Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.84 KB, 36 trang )

Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam
1.1 Khái quát về liên minh châu Âu EU
1.1.1. Quá trình lịch sử hình thành và phát triển của EU
Những ý tưởng về một Châu Âu thống nhất đã được bộc lộ từ trong lịch sử Châu
Âu xa xưa, kể cả ý đồ muốn thực hiện thống nhất bằng vũ lực. Hoàng đế Napoleon của
nước Pháp là một minh chứng điển hình. Ông đã từng nghĩ đến một Châu Âu thống
nhất với “một bộ luật Châu Âu một đồng tiền chung Châu Âu, các đơn vị đo lường, các
qui tắc Châu Âu” và ông ta đã thất bại trong việc thực hiện mơ ước chung lành mạnh đó
bằng ý đồ sử dụng vũ lực để có một Châu Âu liên kết dưới sự thống trị của người Pháp.
Cho đến sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất ngoại trưởng Pháp Aristide Briand
mới đề xuất trước Đại Hội đồng Hội Quốc Liên ý tưởng cụ thể về việc thành lập một
liên hiệp Châu Âu mang thể chế liên bang. Nhưng ý kiến này không gây được tiếng
vang và chưa kịp có những bàn bạc cụ thể thì thế chiến lần thứ hai ập đến như là hậu
quả của một ý tưởng ngông cuồng muốn thống nhất Châu Âu bằng bạo lực dưới sự cai
quản của một quốc gia - dân tộc tực coi mình là thượng đẳng - Đức quốc xã.
Phải đến những năm 40 của thế kỷ XX sau khi thế chiến kết thúc, mới xuất hiện
một phong trào lành mạnh ủng hộ việc tạo dựng một Châu Âu nhất thể hoá. Mặc dù
vậy, chỉ sau khi vấn đề nước Đức được đặt ra sau thế chiến thứ hai cùng với nguyện
vọng gìn giữ hoà bình Châu Âu và sự căng thẳng trong quan hệ Pháp - Đức về vùng
Sarre gây trở ngại cho tiến trình thống nhất Châu Âu thì ý tưởng liên kết hoá Châu Âu
mới được thúc đẩy để sau đó được thực hiện trong thực tế. “Cộng đồng than và thép
Châu Âu” (ECSC) ra đời ngày 18 tháng 4 năm 1951 với sáu nước thành viên là Pháp,
Đức, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, và Italia là cột mốc đầu tiên đánh dấu Châu Âu bắt đầu
tập họp lại một cách lành mạnh về tổ chức. Tuy nhiên tiến trình liên kết Châu Âu chỉ
thực sự bắt đầu khi đại diện sáu nước thành viên ECSC ký các hiệp định Roma chính
thức thành lập “Cộng đồng kinh tế Châu Âu” (EEC) và “Cộng đồng năng lượng nguyên
tử Châu Âu” (Euratom) với tư tưởng trung tâm là hình thành một thị trường rộng lớn ở
Châu Âu coi như một công cụ phối hợp và hoà nhập các chính sách kinh tế của các
nước thành viên. Đến cuộc họp thượng đỉnh giữa các vị nguyên thủ quốc gia các thành
viên của châu Âu năm 1972 tại Paris thì lần đầu tiên thuật ngữ EU được nhắc tới. Sự ra
đời các cộng đồng Châu Âu đã đáp ứng được nhu cầu tạo lập không gian không biên


giới cho việc tự do lưu chuyển các nguồn lực và sản phẩm trong toàn Châu Âu.
Bước tiến quan trọng tiếp theo tạo ra sự cải biến căn bản khuôn khổ thiết chế và
chính trị cho tiến trình nhất thể hoá Châu Âu là việc ký kết văn bản Định ước Châu Âu
duy nhất (the Single European Act) theo đuổi mục tiêu hình thành thị trường Châu Âu
đơn nhất (the Single European market) với mốc thời gian là ngày 31 tháng 12 năm
1992. Tiếp đó việc ký kết Hiệp định về Liên hiệp Châu Âu (EU) tại Maastricht tháng 10
năm 1993 là một cuộc cải cách toàn diện nhất các hiệp định Roma thúc đẩy sự liên kết
Châu Âu trên cả ba trụ cột của EU là cộng đồng Châu Âu, chính sách đối ngoại và an
ninh chung và hợp tác về tư pháp và nội vụ.
Liên hiệp Châu Âu đang thực hiện các chính sách tiếp tục thúc đẩy liên kết hoá
trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI nhằm làm cho EU trở nên mạnh hơn và mở rộng. Bước
vào thiên niên kỷ mới Liên hiệp Châu Âu đã khẳng định:
- Các chính sách đối nội phải nhằm tới sự phát triển bền vững và việc làm, gắn
kết kinh tế - xã hội và phát triển nông nghiệp.
- Tiến trình liên kết hoá Châu Âu phải làm sao nâng cao được vai trò của EU
trên trường quốc tế.
- Trong quá trình thực hiện liên kết Châu Âu, EU không chỉ mạnh hơn mà còn
mở rộng hơn về lãnh thổ.
Thực hiện Hiệp định Amsterdam, tiến trình đi tới liên minh kinh tế và tiền tệ
(EU) như đỉnh cao mới của liên kết hoá Châu Âu đang tạo ra động lực thúc đẩy toàn bộ
EU tiến lên. Mọi chuẩn bị về kỹ thuật đã được hoàn tất để ra đời đồng tiền chung Châu
Âu (đồng EURO) ra đời vào ngày 1 tháng 1 năm 1999. EU và đồng EURO sẽ tạo ra cái
neo giữ cho sự ổn định, hoàn thiện hiệu quả thị trường và khuyến khích đầu tư cũng
như mở ra những khả năng mới cho việc quản lý vĩ mô có hiệu quả hơn ở Châu Âu.
Hiệp ước về Liên minh, hay hiệp ước Maastrich, vào năm 1993 đặt các nước thành viên
vào một chương trình đầy tham vọng: liên minh tiền tệ vào năm 1999, các chính sách
chung mới, quốc tịch châu Âu, một chính sách ngoại giao và an ninh nội bộ. Hiện nay,
một hội nghị liên Chính phủ đang tranh luận về điều chỉnh các thể chế và các quá trình
ra quyết định của EU, nhằm tạo nền móng cho việc mở rộng Cộng đồng sang các nước
Trung và Đông Âu.

Tiến trình liên kết hoá Châu Âu đang được thực hiện thắng lợi, những thời cơ và
thách thức đang hiện diện trước một Liên hiệp Châu Âu sẽ bước vào thế kỷ XXI trong
tư cách một tổ chức mạnh hơn và mở rộng hơn. Hiệp định Amsterdam đã tăng cường
một bước đáng kể về các mặt tăng cường sức mạnh, hoàn thiện khả năng trong các hoạt
động đối ngoại và cải cách khuôn khổ thiết chế cho Liên hiệp Châu Âu trước khi bước
vào giai đoạn mới có ý nghĩa quyết định của tiến trình liên kết.
Gần nửa thế kỷ hội nhập của châu Âu đã có một tác động sâu sắc tới sự phát triển của
lục địa và cách suy nghĩ của người dân trên lục địa. Nó cũng thay đổi cán cân quyền
lực. Tất cả các Chính phủ, bất kể thuộc hình thái chính trị nào, ngày nay đều nhận thức
được rằng kỷ nguyên của chủ quyền quốc gia tuyệt đối đã qua đi. Chỉ có thông qua liên
kết lực lượng và nỗ lực hướng tới “một căn cước chung” - trích Hiệp ước về Cộng đồng
Than và Thép châu Âu - thì các quốc gia châu Âu cũ mới tiếp tục được hưởng tới sự
phát triển kinh tế xã hội và duy trì được ảnh hưởng của mình trên thế giới.
1.1.2. Cơ cấu của EU:
EU là từ viết tắt tiếng Anh của European Union nghĩa là Liên minh châu Âu. Nó bao
gồm 15 nước thành viên là: Anh, Pháp, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Luxembourg, Hà Lan,
Thụy Điển, Đan Mạch, Bỉ, Áo, Hy Lạp, Phần Lan, Ailen và Bồ Đào Nha. Cơ cấu của
EU được xây dựng trên ba thành phần cơ bản chính là Cộng đồng chung châu Âu
(European Community), chính sách chung về an ninh và đối ngoại (Common foreign
and security policy), đồng hợp tác trong vấn đề tư pháp và nội vụ (Cooperation in
justice and home affairs).
Các điều khoản chủ yếu trong hiệp ước của EU được dựa trên các nguyên tắc cơ bản
sau đây:
- Lương thực chung;
- Sửa đổi Hiệp ước EEC thành EC (European Community), bao gồm liên hiệp kinh tế
và tiền tệ, liên hiệp về thuế quan, thị trường đơn nhất, chính sách nông nghiệp chung,
chính sách hạ tầng và vấn đề công dân của Liên hiệp.
- Chính sách về an ninh và đối ngoại (CFSP).
- Hợp tác về các vấn đề pháp luật và nội vụ;
- Tài chính chung;

- Nghị định thư, trong đó quan trọng nhất là mối liên kết quan hệ về kinh tế và xã hội và
các chính sách xã hội để giải thích cho sự liên hệ tới CFSP và những văn bản của các
nước thành viên của Liên hiệp Tây Âu (WEU) về vai trò của họ.
Đồng thời Liên minh châu Âu được quản lý bởi một loạt các thể chế sau chung. Các thể
chế chính bao gồm:
- Một nghị viện được bầu thông qua bầu cử tự do, nó cung cấp một diễn đàn dân chủ
cho việc tranh luận, mang chức năng giám hộ và giữ vai trò giám hộ trong tiến trình lập
pháp;
- Hội Đồng châu Âu, bao gồm các bộ trưởng của 15 nước thành viên và là cơ quan chủ
yếu ra quyết định;
- Uỷ Ban châu Âu đại diện cho quyền lợi của Cộng Đồng và là cơ quan thi hành chính
sách của Cộng Đồng;
- Toà án Tư pháp được đặt tại Luxembourg và đảm bảo luật pháp của Cộng Đồng được
hiểu và thực hiện theo đúng các hiệp ước;
- Toà án Kiểm toán có vai trò kiểm tra để việc thu và chi được thực hiện “theo một cách
thức hợp pháp và đúng chuẩn mực” và các vấn đề tài chính của Cộng Đồng được quản
lý một cách thích hợp;
- Ngân Hàng Đầu tư Châu Âu (EIB), được thành lập để giúp thực hiện các dự án đóng
góp vào sự phát triển cân bằng của EU.
1.1.3. Tiềm năng về kinh tế của EU:
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, châu Âu luôn là đại lục
phát triển nhất về kinh tế cũng như khoa học kỹ thuật. Mặc dù bị chiến tranh tàn phá
nặng nề sau thế chiến thứ 2 kéo lùi nền kinh tế đi vài chục năm, nhưng ngay sau đó
châu Âu đã có những bước hồi phục thần kỳ và cho đến nay thì châu Âu luôn là một lục
địa phát triển nhất trên thế giới nếu xét cả về tiềm năng kinh tế, kỹ thuật, quân sự vượt
trên cả Mỹ. Liên minh châu Âu (EU) chính là đại diện tiêu biểu cho lục địa này về khả
năng phát triển kinh tế, kỹ thuật. Hiện nay liên minh châu Âu là một trong ba cực về
kinh tế, khoa học kỹ thuật gồm Mỹ, EU, Nhật Bản, trong số 7 nước công nghiệp phát
triển hàng đầu trên thế giới thì EU đã góp mặt với 4 nước, điều này cho ta thấy được
phần nào sức mạnh kinh tế của tổ chức này. Về thương mại, với chỉ vẻn vẹn có khoảng

hơn 370 triệu người (6% dân số của thế giới), liên minh châu Âu đã chiếm tới một phần
năm thương mại của toàn thế giới, đặc biệt khi các nước được thống nhất bởi một quyết
định về thương mại thì lợi thế này chắc chắn sẽ tăng lên.
Ngoài ra các chỉ số phát triển khác đều rất cao, như mức sống thì quả thật EU là
miền đất hứa cho nhiều người, là một mô hình mà hầu hết các nước khác trên thế giới
đều hướng tới, với mức GDP/người là rất cao, có nước vượt cả Mỹ và Nhật Bản, tỷ lệ
thất nghiệp cũng đã giảm dần trong những năm gần đây. Một đặc điểm nổi bật nữa ở
các nước EU trong thời gian vừa qua là kinh tế của các nước của các nước đều tăng
trưởng, tuy cao thấp khác nhau, nhưng ổn định.
1.2 Tổng quan về FDI ở Việt Nam
1.2.1.Tình hình FDI từ năm 1988 đến 2006
Trong thập niên 80 và đầu thập niên 90, dòng FDI vào Việt Nam còn nhỏ. Đến
năm 1991, tổng vốn FDI ở Việt Nam mới chỉ là 213 triệu đô-la Mỹ. Tuy nhiên, con số
FDI đăng ký đã tăng mạnh từ 1992 và đạt đỉnh điểm vào 1996 với tổng vốn đăng ký lên
đến 8,6 tỷ đô-la Mỹ. Sự tăng mạnh mẽ của FDI này là do nhiều nguyên nhân. Các nhà
đầu tư nước ngoài bị thu hút bởi tiềm năng của một nền kinh tế đang trong thời kỳ
chuyển đổi với một thị trường phần lớn còn chưa được khai thác. Thêm vào đó, các nhà
đầu tư nước ngoài còn bị hấp dẫn bởi hàng loại các yếu tố tích cực khác như lực lượng
lao động dồi dào, giá nhân công rẻ và tỷ lệ biết chữ cao.Bên cạnh những yếu tố bên
trong còn có các yếu tố bên ngoài đóng góp vào việc gia tăng của FDI. Thứ nhất là làn
sóng vốn chảy dồn về các thị trường mới nổi trong những năm 80 và đầu những năm
90. Trong các thị trường này, Đông Nam Á là một điểm chính nhận FDI. Năm 1990, các
nước Đông Nam Á thu hút 36% tổng dòng FDI đến các nước đang phát triển. Thứ hai là
dòng vốn nước ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa trước đây, nơi
mà họ cho rằng đang có các cơ hội kinh doanh mới và thu lợi nhuận. Thứ ba, là các
nước mạnh trong vùng (cụ thể là Mã-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái-lan,…) đã bắt đầu xuất
khẩu vốn. Là một nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ ở Đông Nam Á, Việt Nam có
được lợi thế từ các yếu tố này.
Trong khoảng thời gian 1991-1996, FDI đóng một vai trò quan trọng trong việc
tài trợ cho sự thiếu hụt trong tài khoản vãng lai của Việt Nam và đã có những đóng góp

cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
Trong giai đoạn 1997-1999, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn tụt dốc của
nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999, một
phần là do khủng hoảng tài chính châu Á. Năm nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam đều
từ khu vực châu Á và phải đối mặt với những khó khăn thực sự tại quốc gia của mình.
Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh tại nước mình, các nhà đầu tư này đã buộc phải
huỷ hoặc hoãn các kế hoạch mở rộng ra nước ngoài. Cuộc khủng hoảng cũng buộc các
nhà đầu tư phải sửa đổi thấp đi chỉ tiêu mở rộng sang châu Á. Cuộc khủng hoảng cũng
đã dẫn đến việc đồng tiền của các nước Đông Nam Á bị mất giá. Việt Nam, do vậy,
cũng trở nên kém hấp dẫn đối với những dự án tập trung vào xuất khẩu. Hơn nữa, các
nhà đầu tư nước ngoài cũng nhận ra rằng các dự kiến về nhu cầu của thị trường đã bị
thổi phồng. Các bức rào cản cho việc kinh doanh cũng trở nên rõ ràng hơn.
Giai đoạn 2000-2002: Giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào năm 2000 với mức
25,8% và 2001 với mức 22,6%, nhưng vẫn chưa được hai phần ba so với năm 1996.
FDI đăng ký tăng vào năm 2001 và 2002 là kết quả của dự án đường ống Nam Côn Sơn
(2000) với tổng vốn đầu tư là 2,43 tỷ đô-la Mỹ, và Dự án XD-KD-CG Phú Mỹ (2001)
với tổng vốn đầu tư là 0,8 tỷ đô-la Mỹ. Năm 2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn
khoảng 1,4 tỷ đô-la Mỹ, đạt khoảng 54,5% của mức năm 2001.
Trong gần 20 năm qua, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
đã trải qua 3 giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ năm 1988 đã tăng liên tục và đạt đỉnh cao nhất vào năm
1996; trong 9 năm đó đã có 1.998 dự án với số vốn đăng ký đạt 30.395 triệu USD,
chiếm 48,2% tổng vốn đăng ký trong hơn 17 năm đầu, bình quân 1 năm đạt 3.377,2
triệu USD.
Giai đoạn thứ hai từ năm 1997- 2002, số vốn đăng ký mới và bổ sung đã gần
như liên tục bị sút giảm; trong 6 năm này đã có 2.695 dự án được cấp phép mới, với
tổng vốn đăng ký mới và bổ sung đạt 10.932,3 triệu USD, bình quân 1 năm đạt 1.822,1
triệu USD.
Giai đoạn thứ ba tính từ năm 2003 đến nay, số vốn đăng ký mới và bổ sung đã
liên tục tăng lên; trong giai đoạn này đã có 1.890 dự án được cấp phép mới, với tổng

vốn đăng ký mới và bổ sung đạt 10.567,7 triệu USD, bằng 34,8% trong 9 năm đầu và
đạt xấp xỉ bằng tổng vốn trong 6 năm từ 1997-2002, bình quân 1 năm đạt hơn 4 tỷ
USD, cao nhất trong 3 giai đoạn.
Sự "khởi sắc" trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tính từ cuối năm 2003,
đặc biệt trong 7 tháng đầu năm 2005 được thể hiện ở nhiều mặt:
- Tổng số vốn đăng ký mới trong 7 tháng đầu năm 2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD,
tăng 66,6% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn số cả năm của 8 năm (1988, 1989, 1990,
1991, 1992, 1999, 2000, 2002).
- Sự tăng lên của vốn đầu tư đạt được cả ở 2 kênh. Tính từ đầu năm đến 20/7 đã
có 419 dự án mới được cấp phép với tổng số vốn đăng ký 2.100 triệu USD, so với cùng
kỳ năm trước tăng 16,7% về số dự án và tăng tới 118,2% về số vốn đăng ký (7 tháng
đầu năm 2004 có 359 dự án với số vốn đăng ký 962,5 triệu USD).
Cũng trong thời gian này đã có 277 lượt dự án đang hoạt động bổ sung vốn với
tổng số vốn đăng ký tăng thêm 1,12 tỷ USD, tăng 40,6% về số lượt dự án và tăng
13,1% về số vốn đăng ký bổ sung. Nếu tính cả số vốn của những dự án mới được cấp
phép và số vốn bổ sung của những dự án đang hoạt động thì tổng số vốn đăng ký mới
trong 7 tháng đầu năm 2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, tăng 66,6% so với cùng kỳ năm
trước.
- Bên cạnh những dự án có quy mô như những năm trước đã xuất hiện những dự
án mới có quy mô vốn khá lớn, trong đó có dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh điện
thoại di động CDMA với tổng số vốn đăng ký lên đến 665 triệu USD; nhiều dự án đang
hoạt động xin tăng vốn lên tới 50-70 triệu USD.
- Cơ cấu đầu tư theo nhóm ngành đã có sự thay đổi theo hướng tích cực. Nếu
trong thời kỳ 1988-2004, tỷ trọng vốn đăng ký đầu tư vào nhóm ngành công nghiệp xây
dựng lên đến 65,3%, vào nhóm ngành dịch vụ chỉ có 28,7% thì trong 7 tháng đầu năm
nay, các con số tương ứng đã có sự thay đổi đáng kể là 49,1% và 47,9%.
Đây là tín hiệu để có thể gia tăng tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP (đã bị
giảm liên tục trong thời kỳ 1995-2003, từ 44,06% xuống còn 37,99% đến năm 2004
mới chặn lại được và chỉ tăng nhẹ lên mức 38,15%).
Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006 cả nước thu hút

được gần 10 tỉ USD vốn đăng ký mới, tăng 45,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó
có khoảng 800 dự án được cấp mới, với tổng vốn đăng ký trên 7,6 tỉ USD, tăng 60,8%
so với cùng kỳ năm trước và 490 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số
vốn tăng thêm khoảng 2,4 tỉ USD. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án trong
năm 2006 đạt 9,4 triệu USD/dự án, điều này chứng tỏ số lượng dự án có quy mô lớn đã
tăng lên.
Bức tranh về đầu tư nước ngoài ở nước ta trong năm 2006 có màu sắc phong phú
hơn với sự xuất hiện của một số dự án mới có quy mô lớn từ các tập đoàn xuyên quốc
gia Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, như dự án của Công ty thép Posco có vốn đầu tư
1,126 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Intel với tổng vốn đầu tư 1 tỉ USD, dự án của Tập
đoàn Tycoons với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD, dự án Tây Hồ Tây vốn đầu tư 314,1
triệu USD, dự án Winvest Investment với vốn đầu tư 300 triệu USD... Nhiều dự án
được cấp phép đã tích cực triển khai thực hiện như các nhà máy của Công ty Hoya
Glass Disle, Canon, Matsushita, Brothers Industries, Honda… Ước tính vốn thực hiện
trong năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỉ USD, tăng 24,2% so với năm 2005.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
tiếp tục khả quan. Doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong năm 2006
đạt 29,4 tỉ USD, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giá trị xuất khẩu (trừ
dầu thô) đạt 14,6 tỉ USD, tăng 31,2% so với cùng kỳ. Nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất
khẩu năm 2006 đạt 22,6 tỉ USD, chiếm 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Giá trị
sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,5%, cao hơn mức
tăng sản xuất công nghiệp bình quân của cả nước (18,5%). Nhập khẩu của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài trong năm 2006 đạt 16,35 tỉ USD, tăng 19,3% so với năm
2005. Trong năm 2006, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nộp ngân sách nhà nước
đạt 1,26 tỉ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ và tạo việc làm cho trên 1,12 triệu lao động
trực tiếp, chưa kể hàng triệu lao động gián tiếp khác.
Thời gian gần đây, có nhiều yếu tố để đưa ra nhận định về khả năng xuất hiện
một làn sóng đầu tư mới của nước ngoài vào Việt Nam. Làn sóng này dường như âm ỉ
từ sau các động thái khi Việt Nam đàm phán vòng cuối để gia nhập WTO, khi các tập
đoàn lớn của Nhật Bản, Hoa Kỳ gửi các đoàn vào Việt Nam tìm hiểu môi trường đầu tư,

kinh doanh để tìm kiếm cơ hội đầu tư ... Rồi hàng loạt các sự kiện diễn ra tại Việt Nam
trong năm 2006 đã góp phần làm nổi lên làn sóng đầu tư mà đỉnh cao là vốn đăng ký và
vốn thực hiện của năm 2006 đều đạt mức đỉnh điểm kể từ khi nước ta thực thi Luật Đầu
tư. Rõ ràng nước ta đang đứng trước những cơ hội mới và cả những thách thức để có
thể thu hút mạnh mẽ hơn nguồn vốn FDI, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
1.2.2. Tình hình FDI từ 2006 đến năm 2009
Cùng với việc gia nhập WTO và thực hiện các cam kết quốc tế, VN đã chứng
kiến một "làn sóng đầu tư thứ hai" hết sức mạnh mẽ kể từ năm 2006 đến nay, mà đỉnh
cao là 20,3 tỉ USD thu hút trực tiếp FDI trong năm 2007.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI), tính đến cuối năm 2007, cả nước đã thu hút
được hơn 9.500 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỉ USD (gồm cả vốn cấp
mới và vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động hoặc giải thể trước thời
hạn, hiện còn khoảng 8.590 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 83,1 tỉ USD.
Trong số này, đã có khoảng 50% số dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỉ
USD, chiếm 52,3% tổng vốn đăng ký.
Các dự án ĐTNN đi vào hoạt động đã tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, giá
trị XK, đóng góp cho ngân sách, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động.
Hiện khu vực có vốn ĐTNN đã đóng góp trên 17% GDP, chiếm 16% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, đạt giá trị doanh thu trong 2 năm 2006-2007: 69 tỉ USD, trong đó giá trị
XK (trừ dầu thô) đạt 28,6 tỉ USD, chiếm 41% tổng doanh thu.
Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể
(32,3 tỉ USD), với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu vào những
lĩnh vực chúng ta chủ trương thu hút đầu tư như công nghiệp (sản xuất thép, điện tử,
sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin,
du lịch-dịch vụ cao cấp v.v...).
Trong quý I năm 2008, các doanh nghiệp ĐTNN đã góp vốn đầu tư thực hiện
trên 1,68 tỷ USD, tăng 24% so với vốn thực hiện của cùng kỳ năm trước. Doanh thu
của các doanh nghiệp ĐTNN trong qúy I năm 2008 ước tính đạt 7.600 triệu USD, tăng
27% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất khẩu ước đạt 5.398 triệu USD, tăng

20% so với cùng kỳ; nhập khẩu đạt 6100 triệu USD, tăng 39% so với cùng kỳ năm
trước, nộp ngân sách 355 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ. Năm 2008 thu hút 64 tỷ
USD, cao gấp gần 3 lần so với năm 2007, giải ngân 11,5 tỷ USD và quy mô vốn đạt tới
60 triệu USD/dự án. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước nhiều biến động
trong năm thì con số hơn 64 tỷ USD FDI cho thấy, Việt Nam vẫn là điểm đến của các
nhà đầu tư quốc tế. Cuộc khủng hoảng tài chính đã lan rộng toàn cầu nhưng các tập
đoàn xuyên quốc gia vẫn chọn Việt Nam là điểm đến an toàn. Ấn tượng của Việt Nam
trong mắt các nhà đầu tư không chỉ là một đất nước ổn định, vị trí địa lý thuận lợi, mà
còn là tính trách nhiệm cao của Chính phủ, các ngành trong việc giải quyết các vướng
mắc của nhà đầu tư, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trong thời
gian qua. Thời gian đăng ký kinh doanh, xét duyệt dự án đã được rút ngắn nhiều so với
trước đây; việc phân cấp quản lý đầu tư cũng đã tạo cho nhà đầu tư dễ dàng, thuận tiện
hơn trong việc nhận cấp phép đầu tư. Điểm mới trong thu hút FDI là số dự án lớn và
tính đồng đều của vốn FDI trong các vùng miền cao hơn so với các năm các dự án quy
mô lớn, lên tới vài tỷ USD ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Bên cạnh đó, thay vì đầu tư
chủ yếu vào các tỉnh, thành phố lớn, có lợi thế về địa lý, hạ tầng, FDI đã được lan toả
rộng hơn, dàn đều hơn trong các vùng, miền.
Ngày 23/11/2008, khởi động dự án Khu liên hợp Thép Cà Ná tại tỉnh Ninh
Thuận, có công suất 14,42 triệu tấn thép/năm, tổng vốn đầu tư gần 9,8 tỷ USD, đã được
báo chí dành cho sự quan tâm khá đặc biệt.Bởi, số vốn đăng ký của riêng dự án này đã
gần bằng tổng số vốn đăng ký của cả năm 2006 (trên 10 tỷ USD), và xấp xỉ một nửa
con số của năm 2007 (20,3 tỷ USD).Nhưng Thép Cà Ná không phải là cá biệt. Trong
vòng một năm qua, rất nhiều siêu dự án FDI quy mô vốn hàng tỷ USD đã “đổ” vào Việt
Nam, khiến cho tổng số vốn đăng ký tăng cao kỷ lục.
Với một con số quan trọng hơn - vốn giải ngân, thì năm 2008 cũng xác lập kỷ
lục. Năm qua, các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đã giải ngân số vốn lên tới 11,5 tỷ
USD, tăng 43,2% so với năm 2007.Nếu trong giai đoạn 20 năm trước đó (1988-2007),
vốn FDI thực hiện đạt 43 tỷ USD, tức là tính trung bình chỉ giải ngân được 2,15 tỷ
USD/năm, thì giải ngân trong năm 2008 đã bằng 26,7% tổng số vốn giải ngân 20 năm
trước đó. Năm 2008, khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách nhà nước

1,982tỷ USD, tăng 25,8% so với năm 2007.Cũng trong năm nay, khối doanh nghiệp này
đã tạo ra trên 200 nghìn việc làm mới trong tổng số 1,615 triệu việc làm mới tạo được
của cả nước, nâng tổng số lao động làm việc trong các dự án FDI lên 1,467 triệu người,
góp phần giải quyết vấn đề công ăn việc làm vốn đang rất nóng bỏng của Việt Nam
hiện nay.
* Năm dự án có vốn đầu tư lớn nhất trong năm 2008:
- Dự án Công ty TNHH Thép Vinashin - Lion (Malaysia) có số vốn đăng ký 9,8 tỷ
USD;
- Dự án Công ty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa của Đài Loan 7,9 tỷ USD;
- Dự án Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa) của Nhật Bản và Kuwait liên doanh
6,2 tỷ USD;
- Dự án Công ty TNHH New City Việt Nam 4,3 tỷ USD;
- Dự án Hồ Tràm của Canada trên 4,2 tỷ USD.
* Chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 được dự kiến từ đầu năm:
- Vốn thực hiện: đạt 10 tỷ USD vượt 25% năm 2007 (8 tỷ USD).
- Lao động: 160.000 người, tăng 6,7% so với năm 2007;
- Nộp ngân sách Nhà nước: 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007.
Năm 2009, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đổ vào Việt Nam thu hút
được 1.504 dự án FDI cả cấp mới và tăng vốn đạt trên 21,4 tỷ USD, bằng chưa đến
30% so với năm 2008 nhưng vẫn vượt mức kế hoạch đề ra. Đây vẫn được xem là kết
quả lạc quan trong bối cảnh nguồn vốn FDI trên toàn thế giới năm qua suy giảm gần
40% do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Nếu so với mục tiêu 20 tỷ USD đặt
ra từ đầu năm, việc thu hút FDI của Việt Nam trong năm nay không phải là quá tệ, nếu
không nói là kết quả khá, nhất là trong xu thế vốn FDI đổ vào các nước và khu vực trên
thế giới giảm do khủng hoảng. Vốn đăng ký cấp mới giảm mạnh tới 70% so với năm
trước, song số vốn giải ngân chỉ giảm 13%, ước đạt 10 tỷ USD. Cụ thể, trong năm
2009, Việt Nam thu hút được 839 dự án FDI đăng ký mới với tổng vốn đầu tư 16,345 tỷ
USD, bằng 24,6% so với cùng kỳ năm 2008. Cùng trong năm này, có 215 lượt dự án
tăng vốn với tổng vốn tăng thêm 5,137 tỷ USD, bằng 98,3% so với con số tương ứng
của năm ngoái. Việc các nhà đầu tư tăng vốn cho các dự án FDI cho thấy cái nhìn tích

cực đối với môi trường đầu tư ở Việt Nam.
1.3. Thực trạng đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam
1.3.1. Đầu tư FDI của EU vào Việt Nam.
Ngay từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào cuối năm 1997,các nhà
đầu tư EU đã trở thành những người đi tiên phong trong hoạt động đầu tư vào Việt
Nam,mở đầu bằng việc công ty dầu khí BP của Vương quốc Anh cùng với hai công ty
của Ấn Độ và Na Uy được cấp giấy phép thăm dò,khai thác dầu khí tại thềm lục địa
Việt Nam. Trong những năm đầu từ năm 1988 đến 1996, EU đã ký 207 dự án với Việt
Nam (chiếm 11,8% số dự án các nước đầu tư vào Việt Nam, trong đó Pháp với 98 dự
án, Hà Lan với 33 dự án, Đức 23 dự án và Anh là 22 dự án. Tổng số vốn đăng ký
là2765,3 triệu USD bằng 10,2% tổng số vốn đăng ký của các dự án đầu tư vào Việt
Nam. Vốn pháp định của 207 dự án này lên 1799,7 triệu USD chiếm 65,3% trong tổng
số vốn đăng ký. Các dự án đầu tư của EU tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực như
khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, khách sạn, du lịch. Trong số các nước đầu tư
vào Việt Nam thì Pháp, Anh, Đức, Hà Lan, Thuỵ Điển được xếp vào những quốc gia có
số vốn đầu tư lớn. Anh và Pháp nằm trong 10 nước đứng đầu vềđầu tư trực tiếp vào
Việt Nam. Cụ thể là: Tính đến năm 1999 với gần 30 dự án có tổng số vốn đầu tư
khoảng 1,2 tỷ USD, trong khi đó Pháp được coi là 1 trong những nước đầu tư lớn nhất
vào Việt Nam và tính đến năm 1998 có 79 dự án đang được thực hiện, với tổng số vốn
đầu tư là 633,5 triệu USD.Đầu tư là lĩnh vực được hai bên khuyến khích thông qua việc
tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư nhân bao gồm những điều kiện tốt hơn về
chuyển vốn và trao đổi thông tin về các cơ hội đầu tư, được thể hiện là: EU giúp Việt
Nam cải thiện môi trường kinh tế bằng cách tạo thuận lợi cho việc tiếp cận công nghệ
của EU; bên cạnh đó phía EU cũng tạo thuận lợi cho việc tiếp xúc giữa các nhà kinh
doanh tiến hành các biện pháp nhằm khuyến khích, trao đổi, buôn bán và đầu tư trực
tiếp và việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau trong lĩnh vực môi trường kinh tế, xã hội của
mình.Nhận rõ tiềm năng to lớn và chính sách quan hệ quốc tế của EU (các nước châu
Âu thường quan tâm đến nội bộ châu Âu hơn), Việt Nam cần xúc tiến, khai thông quan
hệ với EU, phải tìm mọi cách để hoà nhập vào thị trường EU mặc dù việc hoà nhập vào
thị trường này không phải dễ dàng nhưng đó cũng là một thị trường mà Việt Nam hoàn

toàn có thể tiếp cận.FDI của EU liên tục gia tăng về quy mô và nhịp độ,EU hiện có
hàng trăm dự án với tổng vốn đầu tư lên đến hàng tỷ USD.Trong đó Anh, Pháp, Hà Lan,
Thụy Điển và CHLB Đức là 5 nước đầu tư vào Việt Nam nhiều nhất trong khối EU.
Đặc biệt khi Vệt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).Ông
Oliver Massman, thành viên ban quản trị Phòng thương mại Châu Âu (Eurocham) tại
Việt Nam cho biết, các nhà đầu tư châu Âu ngày càng tin tưởng hơn vào các cơ hội kinh
doanh tại Việt Nam; đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư từ châu Âu,ở châu Âu, mối
quan tâm đến làm ăn tại Việt Nam đang ngày càng lớn hơn.Các tập đoàn viễn thông
chẳng hạn sẽ chắc chắn có mặt ngày càng đông vì Việt Nam có thị trường viễn thông rất
hấp dẫn, đối với các nhà đầu tư, lợi thế lớn của Việt Nam là một trong những quốc gia
có “ổn định chính trị tốt nhất trong thập kỷ qua ở châu Á” và một lợi thế lớn nữa là Việt
Nam có nhân công tay nghề cao, học hỏi nhanh và lương tương đối thấp. Đánh giá cao
cố gắng của Chính phủ Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư, cơ quan hữu trách
thật sự cầu thị và lắng nghe lời khuyên từ các nhà đầu tư. So với các nước khác khá bảo
thủ trong việc này ,Việt Nam là một nước rất tích cực.Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng
có nghĩa là Việt Nam sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới và để giữ vững khả
năng cạnh tranh và mức tăng trưởng cao, Việt Nam sẽ cần tái cơ cấu nền kinh tế và cải
thiện cơ sở hạ tầng, hướng tới sự tăng trưởng bền vững.Sau khi gia nhập WTO, mức
lương cho công nhân trong ngành sản xuất sẽ tăng. Điều này có lợi cho lao động nhưng
đối với nhà sản xuất, họ sẽ cân nhắc về điều này. Chính vì vậy, Việt Nam cũng cần cẩn
trọng khi tăng lương quá nhanh bởi như thế có thể đánh mất lợi thế cạnh tranh so sánh
với các nước trong khu vực.Ngoài ra để thu hút nhiều đầu tư, Việt Nam cần có hệ thống
luật pháp và thương mại ổn định và có trách nhiệm giải trình, và ban hành các hướng
dẫn thi hành thật rõ ràng. Các vấn đề về tranh chấp lao động hoặc các hướng dẫn rõ
ràng về việc mở văn phòng đại diện của các Công ty thương mại cũng cần được giải
quyết thấu đáo và triệt để để tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Hiện nay xuất khẩu của
Việt Nam mới chỉ dựa chủ yếu vào các mặt hàng sơ chế và nguyên liệu và còn thiếu cơ
sở cho tăng trưởng bền vững, do đó Việt Nam cần thu hút các nhà đầu tư trong lĩnh vực
chế biến để làm sao thêm giá trị gia tăng tại Việt Nam vào các mặt hàng rồi mới xuất
khẩu. Việt Nam sẽ thành công hơn trong thu hút đầu tư so với các nước trong khu vực

nếu “biết cách tăng trưởng bền vững và gửi thông điệp đến các nhà đầu tư về môi
trường luật pháp ổn định và các cơ hội kinh doanh sẵn có.
1.3.2.Vốn và cơ cầu vốn đầu tư theo ngành
Đầu tư của EU có mặt hầu khắp trong các lĩnh vực của nền kinh tế và đóng góp
tích cực vào phát triển kinh tế Việt Nam.EU có ưu thế về công nghệ cao nên các dự án
đầu tư trực tiếp chủ yếu tập trung vào giao thông vận tải, bưu điện, lĩnh vực thẳm dò và
khai thác dầu khí,kinh doanh khác sạn,du lịch, công nghiệp nặng, may mặc, rượu bia,
nước giải khát…

×