Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.75 KB, 13 trang )

98
Chiều ngày 26- 05- 2005

PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
JEAN-PIERRE REMERY
Tiến sĩ Luật
Chánh Tòa Phúc thẩm Orléan, Pháp
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu các thuật ngữ sau:
« Phá sản doanh nghiệp» là thuật ngữ vừa chỉ tình trạng một con nợ không có khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn vừa chỉ thủ tục xử lý phá sản nhằm giải quyết
tình trạng khó khăn đó trên cơ sở một quyết định của cơ quan hành chính hoặc của
tòa án. Hiện nay, nghĩa thứ hai của thuật ngữ này không còn được sử dụng trong pháp
luật hiện đại đặc biệt là trong pháp luật Pháp. Thay vì sử dụng thuật ngữ "phá sản",
người ta thường sử dụng các thuật ngữ khác như « thủ tục giải quyết tình trạng mất
khả năng thanh toán», « phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp » hoặc « thủ tục giải
quyết nợ tập thể ». Hiện nay thuật ngữ này còn mang một ý nghĩa mới, nó chỉ một
biện pháp áp dụng đối với cá nhân chủ doanh nghiệp, theo đó chủ doanh nghiệp sẽ
không được phép tham gia hoạt động thương mại hoặc tham gia lãnh đạo doanh
nghiệp. Tuy nhiên, tư pháp quốc tế vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ "phá sản" bởi vì
thuật ngữ này đơn giản và dễ được thừa nhận ở nước ngoài.
Theo nghĩa hẹp, phá sản « có yếu tố nước ngoài » là trường hợp con nợ bị lâm vào
tình trạng phá sản có tài sản ở nhiều nước. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ « phá sản có
yếu tố nước ngoài » được sử dụng đối với những trường hợp phá sản mà có bất kỳ yếu
tố nước ngoài nào như: doanh nghiệp có hoạt động ở ngoài lãnh thổ quốc gia dù cho
hoạt động đó không có sự hỗ trợ của tài sản hoặc trường hợp chủ nợ của doanh
nghiệp ở nước ngoài.
Tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Những thay đổi của ngành luật này trong
thời gian vừa qua không làm cho nó đơn giản hơn.
Trước hết, phức tạp bởi vì nguồn của tư pháp quốc tế về phá sản rất phức tạp. Ví dụ:
trong pháp luật Pháp, nguồn của ngành luật này rất nhiều, cụ thể:
ƒ


Án lệ : Cho đến thời gian gần đây, án lệ, đặc biệt là án lệ của Tòa án Tư pháp tối
cao (Tòa dân sự và thương mại) gần như là nguồn chủ yếu của tư pháp quốc tế về phá
sản doanh nghiệp. Xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, sau một thời gian
vắng bóng, đến giữa những năm 1980, án lệ lấy lại vị trí của mình. Trong pháp luật
Pháp, án lệ tạo thành các quy định chung của tư pháp quốc tế về phá sản.
ƒ
Các văn bản pháp luật trong nước: Ở Pháp, có rất ít văn bản pháp luật về vấn đề
này. Nhìn chung, nhà làm luật của Pháp ít khi đề cập đến những vấn đề có tính chất
kỹ thuật liên quan đến những xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền xét xử về
phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có một số văn bản trong lĩnh vực này như điều
52, khoản 2 Luật ngày 25 tháng 1 năm 1985 về thủ tục phục hồi và thanh lý doanh
nghiệp, đã được pháp điển hóa thành điều L. 621-44 Bộ luật Thương mại20 về các
khoản nợ bằng ngoại tệ hoặc điều 1, khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1985
hướng dẫn thi hành Luật năm 1985. Nghị định này quy định cụ thể các tiêu chí xác
định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án trong nước trong việc mở thủ tục giải quyết
phá sản tại Pháp, thực tế đó cũng là thẩm quyền quốc tế của Tòa án.
20

Đươc pháp điển hóa bằng Pháp lệnh số 2000-912 ngày 18 tháng 9 năm 2000.

Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


99
ƒ
Các văn bản của Liên minh Châu Âu: Nước Pháp là một thành viên của Liên minh
Châu Âu
Với tư cách đó, trước hết nước Pháp chịu sự điều chỉnh của Nghị định (CE) số
1346/2000 của Hội đồng Liên minh Châu Âu ngày 29 tháng 5 năm 2000 về thủ tục
giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, áp dụng từ ngày 31 tháng 5 năm 2002

đối với các nước thành viên của Liên mình Châu Âu trừ Đan Mạch. Nghị định của Liên
minh Châu Âu được áp dụng trực tiếp tại các nước thành viên mà không cần qua thủ
tục chuyển hóa vào pháp luật quốc gia. Theo phụ lục A của Nghị định, thủ tục thanh lý
và phục hồi doanh nghiệp có thể được thực hiện ở Pháp. Trong trường hợp tiến hành
phục hồi doanh nghiệp tại Pháp thì phải chỉ định một người điều hành thủ tục21.
Cũng với tư cách là thành viên Liên minh Châu Âu, nước Pháp nằm trong đối tượng
điều chỉnh của các Chỉ thị của Liên minh Châu Âu (Luật khung). Đối với các Chỉ thị của
Liên minh Châu Âu, nước Pháp phải tiến hành chuyển hóa vào nội luật. Trong lĩnh vực
phá sản, có nhiều văn bản quy định riêng đối với từng loại doanh nghiệp:
Chỉ thị số 2001/17 (CE) ngày 19 tháng 3 năm 2001 về thủ tục phục hồi và thanh lý
doanh nghiệp bảo hiểm. Chỉ thị này được chuyển hóa vào nội luật bằng Pháp lệnh số
2004-504 ngày 7 tháng 6 năm 200422 và Nghị định số 2005-8 ngày 5 tháng 1 năm
200523.
Chỉ thị số 2001/24 (CE) ngày 4 tháng 4 năm 2001 về thủ tục phục hồi và thanh lý các
cơ sở tín dụng. Chỉ thị này được chuyển hóa vào nội luật bằng Pháp lệnh số 20041127 ngày 21 tháng 10 năm 200424.
Các Công ước quốc tế. Hiện nay, chưa có công ước đa phương nào trong lĩnh vực phá
sản doanh nghiệp, chỉ có 4 Hiệp định song phương mà nước Pháp đã ký kết trong đó
có một số quy định cụ thể về phá sản. Ba trong số 4 Hiệp định đó gần như đã được
thay thế bởi Nghị định số 1346/2000 (3 Hiệp định đó gồm: Hiệp định Pháp-Bỉ, ngày 8
tháng 7 năm 1899, Hiệp định Pháp-Ý ngày 3 tháng 6 năm 1930 gồm 2 Thỏa thuận
hợp tác tư pháp có nội dung rộng hơn trong đó có vấn đề phá sản doanh nghiệp, Hiệp
định Pháp-Áo ngày 27 tháng 2 năm 1979 chỉ xử lý vấn đề phá sản doanh nghiệp).
Hiệp định thứ 4 ngày 15 tháng 9 năm 1950 được ký kết giữa Pháp và Monaco cũng chỉ
xử lý vấn đề phá sản doanh nghiệp.
Ngược lại, luật mẫu về tình trạng mất khả năng thanh toán có yếu tố nước ngoài do
Ủy ban của Liên Hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và được
thông qua ngày 30 tháng 5 năm 1997 không có ảnh hưởng đối với pháp luật Pháp.
Tư pháp quốc tế về phá sản doanh nghiệp rất phức tạp còn bởi các quan điểm về vấn
đề này thường đối lập nhau và việc lựa chọn một quan điểm nào đó không phải là một
việc dễ dàng. Trong lĩnh vực này, xét về hệ quả pháp lý của thủ tục phá sản hiện có 2

quan điểm đối lập nhau:
ƒ
Quan điểm thứ nhất cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính thống nhất
và có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu. Theo quan điểm này chỉ cần mở 1 thủ tục phá
sản tại trụ sở chính của doanh nghiệp mắc nợ và thủ tục này sẽ có hiệu lực ở tất cả
những nơi mà doanh nghiệp mắc nợ có tài sản mà không cần phải mở thêm thủ tục
phá sản tại những nơi đó.

21
Nghị định số 1346/2000 không quy định thủ tục phục hồi doanh nghiệp rút gọn không chỉ định người điều
hành thủ tục.
22
Công báo nước Cộng hòa Pháp ngày 10 tháng 6 năm 2004
23
Công báo nước Cộng hòa Pháp ngày 7 tháng 1 năm 2005
24
Công báo nước Cộng hòa Pháp ngày 22 tháng 10 năm 2004

Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


100
ƒ
Quan điểm thứ hai cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính lãnh thổ.
Theo quan điểm này, cần phải mở thủ tục phá sản doanh nghiệp tại tất cả các nước
nơi có tài sản của doanh nghiệp.
Dĩ nhiên, không có quốc gia nào chỉ đơn thuần áp dụng một cơ chế duy nhất25 mà
thường có sự kết hợp nhiều loại cơ chế trung gian, ví dụ như cơ chế được quy định tại
Nghị định số 1346/2000 của Liên minh Châu Âu với sự kết hợp hai cơ chế nêu trên,
theo đó có thể mở một thủ tục chính tại một nước và nhiều thủ tục phụ tại nhiều nước

khác để giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
I.

MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Đây là vấn đề chủ yếu được tư pháp quốc tế quan tâm.
Thẩm quyền của Tòa án của mỗi quốc gia trong việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp
được xác định theo 2 cơ chế: cơ chế thẩm quyền trực tiếp (Tòa án trực tiếp thụ lý đơn
giải quyết vụ phá sản) và cơ chế thẩm quyền gián tiếp (thông qua thủ tục công nhận
và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp của Tòa án
nước ngoài).
A.

MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN THEO CƠ CHẾ THẨM QUYỀN TRỰC TIẾP

Thẩm quyền trực tiếp của Tòa án trong việc quyết định mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp được xác định theo 2 loại tiêu chí. Theo quan điểm của pháp luật quốc tế, đặc
biệt là theo tập quán quốc tế, loại tiêu chí thứ nhất được coi là tiêu chí cơ bản và
không phải bàn cãi về tính phổ biến của nó (a). Các tiêu chí khác là tiêu chí phụ và
còn có nhiều vấn đề cần làm rõ(b).
a. Tiêu chí cơ bản: Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có trụ sở chính của doanh
nghiệp
Như chúng ta đã xem xét trong phần dẫn đề, quan điểm cho rằng thủ tục giải quyết
phá sản có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu được xây dựng dựa trên tiêu chí này. Thực
vậy, dường như trong mọi trường hợp, thủ tục phá sản đều có thể mở tại nước có trụ
sở chính của doanh nghiệp, tức là tại nơi doanh nghiệp mắc nợ thực sự quản lý lợi
nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh, do đó doanh nghiệp mắc nợ có thể đưa ra
được những chứng cứ về những lợi nhuận đó.
Tiêu chí này được quy định trong tư pháp quốc tế của Cộng hòa Pháp để xác định
thẩm quyền của Tòa án Pháp đối với việc mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý doanh

nghiệp cả đối với thủ tục thuần túy trong nước và thủ tục phá sản có yếu tố nước
ngoài. Theo điều 1 khoản 1 Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1980: "Trên phương diện
lãnh thổ, tòa án có thẩm quyền mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp là tòa
án nơi doanh nghiệp mắc nợ có trụ sở chính". Do đó, nếu không trái với trường hợp
quy định tại phần b sau đây thì chúng ta có thể suy ra rằng nếu doanh nghiệp mắc nợ
có trụ sở chính tại nước Pháp thì tòa án Pháp có thẩm quyền mở thủ tục phục hồi hoặc
that - Pháp


107
của quốc gia nơi mở thủ tục phá sản: "khai báo nợ". Khi nhìn vào tiêu đề này, đại diện
của chủ nợ hoặc người thanh lý tài sản ở Pháp không thể không biết nội dung của tài
liệu họ nhận được và họ có thể, chứ không bắt buộc, yêu cầu chủ nợ nộp bản dịch
toàn vẹn nội dung của tài liệu. Như vậy, bản dịch không còn là điều kiện bắt buộc để
giấy tờ chứng minh nợ có hiệu lực pháp luật.
Về nội dung, hồ sơ khai báo nợ không cần phải có nhận xét cụ thể, mà chỉ cần bao
gồm các thông tin cơ bản như: tính chất của khoản nợ, ngày phát sinh nợ, giá trị
khoản nợ, các chứng từ chứng minh, yêu cầu có biện pháp bảo đảm. Pháp luật Pháp
cũng như pháp luật Châu Âu (Điều 41 Nghị định) đều quy định như vậy. Điều kỳ lạ là
không có quy định cụ thể về loại tiền tệ sử dụng trong khai báo nợ, có thể là do đã có
đồng euro, đồng tiền gần như duy nhất tại Châu Âu, nên sẽ giúp cho vấn đề trở nên
đơn giản hơn nhiều. Vì thế, theo nguyên tắc chung, cần phải tuân theo luật được lựa
chọn để áp dụng đối với thủ tục phá sản. Ví dụ, theo quy định của pháp luật Pháp,
Điều 51, khoản 2 của Luật ban hành ngày 25/1/1985 (nay là Điều L. 621-44 của Bộ
luật thương mại) yêu cầu chủ nợ khi khai báo khoản nợ của mình đối với doanh nghiệp
mắc nợ bị áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp hoặc thanh lý tài sản, phải đổi giá
trị khoản nợ của mình sang đồng euro37 "theo tỷ giá của ngày có quyết định mở thủ
tục phá sản", nếu số tiền trên hợp đồng ghi bằng ngoại tệ. Quy định này ngược với
quy định chung về thanh toán, bởi vì giá trị chuyển đổi sang đồng tiền của địa điểm
thanh toán thường được xác định theo tỷ giá của ngày thanh toán. Tuy nhiên, đây lại

là quy định truyền thống trong pháp luật về phá sản (Bản án của Tòa dân sự, Tòa án
Tư pháp tối cao, tuyên ngày 17/11/1930 cũng giải quyết theo hướng này38). Hệ quả
của nó là quy giá trị của khoản nợ vào giá trị trong ngày có quyết định mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp mắc nợ, nhằm mục đích đơn giản hóa việc thanh toán nợ và
tránh phải tính đến sự biến động của tỷ giá sau này.
Nhưng cùng với thủ tục phục hồi doanh nghiệp, thanh toán nợ là mục tiêu của pháp
luật về phá sản nên chúng ta cũng cần quan tâm đến mối quan hệ giữa các thủ tục
phá sản được mở theo quyết định của các tòa án ở các nước khác nhau.
B.

PHỐI HỢP CÁC THỦ TỤC PHÁ SẢN ĐƯỢC MỞ TẠI NHIỀU NƯỚC KHÁC NHAU

Ở đây không xem xét trường hợp một quyết định mở thủ tục phá sản của tòa án nước
ngoài được mở rộng phạm vi hiệu lực sang một nước khác, như nước Pháp, qua thủ
tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài. Bởi vì trong
trường hợp đó, xét trên phương diện pháp lý thì vẫn chỉ có một thủ tục phá sản duy
nhất. Vấn đề cần xem xét ở đây là vấn đề tồn tại song song đồng thời nhiều thủ tục
giải quyết phá sản. Tư pháp quốc tế của Pháp và Nghị định số 1346/2000 đưa ra hai
mô hình phối hợp rất khác nhau, trong đó, mô hình theo Nghị định được quy định cụ
thể hơn nhiều. Vấn đề chính đặt ra ở đây là việc công nhận cho các chủ nợ tham gia
vào thủ tục mở theo quyết định của tòa án nước này hay thủ tục mở theo quyết định
của tòa án nước kia.
a. Tư pháp quốc tế của Pháp chỉ có một án lệ đã cũ về hậu quả xảy ra khi một chủ
nợ tham gia vào nhiều thủ tục phá sản diễn ra đồng thời trên thực tế, trong đó một
thủ tục được mở theo quyết định của tòa án Pháp, thủ tục kia được mở theo quyết
định của tòa án nước ngoài (tuy chưa được công nhận và cho thi hành tại Pháp, nhưng
rất khó có thể phủ nhận sự tồn tại của nó).
Phải làm sao để có thể tính đến các khoản nợ đã được thanh toán ở nước ngoài trong
khuôn khổ một thủ tục phá sản được mở đồng thời với thủ tục mở tại Pháp. Có thể sử
dụng một hay đúng hơn là nhiều biện pháp hiệu chỉnh. Tòa án Pháp chưa có ý kiến gì

vì cho đến nay, chưa có vụ việc nào được đưa ra Tòa án Tư pháp tối cao. Trái lại, các
Trong văn bản này, đồng phơ-răng đã được thay bằng đồng euro theo quy định của Luật số 2003-7 ngày
3/1/2003 (Điều 50-II).
38
DP, 1932, 1, 48 n. A. C. (1er esp.); DH, 1931, 37.
37

Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


108
nhà lý luận đã đề xuất nhiều cách thức để lập lại sự bình đẳng giữa các chủ nợ, từ việc
khấu trừ số tiền đã được thanh toán trong thủ tục phá sản mở theo quyết định của tòa
án nước ngoài vào giá trị khoản nợ khai báo tại Pháp hoặc vào giá trị khoản lợi tức
nhận được trong thủ tục mở theo quyết định của tòa án Pháp, cho đến việc báo cáo
trong thủ tục mở tại Pháp về khoản lợi tức đã nhận được ở nước ngoài39. Nhưng lập lại
sự bình đẳng vẫn là một việc không dễ, do gặp phải khó khăn về chứng cứ. Một bản
án cũ của Tòa giải quyết kháng nghị, kháng cáo, Tòa án Tư pháp tối cao, tuyên ngày
30/6/188740 trong vụ Faillite Lyonnet, đã chứng minh điều đó: đại diện chủ nợ có
nghĩa vụ chứng minh về việc một chủ nợ đã nhận được một khoản thanh toán trên số
tiền thu được từ việc xử lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ ở ngoài nước Pháp, nếu
không chứng minh được thì toàn bộ khoản nợ theo khai báo của chủ nợ đó sẽ được
công nhận trong thủ tục mở theo quyết định của tòa án Pháp mà không bị khấu trừ.
Còn trong trường hợp đã có một thỏa thuận xử lý nợ ở nước ngoài, bản án của Tòa
dân sự, Tòa án Tư pháp tối cao, tuyên ngày 21/7/190341 - tuy đã cũ nhưng vẫn là án
lệ xác đáng nhất – quyết định rằng các chủ nợ dù đã thỏa thuận xóa nợ cho doanh
nghiệp mắc nợ trong thủ tục mở theo quyết định của tòa án nước ngoài, vẫn có thể
kiện đòi doanh nghiệp mắc nợ đó tại Pháp mà không tính đến thỏa thuận xóa nợ kia,
chừng nào quyết định công nhận thỏa thuận xử lý nợ của tòa án nước ngoài chưa được
công nhận và cho thi hành tại Pháp. Như vậy, quyết định công nhận thỏa thuận xử lý

nợ - hoặc quyết định công nhận mọi phương án xử lý nợ khác, chẳng hạn như kế
hoạch cho doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục hoạt động theo quy định của pháp luật
Pháp42 - là ví dụ điển hình của quyết định thông qua một giải pháp trong một thủ tục
phá sản mà việc công nhận và cho thi hành thủ tục đó lại liên quan đến một quyết
định khác với quyết định mở thủ tục phá sản.
Ngược lại, theo quy định chung của pháp luật Pháp, các giải pháp liên quan đến việc
thanh toán nợ do Tòa án Pháp thụ lý giải quyết phá sản quyết định trên cơ sở tham
khảo ý kiến và được sự đồng ý thể hiện một cách rõ ràng hoặc qua sự im lặng của các
chủ nợ43, hoặc do Tòa án áp đặt cho các chủ nợ không đồng ý44, sẽ chỉ được công
nhận ở nước ngoài theo các nguyên tắc tư pháp quốc tế của nước sở tại. Nhưng tòa án
nước này có thể viện dẫn khái niệm trật tự công quốc tế để bác bỏ các biện pháp xóa
nợ hoặc giãn nợ đã bị áp đặt một cách quá dễ dàng và trái với ý muốn của các chủ nợ.
b. Nghị định số 1346/2000 mang lại những giải pháp cụ thể hơn, dựa trên một mô
hình khác để phối hợp các thủ tục giải quyết phá sản, với căn cứ chính là khả năng tồn
tại đồng thời và có tổ chức một thủ tục chính và các thủ tục phụ.
Nhìn chung, mô hình này xuất phát từ quan điểm cho rằng không thể chấp nhận được
việc một chủ nợ được nhận phần thanh toán lớn hơn tổng giá trị khoản nợ của họ trong trường hợp có thể, do tổng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ nằm phân tán ở
nhiều nước – hoặc có tỷ suất lợi tức cao hơn so với tỷ suất lợi tức áp dụng đối với các
chủ nợ khác có cùng điều kiện với mình, nhưng chỉ khai báo nợ trong một thủ tục duy
nhất45. Theo quy định tại Điều 20.2°, chủ nợ nào đã được chia lợi tức theo một thủ tục
giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, nếu không bị ngăn cấm và cũng không
được miễn nghĩa vụ khai báo nợ trong một thủ tục khác, thì sẽ chỉ được phân chia tiền

H. Synvet, Répertoire Dalloz de droit international, v° Faillite, n° 81.
Journ. des faillites, 1887, 346.
41
DP, 1903, 1, 594, concl. Baudoin; S., 1903, 1, 449, note Ch. Lyon-Caen; JDI, 1904, 138, concl. Baudoin.
42
Tất nhiên, “phương án cho doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục hoạt động” và “thỏa thuận xử lý nợ” là hai khái
niệm rất khác nhau, đó là do các chủ nợ có vai trò khác nhau, khi nổi bật, khi thì hạn chế, trong việc thông

qua các phương án đó. Nhưng liên quan đến vấn đề chúng ta quan tâm ở đây, tức là với điều kiện phương
án cho doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục hoạt động sẽ góp phần thanh toán nợ, thì tư pháp quốc tế có thể đồng
nhất 2 khái niệm đó.
43
Điều L. 621-60, khoản 2, Bộ luật thương mại.
44
Điều L. 621-76, khoản 1, Bộ luật thương mại.
45
Xem M. Menjucq, La situation des créanciers dans le règlement 1346/2000 sur les procédures
d’insolvabilité, RJDA 6/2001, chron. p. 579, spéc. n° 19.
39
40

Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


109
bán tài sản thanh lý trong thủ tục thứ hai khi các chủ nợ có cùng thứ tự ưu tiên với họ
cũng nhận được khoản lợi tức tương tự trong thủ tục thứ nhất.
Tương tự như vậy, sau khi mở thủ tục chính để giải quyết tình trạng mất khả năng
thanh toán (quyết định mở thủ tục này được mặc nhiên công nhận trong mọi quốc gia
thành viên của Liên minh Châu Âu), nếu một chủ nợ được thanh toán, đặc biệt là
thông qua một biện pháp cưỡng chế thi hành tại một nước không phải nước nơi mở
thủ tục chính – và không có thủ tục phụ nào được mở tại nước thứ hai này – thì theo
quy định tại Điều 20.1° của Nghị định, chủ nợ đó sẽ phải hoàn trả cho đại diện chủ nợ
phần thanh toán đã nhận từ việc đòi nợ với tư cách cá nhân, trừ các trường hợp ngoại
lệ liên quan đến các vật quyền và điều khoản bảo lưu quyền sở hữu như đã xem xét ở
trên.
Nghị định cũng quy định rõ tại Điều 25.1° như sau: thỏa thuận xử lý nợ nếu được toà
án có quyết định mở thủ tục chính công nhận thì sẽ đương nhiên được công nhận tại

mọi quốc gia thành viên, nhưng để thi hành tại nước nào thì tòa án nước đó phải có
quyết định trao hiệu lực thi hành cho thỏa thuận này.
Cũng xuất phát từ việc có thể mở thủ tục phụ với hiệu lực hạn chế theo lãnh thổ, nên
Nghị định đã phải xem xét đến hiệu lực của thỏa thuận xử lý nợ đạt được trong khuôn
khổ thủ tục phụ, mặc dù thủ tục này chỉ thuần túy nhằm thanh lý tài sản như chúng ta
đã thấy. Vấn đề này được quy định tại Điều 34. Theo Điều này, đại diện chủ nợ trong
thủ tục chính luôn có căn cứ để đề xuất một phương án xử lý nợ hoặc phương án phục
hồi doanh nghiệp làm phương án giải quyết trong thủ tục phụ, nếu luật áp dụng đối
với thủ tục phụ có quy định46. Việc này cho phép đại diện chủ nợ trong thủ tục chính
giữ được quyền kiểm soát nhất định đối với toàn bộ thủ tục giải quyết phá sản của
một doanh nghiệp. Nhưng quyền kiểm soát này sẽ không tuyệt đối nếu phương án xử
lý nợ không do đại diện chủ nợ trong thủ tục chính đề xuất. Bởi vì cũng theo quy định
tại Điều 34, tuy một thỏa thuận xử lý nợ đạt được trong thủ tục phụ chỉ trở thành thỏa
thuận xử lý nợ chính thức khi có sự đồng ý của đại diện chủ nợ trong thủ tục chính,
nhưng sự phản đối của đại diện chủ nợ trong thủ tục chính không cản trở được việc
thông qua thỏa thuận xử lý nợ đó, nếu thỏa thuận này “không ảnh hưởng đến các lợi
ích tài chính của các chủ nợ trong thủ tục chính”. Đây là một tiêu chí quá mơ hồ. Về
vấn đề này, ông Virgos và ông Schmidt, những người đã lập báo cáo về dự thảo Công
ước Bruxelles về các thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán (dự thảo
đã bị bác bỏ ngày 23/11/1995, nhưng các quy định của nó đã được sử dụng lại trong
Nghị định số 1346/2000), giải thích rằng “lợi ích tài chính được xác định trên cơ sở
đánh giá về tác động của phương án phục hồi doanh nghiệp hoặc thỏa thuận xử lý nợ
đối với phần lợi tức đem phân chia cho các chủ nợ trong thủ tục chính. Sau khi phần
tài sản còn dư trong thủ tục phụ được chuyển giao sang thủ tục chính47 do không có
phương án phục hồi doanh nghiệp hoặc thỏa thuận xử lý nơ, nếu các chủ nợ trong thủ
tục chính không thể có căn cứ để mong đợi được chia tài sản nhiều hơn, thì có nghĩa là
biện pháp được đề xuất không làm ảnh hưởng đến lợi ích tài chính của họ”. Tuy nhiên,
như François Mélin đã viết48, “việc đánh giá này chắc chắn sẽ rất khó thực hiện”.
Khoản §3 của Điều 34 khẳng định lại ưu thế của đại diện chủ nợ trong thủ tục chính
trong trường hợp tạm đình chỉ thực hiện các biện pháp thanh lý tài sản trong khuôn

khổ thủ tục phụ theo quy định tại Điều 33 của Nghị định, bởi vì trong thời gian tạm
đình chỉ này, đại diện chủ nợ trong thủ tục chính là người duy nhất có quyền đề xuất

46
Do thủ tục phụ nhằm mục đích thanh lý tài sản theo quy định của Nghị định, nên sẽ rất khó mà nói rằng
liệu pháp luật Pháp hiện hành, với tư cách là luật áp dụng đối với thủ tục phụ, có thể dẫn đến một phương
án phục hồi doanh nghiệp như quy định tại Điều 34 của Nghị định hay không. Một Thông tư của Bộ Tư pháp
Pháp đã đưa ra câu trả lời là không về nguyên tắc, nhưng cũng nêu lên phương án chuyển nhượng một đơn
vị sản xuất theo thủ tục thanh lý tài sản, như là ví dụ về biện pháp có thể so sánh với phương án phục hồi
doanh nghiệp.
47
Theo quy định tại Điều 35 của Quy chế.
48
La faillite internationale, LGDJ, 2004, p. 198.

Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


110
phương án xử lý nợ trong thủ tục phụ. Điều này dễ hiểu bởi lẽ việc tạm đình chỉ là vì
lợi ích của các chủ nợ trong thủ tục chính.
Từ một góc độ rộng hơn, Điều 31 của Nghị định yêu cầu các đại diện chủ nợ phải có
nghĩa vụ hợp tác và trao đổi thông tin với nhau, nhằm phối hợp toàn bộ các thủ tục
giải quyết phá sản đối với một doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Các quy định của tư pháp quốc tế về phá sản doanh nghiệp rất khó thực hiện. Đó là sự
pha trộn tinh tế mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa trên phương diện pháp luật – ngày
nay dựa trên ý chí của các quốc gia muốn nắm quyền kiểm soát trong việc cứu vãn
các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ nước mình. Đồng thời, tư pháp quốc tế
trong lĩnh vực phá sản cũng bắt đầu có xu hướng toàn cầu hơn, với điểm khởi đầu là

Liên minh châu Âu. Nhưng điều cần lưu ý, như Jean-Luc Vallens đã viết49, đó là Nghị
định số 1346/2000 của Liên minh Châu Âu là thành quả của nửa thế kỷ nỗ lực và về
cơ bản, mới chỉ đi đến thống nhất các quy phạm xung đột, xung đột pháp luật và xung
đột thẩm quyền xét xử, chứ chưa xây dựng được một hệ thống quy phạm thực chất
thống nhất về quan hệ phá sản để áp dụng chung trong mọi quốc gia thành viên, như
trường hợp trong các Nhà nước liên bang.

Tài liệu tham khảo cơ bản:
- Collectif, L’effet international de la faillite : une réalité ?, Dalloz, Coll. Thèmes et
commentaires, 2004, Kỷ yếu Hội thảo diễn ra ngày 11/5/2004 tại Rouen.
- François Mélin, La faillite internationale, Librairie générale de droit et de
juriprudence, Coll. Systèmes Droit, 2004.
- Jean-Pierre Rémery, La faillite internationale, Presses universitaire de France, coll.
Que-sais-je, n° 3144, 1996.

49

Lamy, Droit commercial, n° 1996.

Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp



×