều di chỉ khảo cổ, các đền tháp, khu di tích lịch sử
đã chứng tỏ truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta trên
mảnh đất Yên Bái xưa kia gắn liền với quá trình lịch

18


sử dựng nước và giữ nước của mỗi triều đại, mỗi thời kỳ. Được thành lập năm
1900, tỉnh Yên Bái đã trải qua hơn một thế kỷ đấu tranh xây dựng và trưởng
thành. Nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái đã góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh giành độc lập tự do và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, xây dựng - bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống
nhất Tổ quốc; giữ vững biên giới phía bắc và góp phần không nhỏ vào sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các dân tộc ở Yên Bái sống
xen kẽ, quần tụ ở khắp các địa phương trên địa bàn của tỉnh với những bản sắc
văn hoá phong phú, đặc sắc. Tất cả đã hoà quyện để tạo nên vốn văn hoá quý
giá trong kho tàng văn hoá dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống yêu nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, vốn văn hoá ấy đang được nhân dân các dân tộc
Yên Bái đoàn kết gìn giữ và phát huy. Bằng vốn văn hoá ấy và dựa vào những
tiềm năng của địa phương, mỗi người dân Yên Bái đang chung vai gánh sức
xây dựng Yên Bái trở thành một tỉnh phát triển trong khu vực miền núi Bắc
Bộ.
- Vị trí, đặc điểm và mục tiêu của giáo dục chuyên nghiệp trong tỉnh:

Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế - xã hội – văn hóa kể trên, sự
nghiệp phát triển giáo dục – đào tạo của Yên Bái không nằm ngoài mục tiêu
chung của giáo dục Việt Nam là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong hệ thống giáo dục của tỉnh, giáo dục chuyên
nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo người lao động có kiến thức,
kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau; làm cho thế hệ lao động trong
tương lai có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, có ý thức kỷ luật và tác phong
công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động sau khi tốt
nghiệp có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo ra việc làm, sau đó có

19


thể tiếp tục học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Không nằm ngoài mục tiêu giáo dục
chuyên nghiệp chung của nước ta, giáo dục chuyên nghiệp trong tỉnh Yên Bái
với trường dạy nghề nhằm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho khu công
nghiệp phía nam thành phố Yên Bái cũng như các nhà máy, cơ sở sản xuất
khác ở các địa phương. Trong đó, các ngành đang cần nguồn nhân lực qua đào
tạo như: chế biến nông sản, lâm nghiệp, điện, nước, xây dựng… ngoài ra hệ
thống các dịch vụ tại các địa phương cũng đang trong tình trạng thiếu nhân lực
đã qua đào tạo đúng chuyên môn, nghiệp vụ. Vì vậy, mục tiêu của các trường
chuyên nghiệp trong tỉnh những năm qua vẫn là đào tạo nguồn nhân lực có kỹ
năng, kiến thức thực hành cơ bản, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo, biết
ứng dụng tri thức được trang bị vào cuộc sống. Vì vây, hiện nay các trường
chuyên nghiệp trong tỉnh luôn xác định tập trung đào tạo năng lực thực hành
nghề nghiệp, rèn luyện kỹ năng theo yêu cầu từng nghề, coi trọng giáo dục đạo
đức, rèn luyện sức khỏe. Do đó, các trường đều đang đổi mới phương pháp
giáo dục nghề nghiệp, rèn luyện kỹ năng thực hành với giảng lý thuyết cho học
sinh, giúp cho học sinh sau khi ra trường có khả năng hành nghề và tiếp tục
phát huy nghề nghiệp theo yêu cầu công việc. Mục tiêu của tỉnh là “khuyến
khích phát triển các trường nghề, bán công, tư thục”, đồng thời đến năm 2010
có 25% lao động đã được đào tạo. Chính vì vậy, hiện nay trong tỉnh đã có 4

trường trung học chuyên nghiệp và 1 trường trung cấp nghề, đó là: Trường
Trung học Nông - Lâm Yên Bái với tổng số 12 lớp chính quy, gồm 346 học
sinh thuộc 4 chuyên ngành (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, quản lý đất đai);
Trường Trung học Kinh tế Yên Bái với 7 lớp chính quy, có 300 học sinh;
Trường trung cấp nghề tỉnh Yên Bái có 16 lớp nghề dài hạn với 396 học sinh;
Trường Trung học Văn hóa nghệ thuật Yên Bái (nay mới nâng lên thành
Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và du lịch) gồm 6

20


lớp với 124 học sinh; Trường Trung học Y tế Yên Bái với 15 lớp chính quy với
tổng số 500 học sinh.
Do đó, các trường chuyên nghiệp này giữ vai trò quan trọng trong tỉnh
nhằm đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa tại chỗ cũng như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn và miền núi, thúc đẩy sự chuyên môn hóa và phân công lao động xã
hội theo chiều rộng và sâu, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, tăng dần tỷ trọng
lao động trí tuệ, lao động phức tạp, giảm dần số lượng lao động giản đơn, lao
động cơ bắp, lao dộng trong những ngành vật chất trong tỉnh. Cho nên mỗi
trường chuyên nghiệp đều xác định mục tiêu đáo tạo cho riêng mình (trường
Nông – Lâm đào tạo nguồn nhân lực cho hầu hết các xã, huyện vùng cao;
Trường Trung học Kinh tế đào tạo nhân lực cho các doanh nghiệp trong kinh tế
nhiều thành phần; trường Trung học Y tế đào tạo nguồn nhân lực góp phần
“Chuẩn quốc gia về y tế xã” còn rất thiếu ở xã vùng cao của tỉnh…). Nhìn
chung việc mở rộng, nâng cấp, mở thêm nhiều mã ngành và các hình thức đào
tạo trong các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay đều trên căn cứ
tiềm năng phát triển của địa phương (đặc biệt là công nghiệp chế biến, kinh tế
nông lâm nghiệp…), đồng thời cũng trên cơ sở quán triệt của Đảng bộ tỉnh là
“tiếp tục phát triển mạnh mẽ giáo dục – đào tạo theo hướng toàn diện, thực

hiện giáo dục thường xuyên, giáo dục tại chức. Đổi mới phương thức dạy và
học để nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo”[8, tr.32]. Mặt khác phát triển
hệ thống giáo dục chuyên nghiệp trong tỉnh là cơ sở để làm phong phú hơn hệ
thống giáo dục - đào tạo tại một tỉnh miền núi với số dân ít và điều kiện kinh tế
còn nhiều khó khăn, dịch vụ giáo dục chưa phát triển, đặc biệt đáp ứng nhu cầu
học nghề cho một số lượng học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông nhưng do
điều kiện kinh tế, trình độ hạn chế nên không có điều kiện học ở những bậc
học cao hơn.

21


Đặc điểm chung của giáo dục chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái là số lượng
trường ít, đều đóng trên địa bàn thành phố Yên Bái, số lượng học sinh ít (số
liệu thống kê ở trên, hầu hết học sinh là người dân tộc thiểu số nên các trường
phải giải quyết nhiều chính sách có liên quan), mã ngành đào tạo của các
trường còn hạn chế ( trường Trung học Nông - Lâm có 4 mã ngành; trường
Trung học Kinh tế có 2 mã ngành; trường Trung học Y tế có 4 mã ngành; hệ
trung cấp văn hóa nghệ thuật có 5 mã ngành; Trường Trung cấp nghề tỉnh có
11 nghề đào tạo ); học sinh của các trường hầu hết ở các xã vùng cao, thậm chí
ở các xã đặc biệt khó khăn. Hầu hết các trường đều có cơ sở vật chất đạt yêu
cầu phục vụ cho đào tạo đúng chuyên môn (hệ thống giảng đường, lớp học,
phòng học đa năng, phòng thí nghiệm…). Nhìn chung các trường còn hạn chế
trong việc mở rộng phạm vi đào tạo, phát triển các hình thức đào tạo liên kết,
đồng thời số lượng cán bộ, giáo viên trong các trường còn thiếu, số lượng
chuẩn hóa về trình độ chưa cao (Trường Trung học Nông – Lâm có 49 cán bộ
giáo viên, Trường Trung học Kinh tế có 15 cán bộ giáo viên, Trường Trung học
y tế có 37 giáo viên cơ hữu; Trường trung học văn hóa nghệ thuật có 45 giáo
viên cơ hữu, Trường Trung cấp nghề có 55 giáo viên cơ hữu) hơn nữa do kinh
phí hạn hẹp nên việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên có

những giai đoạn chưa theo kịp yêu cầu chung. Tất cả các trường đều thực hiện
đúng quy chế, chương trình đào tạo theo quy định của chung, đồng thời cũng
luôn tìm tòi, đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo. Tuy nhiên, việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa, giúp học sinh có điều
kiện giao lưu, tham gia các công tác xã hội, tự nâng cao năng lực thực hành và
nhận thức về sự biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội cho mình của các trường
còn hạn chế, ít sáng tạo… Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến những khó
khăn trong quá trình nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên
nghiệp trong tỉnh hiện nay.

22


Tóm lại, các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay giữ vị trí
trực tiếp trong việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ, vì
vậy các trường đều theo đuổi mục tiêu chung của giáo dục chuyên nghiệp.
Đồng thời các trường cũng có đặc điểm chung của những trường học ở miền
núi, chịu sự tác động của các điều kiện kinh tế xã hội nơi đây (nhìn chung điều
kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn), đặc biệt là những ảnh hưởng sâu sắc
của bản sắc văn hóa riêng có của địa phương. Điều này mang lại những thuận
lợi nhưng cũng tạo ra không ít khó khăn cho quá trình đào tạo, trong đó có vấn
đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh.
- Học sinh các trường chuyên nghiệp ở Yên Bái hiện nay có số lượng ít

(tổng số gồm 1666 học sinh), số lượng không đáng kể so với số lượng học sinh
phổ thông. Hầu hết các em đều là người dân tộc thiểu số như: H’Mông, Thái,
Dao, Giáy, Tày… Bởi vì đây là đối tượng tuyển sinh chủ yếu của các trường
(các trường chủ yếu tuyển sinh ở các huyện, xã vùng cao, xã đặc biệt khó khăn;
diện ưu tiện là đồng bào các dân tộc thiểu số). Vì vậy có đến khoảng 45% học
sinh các trường chuyên nghiệp là người dân tộc ( Trường Trung học Nông –

Lâm có khoảng 70%, Trường Trung học Kinh tế: 25%, Trường Trung học Y tế
có: 20%, Trường Trung học Văn hóa nghệ thuật: 50%, Trường Trung cấp nghề
có: 50%). Do đó, các em đều có ưu điểm là chăm chỉ, chịu khó, ngoan ngoãn,
tuân thủ đúng nội quy trường học và quy chế đào tạo và đều có ý thức rèn
luyện. Tuy nhiên, hầu hết học sinh các trường chuyên nghiệp đều có trình độ
thấp, có đến 40% các em từng học ở các trường phổ thông dân tộc nội trú, 40%
học ở các trường bán công của các huyện, thị; có khoảng hơn 80% số lượng
học sinh đỗ kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông lần 2, còn lại hầu hết tốt
nghiệp ở kỳ thi Trung học bổ túc. Cho nên, các học sinh ở đây có đặc điểm là
tuổi đời khá cao, có đến 70% các em đi học không đúng tuổi; có những em vừa
có gia đình, vừa đi học hoặc vừa đi học vừa lập gia đình (cho nên các em đã ít
nhiều có kinh nghiệm sống)… Điều này làm

23


nảy sinh nhiều khó khăn cho các trường trong quá trình giải quyết nhiều chính
sách liên quan, mặt khác cũng là lực cản trong việc thực hiện mục tiêu giáo
dục, nâng cao chất lượng giáo dục cho trong các trường nhằm theo kịp miền
xuôi. Khó khăn hơn nữa là hầu hết các em đều từ các huyện xa trong tỉnh (Mù
Cang Chải, Trạm Tấu, Lục Yên), thậm chí còn ở các xã xa nhất của các huyện
này (Chế Tạo, Mồ Dề, Làng Nhì, Tà Xi Láng…) về học, cho nên việc đi lại
cực kỳ khó khăn, mặt khác hầu hết đều xuất thân từ gia đình sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu, thu nhập thấp nên các em học sinh thường không có điều
kiện mua giáo trình, tài liệu, máy vi tính…và các phương tiện khác để phục vụ
học tập. Cho nên quá trình học tập, tiếp thu tri thức của các em gặp rất nhiều
khó khăn (thậm chí nhiều em đã bỏ học vì cảm thấy không theo được về nhiều
măt). Mặc dù đã được tạo thói quen học tập trong các trường nội trú huyện
nhưng do ít có điều kiện giao lưu với bên ngoài nên các em thường có thái độ
không tự tin khi học tập và tiếp thu những tri thức mới, hiện đại (tin học, ngoại

ngữ…) và ít cập nhật những thông tin mới phục vụ cho việc học tập (một phần
do đa số các em ở nội trú nên thiếu phương tiện nghe nhìn, một phần do không
có thói quen); đặc biệt là các em không tự tin khi độc lập tham gia các hoạt
động ngoại khóa, khép mình, ngại khẳng định mình trước tập thể. Điều này
làm hạn chế việc tiếp thu tri thức và hình thành khả năng tự chủ cho học sinh
khi tố nghiệp ra trường, trong đó có việc nâng cao ý thức pháp luật cho các em.
Một trong những đặc trưng cơ bản của học sinh các trường này là phần đa là
người dân tộc thiểu số nên trong đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong
học tập các em luôn chịu ảnh hưởng sâu sắc của bản sắc văn hóa dân tộc mình.
Ví dụ: có nhiều em vẫn có thói quen sử dụng tiếng nói của dân tộc mình khi
đến lớp, cho nên nói tiếng Kinh chưa sõi và gặp khó khăn trong việc tiếp thu
kiến thức. Nhiều em vẫn giữ thói quen xấu như: uống rượu, thể hiện những
sinh hoạt văn hóa không đúng lúc, đúng chỗ… dẫn đến tình trạng vi phạm kỷ
luật, thậm chí vi phạm pháp luật… Bởi vì trong văn hóa của

24


các dân tộc mang nhiều giá trị, nhưng cũng có nhiều luật tục trở thành các hủ
tục ảnh hưởng sâu sắc tới các em không những ở địa phương mà kể cả khi đến
trường (thói quen uống rượu, tảo hôn, đánh đòn bằng da trâu khi ngoại tình của
người H’Mông…). Cho dù các trường đều thực hiện chính sách ưu tiên đối với
việc duy trì bản sắc văn hóa cho các em (như tổ chức đón tết cho học sinh
người H’Mông vào tháng 12, cho nghỉ mùa…) nhưng mặt trái của những tập
quán, luật tục này vẫn bộc lộ ra. Có thể khẳng định đây là nguyên nhân cơ bản
dẫn đến thực trạng vi phạm kỷ luật và vi phạm pháp luật của học sinh. Hơn
nữa, khi xuống thành phố học tập, các em đã sớm thích nghi và chịu sự tác
động sâu sắc của nhịp sống của kinh tế thị trường, của văn hóa hiện đại (có mặt
tích cực và mặt trái)… Đây là cơ sở làm thay đổi nhận thức của các em, nó
mang lại những thuận lợi cho quá trình giáo dục các em nhưng cũng đưa lại

không ít khó khăn, đặc biệt là quá trình nâng cao ý thức pháp luật.
1.2.2- Tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các
trường chuyên nghiệp trong tỉnh Yên Bái hiện nay
Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật công dân là đòi hỏi tất yếu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Muốn đời sống xã hội
phát triển bền vững, cần có trật tự, kỷ cương xã hội ổn định, trong đó ý thức
pháp luật thể hiện qua hệ thống pháp luật là nhân tố quan trọng trong việc duy
trì trật tự xã hội, quản lý xã hội. Trong bối cảnh xã hội ngày nay, mọi hành vi
của cá nhân có thể ảnh hưởng nhanh, sâu sắc đến đời sống của cả xã hội, vì vậy
nâng cao ý thức mỗi cá nhân và phát huy tác dụng của pháp luật nhằm ngăn
chặn những hành vi xấu, góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của xã hội.
Đối với học sinh các trường chuyên nghiệp ở Yên Bái hiện nay, có ý
thức pháp luật ngày càng cao là đáp ứng yêu cấu của thời đại, của sự phát triển
đất nước, của phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa địa phương, góp phần

25


×