CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp có ảnh hưởng tới công tác kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các
doanh nghiệp xây lắp
1.1.1. Đặc điểm chung của các doanh nghiệp xây dựng cầu đường
Xây dựng cầu đường là một ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt
động hiệu quả của công tác xây dựng công trình giao thông có ý nghĩa đối với sự phát
triển chung của quốc gia.
Hoạt động của ngành xây dựng cầu đường là hoạt động hình thành nên năng lực sản
xuất cho các ngành, các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Nói một cách cụ thể hơn
sản xuất xây dựng cầu đường bao gồm các hoạt động: xây dựng mới, mở rộng, khôi
phục, cải tạo lại, hay hiện đại hóa các công trình hiện có thuộc về hệ thống giao thông
vận tải.
Doanh nghiệp xây lắp nói chung và doanh nghiệp xây dựng cầu đường nói riêng là
đơn vị kinh tế cơ sở, là nơi trực tiếp sản xuất kinh doanh, gồm một tập thể lao động
nhất định có nhiệm vụ sử dụng các tư liệu lao động và đối tượng lao động để sản xuất
ra các sản phẩm xây lắp phục vụ cho nhu cầu tái sản xuất cho nền kinh tế.
Xây dựng được coi là một ngành công nghiệp đặc biệt vì nếu xét về mặt tài chính và
theo đà công nghiệp hóa ngành xây dựng trong điều kiện hiện nay thì ngành xây dựng
sẽ càng giống các ngành kinh tế khác hơn. Về mặt tài chính ngành xây dựng có các đặc
điểm riêng sau:
Do thời gian thi công dài nên phải tổ chức nghiệm thu và thanh toán theo từng phần
khối lượng công trình chứ không chờ đến khi công trình hoàn tất mới thanh toán như
trong các ngành công nghiệp khác.
Phần lớn số vốn của ngành xây dựng bỏ vào những công trình chưa hoàn thành. Vì
vậy phải cố gắng tập trung tiền vốn để rút ngắn thời hạn thi công xây dựng. Càng rút
ngắn được kỳ hạn thi công xây dựng thì càng giúp tăng lợi nhuận và tiết kiệm vốn cho
ngành xây dựng. Đặc điểm này cũng thể hiện sự khác biệt giữa ngành xây dựng với các
ngành công nghiệp khác.
Mặt khác do điều kiện xây dựng mỗi công trình không giống nhau nên việc kiểm tra
tài chính đối với chất lượng sản phẩm không những chỉ đối với công việc có tính chất
sản xuất mà phải đối với cả văn kiện dự toán thiết kế và những luận chứng kinh tế kỹ
thuật của công trình.
Do đặc điểm của ngành xây dựng cầu đường nói riêng và ngành xây dựng nói chung
có những điểm khác biệt so với các ngành công nghiệp nên sản phẩm xây lắp của các
doanh nghiệp này cũng mang những đặc điểm khác biệt so với sản phẩm của các ngành
công nghiệp khác.
1.1.2. Đặc điểm sản phẩm xây lắp
Từ những đặc điểm riêng của ngành xây dựng dẫn đến những đặc điểm có tính chất
đặc thù của những sản phẩm xây lắp. Những đặc điểm này có ảnh hưởng trực tiếp đến
công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh
nghiệp xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc… có quy mô lớn, kết
cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài…Vì vậy
đòi hỏi phải có kế hoạch, dự toán chi tiết về thiết kế và thi công trong quá trình sản
xuất, điều đó giúp cho việc quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp được dễ dàng hơn.
Có thể so sánh giữa các số liệu dự toán với các số liệu thực tế phát sinh khi tiến hành
sản xuất, coi dự toán là thước đo và giúp giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công
trình xây lắp.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư
do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất như xe, máy
thiết bị thi công, người lao động… phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc
điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do
ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và đễ mất mát hư hỏng… Sản phẩm xây
lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng
thường kéo dài, nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng công
trình. Quán trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành
nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời đòi hỏi việc tổ chức
quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự
toán, các nhà thầu phải có trách nhiệm bảo hành công trình tức là việc chủ đầu tư giữ lại
một tỷ lệ nhất định trên giá trị công trình, khi hết thời hạn bảo hành công trình, mới trả
lại cho đơn vị xây lắp. Đặc điểm đó cũng ảnh hưởng và tạo nên điểm riêng biệt trong
công việc của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp so với các sản
phẩm khác.
Từ những đặc điểm riêng của ngành xây dựng dẫn đến những đặc điểm có tính chất
đặc thù của các sản phẩm xây lắp đã ảnh hưởng đến việc tổ chức công tác kế toán hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp như ảnh hưởng đến việc phân
loại chi phí sản xuất, nội dung, phương pháp trình tự hạch toán chi phí sản xuất, cơ cầu
giá thành sản phẩm xây lắp.
1.2. Chi phí sản xuất và hạch toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp
xây lắp.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng là quá trình biến đổi một
cách có ý thức, có mục đích các yếu tố đầu vào: đối tượng lao động, tư liệu lao động và
lao động sống tạo thành các công trình, hạng mục công trình, các sản phẩm, lao vụ…
Các yếu tố về tư liệu lao động, đối tượng lao động (mà biểu hiện cụ thể là các hao
phí về lao động vật hóa) dưới sự tác động có mục đích của sức lao động (biểu hiện là
hao phí lao động sống) qua quá trình biến đổi sẽ trở thành các sản phẩm, công trình…
Để đo lường các hao phí mà các doanh nghiệp đã bỏ ra trong từng thời kỳ hoạt động
kinh doanh là bao nhiêu nhằm tổng hợp, xác định kết quả đầu ra, phục vụ yêu cầu quản
lý. Mọi hao phí cuối cùng đều được thể hiện bằng thước đo tiền tệ gọi là chi phí sản
xuất kinh doanh.
Do vậy chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp xây dựng là biểu hiện bằng
tiền, hao phí về lao động và lao động vật hóa mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong
quá trình sản xuất thi công và bàn giao sản phẩm xây lắp trong một kỳ nhất định. Mặc
dù vậy trên góc độ nghiên cứu và quản lý khác nhau có những cách hiểu về chi phí sản
xuất khác nhau, cụ thể ở đây ta xét trên góc độ kế toán thì chi phí sản xuất kinh doanh
luôn gắn liền với một kỳ sản xuất kinh doanh nhất định và phải là chi phí thực. Nên cần
phân biệt rõ về chi phí và chi tiêu:
Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật
hóa cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính cho một kỳ kinh doanh. Như vậy
theo định nghĩa chi phí về phương diện kế toán được ghi vào bên Nợ của tài khoản chi
phí.
Chi tiêu là sự hao phí vật chất tại một thời điểm tiêu dùng. Cụ thể về phương diện
kế toán được ghi vào bên Có tài khoản tài sản. Tổng số chi tiêu của doanh nghiệp trong
kỳ gồm chi tiêu mua sắm nguyên vật liệu hàng hóa, chi tiêu cho quá trình sản xuất sản
phẩm và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ.
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau,
trong đó chi tiêu là cơ sở của chi phí. Không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng số
chi phí của doanh nghiệp trong kỳ bao gồm toàn bộ giá trị vật tư, tài sản hao phí cho
quá tình sản xuất kinh doanh trong kỳ. Chi phí và chi tiêu khác nhau về lượng, về thời
giá, chẳng hạn có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng được tính chi phí cho nhiều kỳ
sau.
Từ đó ta có thể kết luận chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định của doanh nghiệp xây lắp, bao
gồm chi phí sản xuất xây lắp, và chi phí sản xuất ngoài xây lắp. Chi phí sản xuất xây lắp
cấu thành nên giá thành của sản phẩm xây lắp. Từ khái niệm về chi phí sản xuất sản
phẩm xây lắp ta có thể phân loại chi phí sản xuất như sau:
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp có rất nhiều cách để phân loại theo các tiêu thức
khác nhau. Mỗi cách phân loại chi phí mang lại những tác dụng khác nhau cho quá trình
quản lý và ra quyết định. Dưới đây là một số cách phân loại chi phí thường được sử
dụng.
1.2.1.1. Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí
Theo cách phân loại này thì chi phí sản xuất được chia ra thành các loại chi phí sau:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: gồm tất cả chi phí vật liệu trực tiếp sử dụng cho
thi công xây lắp, bao gồm các vật liệu chính, phụ và các vật liệu khác.
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản mà doanh ngiệp phải trả cho công
nhân trực tiếp thi công xây lắp. Tiền lương của công nhân trực tiếp tham gia xây dựng
công trình. Phục cấp làm thêm giờ, các khoản phụ cấp có tính chất lương như phụ cấp
trách nhiệm, phụ cấp tổ trưởng, nóng độc hại.. Tiền ăn giữa ca.. Trong chi phí nhân
công trực tiếp không bao gồm: lương của công nhân vận chuyển ngoài công trường,
lương công nhân sản xuất phụ, nhân viên quản lý, công nhân điều khiển sử dụng máy
thi công, những người làm công tác bảo quản công trường.
Chi phí sử dụng máy thi công
Chi phí sử dụng máy thi công, trong hoạt động xây lắp cần phải sử dụng các loại
máy thi công chuyên dùng. Máy thi công xây lắp là một bộ phận của TSCĐ, bao gồm
tất cả các loại xe máy kể cả thiết bị được chuyển động bằng động cơ (chạy bằng hơi
nước, diezel, xăng…) được sử dụng trực tiếp cho công tác xây lắp trên các công trường
thay thế cho sức lao động của con người trong các công việc làm đất, làm đá, làm bê
tông, làm nền móng, xúc, nâng cấp, vận chuyển… như máy nghiền đá, máy trộn bê
tông, máy sản nền, máy xúc, máy vận thăng, máy cạp chuyển, cần cẩu… Chi phí máy
thi công chiếm một tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm xây lắp và là một khoản
mục chi phí có công dụng riêng biệt, do vậy cần phải tổ chức theo dõi riêng và có
phương pháp phân bổ khoa học hợp lý cho các đối tượng sử dụng. Do đó, người ta chia
chi phí sử dụng máy làm thành hai loại:
Chi phí thường xuyên, chi phí hàng ngày cần thiết cho việc sử dụng máy thi công.
Các chi phí này khi phát sinh được tính hết một lần vào chi phí sử dụng máy. Chi phí
nhiên liệu, động lực dùng cho máy thi công. Tiền lương, phụ cấp…Khấu hao máy thi
công. Chi phí thuê máy thi công (nếu có), chi phí sửa chữa thường xuyên máy thi công.
Các chi phí khác: công cụ, dụng cụ…
Chi phí tạm thời: chi phí pháp sinh một lần tương đối lớn, không định mức hay tính
trước được. Các chi phí này khi phát sinh không tính hết 1 lần vào chi phí sử dụng máy
mà được phân bổ theo thời gian sử dụng ở công trường. Chi phí sử dụng máy thi công
liên quan đến nhiều đối tượng xây lắp nên việc phân bổ chi phí sử dụng máy thi công
cho các đối tượng xây lắp được thực hiện theo từng loại máy, nhóm máy căn cứ vào số
ca máy hoạt động thực tế hoặc khối lượng công việc hoàn thành của máy.
Đối với máy theo dõi được quá trình hoạt động và tập hợp được chi phí riêng cho
từng loại máy, nhóm máy:
Đơn giá bình quân 1 ca máy hay 1 đơn vị khối lượng
công tác máy hoàn thành
=
Tổng chi phí sử dụng máy thực tế
Tổng số ca máy (tổng khối lượng công tác
hoàn thành)
Chi phí sử dụng máy phân bổ:
Chi phí sử dụng máy phân bổ cho từng
đối tượng xây lắp
= Đơn giá bình quân 1 ca máy
Số ca máy phục vụ cho
từng đối tượng
Đối với các loại máy mà chi phí phát sinh được tập hợp chung. Việc phân bổ chi phí
sử dụng máy cho các đối tượng xây lắp phải áp dụng phương pháp hệ số tính đổi.
Hệ số tính đổi cho từng loại máy
=
Đơn giá kế hoạch 1 ca máy
của loại máy tính đổi
Đơn giá kế hoạch 1 ca máy thấp nhất
trong các loại máy
Số ca máy tiểu chuẩn:
Số ca máy tiểu chuẩn của từng
máy loại máy
=
Số ca máy hoạt động thực tế
của loại máy đó
Hệ số tính đổi của loại máy
đó
Đơn giá 1 ca máy:
Đơn giá 1 ca máy
tiêu chuẩn
=
Tổng chi phí sử dụng máy thực tế phát sinh
Tổng ca máy tiêu chuẩn của các loại máy
Chi phí sử dụng máy:
Chi phí sử dụng máy phân bổ
cho từng đối tượng xây lắp
=
Đơn giá 1 ca máy tiêu
chuẩn
Số ca máy tiêu chuẩn phục vụ cho
từng đối tượng
Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phục vụ cho sản xuất xây lắp, những chi
phí có tính chất dùng chung cho hoạt động xây lắp gắn liền với từng công trường cụ
thể: chi phí nhân viên phân xưởng, tiền lương của công nhân phục vụ trên công trường
như khuân vác máy móc trong lúc thi công từ chỗ để của công trường đến nơi xây
dựng,… và các khoản trích theo lương. Chi phí vật liệu: chi phí vật liệu xuất dùng
chung cho hoạt động xây lắp như vật liệu dùng để bảo dưỡng, bảo trì công cụ, dụng cụ
trên công trường… Chi phí dụng cụ sản xuất xây lắp: vắn khuôn, đà giáo, cuốc xẻng…
Chi phí khấu hao TSCĐ. Chi phí dịch vụ mua ngoài chi phí điện, nước, điện thoại, chi
phí sửa chữa TSCĐ thuê ngoài,…Chi phí bằng tiền khác: những chi phí bằng tiền nhằm
phục vụ hay liên quan đến hoạt động xây lắp trên công trường nhưng không thuộc
những khoản trên.
Cách phân loại này có tác dụng:
• Cung cấp thông tin để kiểm soát thực hiện chi phí theo định mức.
• Cung cấp số liệu để tính giá thành sản phẩm.
• Cung cấp thông tin để định mức chi phí, xác định giá thành định mức.
1.2.1.2. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Cách ứng xử của chi phí có nghĩa là những chi phí này sẽ thay đổi như thế nào khi
mức độ hoạt động kinh doanh thay đổi. Cách phân loại này đáp ứng nhu cầu lập kế
hoạch, kiểm soát chi phí và chủ động điều tiết chi phí của nhà quản lý. Theo cách phân
loại này, toàn bộ chi phí của doanh nghiệp được phân thành:
Biến phí: Là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ hoạt
động. Biến phí khi tính cho một đơn vị sản phẩm thì ổn định không thay đổi, tổng biến
phí thay đổi khi sản lượng thay dổi và biến phí bằng không khi không có hoạt động.
Định phí: Là những chi phí không thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi. Tuy
nhiên, định phí chỉ giữ nguyên trong phạm vi phù hợp với mức độ hoạt động. Định phí
cho một đơn vị sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay đổi.
Chi phí hỗn hợp: Là những chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí lẫn định phí như
chi phí về điện, nước, điện thoại… ở mức độ hoạt động căn bản chi phí hỗn hợp thể
hiện đặc điểm của định phí, quá mức độ đó nó thể hiện đặc điểm của biến phí.
1.2.1.3. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế, chi phí được
phân theo yếu tố. Theo cách này toàn bộ chi phí được chi ra làm 7 yếu tố:
Yếu tố nguyên vật liệu
Yếu tố nhiên liệu, động lực
Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương
Yếu tố khấu hao tài sản cố định
Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ
Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài
Yếu tố chi phí khác bằng tiền
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại chi phí sản xuất khác.
1.2.2. Hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
1.2.2.1. Đối tượng, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp
xây lắp
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn mà các chi phí sản xuất phát
sinh được tập hợp theo phạm vi giới hạn đó.
Để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở từng doanh nghiệp, cần căn cứ vào
các yếu tố như tính chất sản xuất, loại hình sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ sản
xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất, yêu cầu tính giá thành, đối tượng tính giá
thành, yêu cầu quản lý, khả năng, trình độ quản lý doanh nghiệp…
Như vậy đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng sản phẩm, chi tiết sản
phẩm, toàn bộ quy trình công nghệ, từng giai đoạn công nghệ, từng phân xưởng sản
xuất, từng đội sản xuất, từng đơn đặt hàng. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất có thể là
nơi phát sinh chi phí hoặc có thể là các đối tượng chịu chi phí. Như vậy, thực chất của
việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định nội dung chi phí và giới hạn tập hợp
chi phí đó.
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Do đối tượng kế toán chi phí khác nhau nên cũng có nhiều phương pháp khác nhau
để kế toán chi phí sản xuất phù hợp với từng đối tượng. Vì thế, trong thực tế thường áp
dụng các phương pháp kế toán chi phí sau đây:
Kế toán theo chi tiết hoặc bộ phận sản phẩm (hạng mục công trình): là các giai đoạn
xây lắp của các công trình hạng mục công trình có dự toán riêng. Hàng tháng, chi phí
sản xuất phát sinh được tập hợp cho từng giai đoạn xây lắp có liên quan. Khi hoàn
thành, tổng cộng chi phí theo các giai đoạn chính là giá thành sản phẩm xây lắp.
Kế toán theo sản phẩm: theo sản phẩm hay theo đơn đặt hàng, sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp là công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Hàng tháng, chi
phí sản xuất phát sinh có liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì được
tập hợp vào đối tượng đó một cách thích hợp. Khi hoàn thành, tổng chi phí theo đối
tượng hạch toán cũng chính là giá thành sản phẩm xây lắp.
Kế toán chi phí theo giai đoạn công nghệ: theo giai đoạn công nghệ, được áp dụng
đối với doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất cấu kiện lắp sẵn. Trong các
doanh nghiệp đó, toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm được chia thành nhiều
giai đoạn công nghệ, số liệu được chế biến liên tục từ khâu đầu cho đến khâu cuối theo
một trình tự nhất định.
Kế toán theo dây truyền sản xuất.
Kế toán chi phí theo đơn vị sản xuất.
1.2.2.2. Trình tự kế toán và tập hợp chi phí sản xuất
Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học
thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời. Trình tự này phụ
thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành, nghề, từng doanh nghiệp phụ thuộc vào
mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiêp, phụ thuộc vào
trình độ công tác quản lý và kế toán… Tuy nhiên, có thể khái quát chung về việc tập
hợp chi phí sản xuất qua sơ đồ sau:
Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan
trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng
Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản
xuất kinh doanh phụ có liên quan trực tiếp cho
từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao
vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ
1.2.3. Nội dung hạch toán chi phí sản xuất
1.2.3.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Để hạch toán các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán sử dụng
TK 621: tài khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này để tập hợp toàn bộ
chi phí nguyên vật liệu dùng cho sản xuất, thi công xây lắp, chế tạo sản phẩm phát sinh
trong kỳ.
Khi hạch toán tài khoản này cần tôn trọng một số quy định sau:
1. Chỉ hạch toán vào TK 621 những chi phí nguyên liệu, vật liệu (gồm cả
nguyên liệu, vật liệu chính và vật liệu phụ) được sử dụng trực tiếp cho sản xuất, thi
công xây lắp.
2. Trong kỳ kế toán thực hiện việc ghi chép, tập hợp chi phí nguyên liệu, vật
liệu trực tiếp vào bên Nợ TK621
3. Cuối kỳ kế toán, thực hiện kết chuyển (nếu nguyên liệu, vật liệu đã được tập
hợp riêng biệt cho đối tượng sử dụng), hoặc tiền hành phân bổ và kết chuyển chi phí
nguyên liệu, vật liệu (nếu không tập hợp riêng biệt cho từng đối tượng sử dụng) vào TK
154 phục vụ cho việc tính giá thành thực tế của sản phẩm, dịch vụ trong kỳ kế toán.
4. Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ, nếu
mua nguyên liệu, vật liệu sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối
tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ, hoặc nếu mua nguyên liệu, vật
liệu không qua nhập kho đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động sản xuất, kinh doanh thì
trị giá nguyên liệu, vật liệu sẽ không bao gồm thuế GTGT.
5. Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ, nếu
mua nguyên liệu, vật liệu sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không
thuộc diện đối tượng chịu thuế GTGT hoặc thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo
Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất
chung cho các sản phẩm có liên quan
Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
phương pháp trực tiếp và doanh nghiệp nộp thuế GTGT tính theo phương pháp trực
tiếp, thì giá trị nguyên liệu, vật liệu sử dụng cho sản xuất kinh doanh sẽ bao gồm cả
thuế GTGT của khối lượng nguyên liệu, vật liệu mua vào sử dụng ngay không qua kho.
Kết cấu của TK621:
Bên Nợ:
Trị giá thực tế nguyên liệu, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho sản xuất, thi công
xây lắp.
Bên Có:
Kết chuyển trị giá nguyên liệu, vật liệu thực tế sử dụng cho sản xuất, thi công
xây lắp vào TK154: “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” hoặc TK632: “ Giá
thành sản phẩm” và chi tiết cho các đối tượng để tính giá thành sản phẩm
Trị giá nguyên liệu, vật liệu trực tiếp sử dụng không hết được nhập lại kho.
TK 621 cuối kỳ không có số dư.
Sơ đồ 1.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
TK152
TK621
TK111, 112, 331…
TK133
(2)
(1)
( 1’)
(3)
(3’)
(4)
Giải thích:
(1): Mua nguyên liệu, vật liệu nhập kho
(2): Xuất kho nguyên liệu, vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất, thi công
(3): Mua nguyên liệu, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho sản xuất, thi công
(4): Giá trị nguyên liệu, vật liệu không sử dụng hết cuối kỳ nhập lại kho
(1’), (2’): Thuế GTGT đầu vào
1.2.3.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp trong doanh nghiệp xây dựng giao thông là những khoản
tiền phải trả cho người lao động trực tiếp tham gia quá trình hoạt động xây lắp bao gồm
tiền lương chính, tiền lương phụ, các khoản phụ cấp và các khoản phải trả cho người
lao động thuê ngoài. Chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm các khoản trích trên
lương: BHXH, BHYT, KPCĐ.
Nhân công trong các doanh nghiệp xây dựng giao thông gồm hai loại lao động:
Lao động trong đơn vị: Chứng từ ban đầu để hạch toán khoản mục nhân công là các
bảng chấm công được lập hàng tháng cho từng đội sản xuất, từng bộ phận sản xuất. Nó
cho ta biết rõ lao động nào làm việc ngày nào, hưởng lương ngày đó theo mức quy định
đối với từng loại công việc.
Việc tính lương cho lao động trong đơn vị được tính theo nhiều cách nhưng phổ
biến là tính lương theo sản phẩm (lương công nhật), và tính lương theo thời gian.
Lao động thuê ngoài: doanh nghiệp trả lương theo hình thức khoán
Hình thức trả lương theo khối lượng công việc giao khoán: Theo hình thức này
vấn đề quan trọng là phải xây dựng được định mức kinh tế kỹ thuật để làm cơ sở cho
việc xây dựng đơn giá tiền lương đối với từng loại công việc một cách hợp lý.
Tiền lương phải trả =
Khối lượng công việc giao khoán
hoàn thành
Đơn giá tiền lương
Tiền lương trả theo khối lượng công việc giao khoán có thể được tính cho từng người
lao động hoặc chung cho cả nhóm tổ công nhân.
Hàng tháng căn cứ vào bảng chấm công, hợp đồng làm khoán và chứng từ khác có
liên quan, kế toán làm bảng thanh toán tiền lương theo từng tổ, đội sản xuất, các phòng
ban và kiểm tra việc trả lương cho cán bộ công nhân viên. Sau đó kế toán lập bảng
thanh toán lương cho toàn doanh nghiệp và làm thủ tục rút tiền gửi về quỹ tiền mặt để
trả lương.
Việc thanh toán lương được thực hiện mỗi tháng hai kỳ: kỳ 1 tạm ứng, kỳ 2 nhận
phần còn lại sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải khấu trừ như tiền nhà, tiền điện nước,
các khoản tạm ứng… Tiền lương phải phát tận tay người lao động hoặc đại diện tập thể
lĩnh lương.
Kế toán sử dụng TK622: “ Chi phí nhân công trực tiếp” để hạch toán.
Tài khoản này dùng để tập hợp và kết chuyển số chi phí tiền công của công nhân xây
lắp trực tiếp (bao gồm tiền công, tiền lương, tiền thưởng, và các khoản phải trả khác có
tính chất tiền lương của công nhân sản xuất xây lắp). Cuối kỳ kết chuyển sang TK154:
“Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”. TK622 không phản ánh chi phí trích 19%
(BHXH, BHYT, KPCĐ).
Kết cấu TK 622:
Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp trong kỳ
Bên Có: Kết chuyển, phân bổ vào TK 154
TK622 cuối kỳ không có số dư
Sơ đồ1.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
TK111, 112
TK622
TK141
(3)
(2)
(1)
(4)
(5)
Giải thích:
(1): Tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp tham gia sản xuất, thi công.
(2): Trích trước lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất.
(3): Tiền lương nghỉ phép phải trả.
(4): Tạm ứng tiền công cho các đơn vị nhận khoán khối lượng xây lắp.
(5): Thanh toán giá trị nhân công nhận khoán theo bảng quyết toán.
1.2.3.3. Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công
Máy thi công là các loại máy phục vụ trực tiếp cho sản xuất xây lắp như máy trộn bê
tông, cần trục, cần cẩu tháp, máy ủi, máy xúc…
Trong doanh nghiệp thường có các hình thức sử dụng máy thi công:
Đơn vị thi công có máy và tự tổ chức thi công bằng máy: Trong trường hợp này thì
máy thi công là tài sản của bản thân doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tổ chức tổ, đội
thi công cơ giới chuyên trách thi công khối lượng, xây lắp bằng máy trực thuộc doanh
nghiệp. Hạch toán phải phản ánh toàn bộ chi phí trực tiếp phát sinh trong quá trình sử
dụng máy thi công. Hoạt động của tổ đội máy thi công chuyên trách có thể là đơn vị
TK334
TK335
hạch toán nội bộ, nếu đơn vị này có tính toán lãi, lỗ riêng thì có thể tiến hành theo
phương thức bán lao vụ cho các bộ phận thi công khác của doanh nghiệp.
Đơn vị thi công đi thuê máy: Trong trường hợp này, máy không thuộc tài sản của
doanh nghiệp. Có thể có các trường hợp thuê sau:
Thuê máy thi công không kèm theo công nhân điều khiển và phục vụ máy. Đơn vị đi
thuê phải trả đơn vị cho thuê khoản tiền quy định theo hợp đồng (gồm khoản theo định
mức một ca máy cộng tỷ lệ định mức về quản lý xe máy). Đơn vị đi thuê máy phải tự
hạch toán chi phí sử dụng máy.
Thuê máy theo khối lượng công việc. Bên thuê máy phải trả tiền cho bên cho thuê
máy theo đơn giá quy định với khối lượng công việc đã hoàn thành.
Tất cả các trường hợp trên chỉ là thuê ngắn hạn, nếu thuê dài hạn thì phải có một
phương pháp hạch toán riêng.
Chi phí sử dụng máy thi công bao gồm toàn bộ chi phí về vật tư, lao động, khấu hao
và chi phí bằng tiền trực tiếp cho quá trình sử dụng máy thi công của doanh nghiệp.
Kế toán sử dụng TK 623 để hạch toán chi phí sử dụng máy thi công
Tài khoản này dùng để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng máy phục vụ trực tiếp cho
hoạt động xây lắp công trình.
Tài khoản này chỉ sử dụng trong những doanh nghiệp xây lắp, tổ chức thi công xây
lắp hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy (doanh nghiệp xây lắp có đội xe máy,
đội xây lắp…)
Kết cầu TK623: “Chi phí sử dụng máy thi công”
Bên Nợ: Chi phí sử dụng máy thi công phát sinh trong kỳ (nhiên liệu, tiền lương,
khấu hao, chi phí bảo dưỡng sửa chữa máy thi công…)
Bên Có: Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào TK154
TK623 cuối kỳ không có số dư.
TK623 có 6 tài khoản cấp 2:
TK6231: chi phí nhân công – Dùng để phản ánh tiền lương chính và phụ của công
nhân điều khiển máy (tài khoản này không phản ánh trích 19% theo lương)
TK6232: Chi phí vật liệu - Phản ánh chi phí nhiên liệu xăng dầu, vật liệu khác.
TK6233: Chi phí dụng cụ sản xuất - Phản ánh chi phí dụng cụ phục vụ máy thi công.
TK6234: Chi phí khấu hao máy thi công
TK6237: Chi phí dịch vụ mua ngoài – Thuê sửa chữa, bảo hiểm xe máy, chi phí điện
nước, chi phí trả cho nhà thầu phụ.
TK6238: Chi phí bằng tiền khác.
Nếu tổ chức đội xe, máy thi công riêng, được phân cấp hạch toán và có tổ chức kế
toán riêng, thì công việc kế toán được tiến hành như sau:
Hạch toán các chi phí liên quan tới hoạt động của đội xe, máy thi công, ghi:
Nợ các TK621,622,627
Có các TK 111, 112, 152, 331, 334, 214
Hạch toán chi phí sử dụng xe, máy và tính giá thành ca xe, máy thực thiện trên
TK154: “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” căn cứ vào giá thành ca máy (theo giá
thành thực tế hoặc giá khoán nội bộ) cung cấp cho các đối tượng xây, lắp (công trình,
hạng mục công trình); tuỳ theo phương thức tổ chức công tác kế toán và mối quan hệ
giữa đội xe máy thi công với đơn vị xây, lắp công trình để ghi sổ
Nếu doanh nghiệp thực hiện theo phương thức cung cấp dịch vụ xe, máy lẫn nhau giữa
các bộ phận, ghi:
Nợ TK623- Chi phí sử dụng máy thi công
Có TK154 – Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Nếu doanh nghiệp thực hiện theo phương thức bán dịch vụ xe, máy lẫn nhau giữa các
bộ phận trong nội bộ, ghi:
Nợ TK623: Chi phí sử dụng máy thi công
Nợ TK133: Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK333: Thuế và các khoản phải nộp nhà nước (33311) (xác định thuế GTGT
phải nộp tính trên giá bán nội bộ về ca xe, máy bán dịch vụ)
Có TK512: Doanh thu bán hàng nội bộ
Nếu không tổ chức đội xe, máy thi công riêng; hoặc có tổ chức đội xe, máy thi công
riêng nhưng không tổ chức kế toán riêng cho đội thì toàn bộ chi phí sử dụng xe, máy
(kể cả chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời như: phụ cấp lương, phụ cấp lưu động
của xe, máy thi công) sẽ hạch toán như sau:
Căn cứ vào tiền lương, tiền công và các khoản phải trả cho công nhân điều khiển xe,
máy, phụ vụ xe, máy, ghi:
Nợ TK623 (TK 6231): chi phí sử dụng máy thi công