Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Nghiên Cứu Những Qui Định Của Pháp Luật Về Bồi Thường Hỗ Trợ Khi Nhà Nước Thu Hồi Đất Trồng Lúa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 132 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khóa 33 (2007 – 2011)

NGHIÊN CỨU NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TRỒNG LÚA TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI MỤC TIÊU
ĐẢM BẢO CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN
SAU KHI THU HỒI ĐẤT

ThS. Nguyễn Văn Hậu
Bộ Môn Hành Chính

GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

Nguyễn Quốc Việt
MSSV: 5075081
Lớp: Luật Thương Mại 1

Cần Thơ, tháng 5/2011

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


PHIẾU NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
----

 ----


…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
 









ơ





































Giảng viên hướng dẫn










PHIẾU NHẬN XÉT CỦA THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
----

 ----

…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
 









ơ


































Thành viên hội đồng













PHIẾU NHẬN XÉT CỦA THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
----

 ----

…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
 









ơ




































Thành viên hội đồng










DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND


Ủy ban nhân dân

Nghị định 181/2004/NĐ-CP

Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm
2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai

Nghị định 188/2004/NĐ-CP

Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm
2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất
và khung giá các loại đất

Nghị định 197/2004/NĐ-CP

Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm
2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất

Nghị định 17/2006/NĐ-CP

Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006
của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các
nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị
định 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc di
chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần

Nghị định 84/2007/NĐ-CP


Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007
của Chính phủ về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất,
trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất, giải quyết khiếu nại về đất đai

Nghị định 123/2007/NĐ-CP

Nghị định 123/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2007
của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về
phương pháp xác định

Nghị định 69/2009/NĐ-CP

Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009
của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử
dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư

Thông tư 14/2009/TT-BTNMT

Thông tư 14/2009/TT-BTNMT ngày 01 tháng 10 năm
2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi
tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ
tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất


MỤC LỤC



 

a





LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRỒNG LÚA VÀ VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO CUỘC SỐNG CỦA
NGƯỜI NÔNG DÂN SAU KHI THU HỒI ĐẤT........................................................... 5
1.1. Thu hồi đất .................................................................................................................. 5
1.1.1. Thu hồi đất ........................................................................................................... 5
1.1.2. Thu hồi đất trồng lúa............................................................................................ 8
1.2. Bồi thường khi thu hồi đất....................................................................................... 11
1.2.1. Bồi thường ......................................................................................................... 11
1.2.2. Bồi thường khi thu hồi đất trồng lúa.................................................................. 15
1.3. Hỗ trợ khi thu hồi đất .............................................................................................. 16
1.3.1. Hỗ trợ ................................................................................................................. 16
1.3.2. Hỗ trợ khi thu hồi đất trồng lúa.......................................................................... 19
1.4. Mối quan hệ giữa bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất trồng lúa với vấn đề đảm
bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất ............................................... 20
1.4.1. Tầm quan trọng của đất trồng lúa đối với cuộc sống của người nông dân........ 20
1.4.2. Sơ lược về những tổn thất và khó khăn trong cuộc sống khi người nông dân bị
thu hồi đất trồng lúa ..................................................................................................... 21
1.4.3. Vai trò của bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất trồng lúa trong việc đảm bảo cuộc
sống của người nông dân sau khi thu hồi đất............................................................... 24
1.4.4. Ý nghĩa của bồi thường, hỗ trợ trong việc đảm bảo cuộc sống của người nông

dân sau khi thu hồi đất trồng lúa .................................................................................. 26
1.5. Lược sử pháp lý về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa ...... 26
1.5.1. Từ năm 1945 đến trước Hiến pháp 1980 ........................................................... 27
1.5.2. Từ Hiến pháp 1980 đến thời điểm hiện tại ........................................................ 27
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRỒNG LÚA TRONG
MỐI QUAN HỆ VỚI MỤC TIÊU ĐẢM BẢO CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI NÔNG
DÂN SAU KHI THU HỒI ĐẤT..................................................................................... 33
2.1. Những quy định về thu hồi đất trồng lúa ............................................................... 33


2.1.1. Cơ sở pháp lý hiện hành liên quan đến thu hồi đất trồng lúa ............................ 33
2.1.2. Mục đích của việc thu hồi đất trồng lúa............................................................. 35
2.1.3. Các nguyên tắc trong thu hồi đất trồng lúa ........................................................ 41
2.1.4. Đối tượng của thu hồi đất trồng lúa và đối tượng chịu ảnh hưởng bởi việc thu
hồi đất trồng lúa ........................................................................................................... 43
2.1.5. Chủ thể có đất trồng lúa bị thu hồi và chủ thể bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất
trồng lúa ....................................................................................................................... 45
2.1.6. Thẩm quyền thu hồi đất trồng lúa ...................................................................... 47
2.2. Những quy định pháp luật về bồi thường khi thu hồi đất trồng lúa trong mối
quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của nông dân sau khi thu hồi đất............. 49
2.2.1. Nguyên tắc bồi thường đối với đất trồng lúa ..................................................... 50
2.2.2. Điều kiện để được bồi thường đất trồng lúa ...................................................... 52
2.2.3. Những trường hợp thu hồi đất trồng lúa không được bồi thường ..................... 56
2.2.4. Giá đất để tính bồi thường đối với đất trồng lúa và chi phí đầu tư vào đất trồng
lúa còn lại ..................................................................................................................... 59
2.2.5. Bồi thường đối với đất trồng lúa của hộ gia đình, cá nhân................................ 63
2.2.6. Bồi thường đối với đất trồng lúa của tổ chức .................................................... 66
2.3. Những quy định quy định pháp luật về hỗ trợ khi thu hồi đất trồng lúa trong
mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi

đất...................................................................................................................................... 68
2.3.1. Nguyên tắc hỗ trợ khi thu hồi đất trồng lúa ....................................................... 68
2.3.2. Hỗ trợ ổn định đời sống ..................................................................................... 72
2.3.3. Hỗ trợ ổn định sản xuất...................................................................................... 77
2.3.4. Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm ................................................ 80
2.3.5. Hỗ trợ đối với đất trồng lúa trong khu dân cư ................................................... 84
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRỒNG LÚA NHẰM
ĐẢM BẢO CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN SAU KHI THU HỒI ĐẤT.. 88
3.1. Những kết quả đạt được trong công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất trồng lúa trong những năm gần đây ....................................................................... 88
3.2. Những mặt còn hạn chế trong vấn đề xác định giá đất tính bồi thường cho đất
trồng lúa và giải pháp khắc phục................................................................................... 91


3.2.1. Những mặt còn hạn chế trong vấn đề xác định giá đất tính bồi thường cho đất
trồng lúa ....................................................................................................................... 91
3.2.2. Giải pháp khắc phục những mặt còn hạn chế trong vấn đề xác định giá đất tính
bồi thường cho đất trồng lúa ........................................................................................ 96
3.3. Những mặt còn hạn chế trong công tác chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm
cho người nông dân sau khi thu hồi đất trồng lúa và giải pháp khắc phục............. 103
3.3.1. Những mặt còn hạn chế trong công tác chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm
cho người nông dân sau khi thu hồi đất trồng lúa...................................................... 103
3.3.2. Giải pháp khắc phục những mặt còn hạn chế trong công tác chuyển đổi nghề
nghiệp và tạo việc làm cho người nông dân sau khi thu hồi đất trồng lúa ................ 106
3.4. Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất trồng lúa .................................................................................... 109
3.4.1. Đề xuất sửa đổi nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất trồng lúa ........ 109
3.4.2. Đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về hỗ trợ ổn định đời sống cho người nông
dân khi thu hồi đất...................................................................................................... 110

3.4.3. Đề xuất sửa đổi quy định về xác định giá đất ở trung bình để tính hỗ trợ cho đất
trồng lúa trong khu dân cư ......................................................................................... 112
3.4.4. Đề xuất bổ sung một số khoản hỗ trợ cụ thể.................................................... 114
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 121


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

LỜI NÓI ĐẦU
Trong nhiều năm trở lại đây, hoạt động thu hồi đất được diễn ra ở tất cả các địa
phương trong cả nước. So với hầu hết các loại đất khác, đất trồng lúa là loại đất bị thu hồi
với diện tích khá lớn. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong giai đoạn
2000 - 2009, diện tích đất trồng lúa cả nước giảm 378.000 ha, tốc độ giảm bình quân gần
1%/năm. Trong đó, diện tích đất trồng lúa giảm do bị thu hồi để chuyển sang sử dụng vào
mục đính phát triển công nghiệp, dịch vụ khoảng 38.000 ha, đất ở khoảng 62.000 ha và
phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng khoảng 68.000 ha2.
Nhìn nhận ở nhiều góc độ, hoạt động thu hồi đất trồng lúa mang lại rất nhiều tác động
tích cực đến nền kinh tế - xã hội của đất nước. Xem xét ở góc độ hiệu quả kinh tế, việc sử
dụng đất để canh tác cây lúa rõ ràng chưa mang lại nhiều hiệu quả bằng việc sử dụng đất
để sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp nên việc thu hồi đất trồng lúa nhằm chuyển sang
sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp sẽ mang lại giá trị thu nhập
cao hơn trên cùng một diện tích đất. Bên cạnh đó, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
du lịch… được xây dựng trên những thửa đất trồng lúa ngày nào không những đóng góp
lớn vào ngân sách nhà nước mà còn góp phần thu hút lao động từ khu vực kinh tế nông
nghiệp sang phi nông nghiệp nhằm giảm tải sức ép dư thừa lao động nông thôn, giúp
nông dân có thu nhập cao và ổn định hơn. Hệ thống cơ sở hạ tầng được xây dựng tạo điều
kiện thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, góp phần giữ
vững an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng như
từng bước tạo lập được nếp sống văn minh công nghiệp và đô thị, khắc phục những hạn

chế của phong tục, tập quán lạc hậu, nếp sống tiểu nông ở nông thôn. Hơn thế nữa, việc
xây dựng những khu công nghiệp, khu đô thị… là sự đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa mà Việt Nam đang tiến hành trong giai đoạn hiện tại.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích thu được đã kể trên, thu hồi đất trồng lúa cũng gây
ra nhiều hệ lụy tiêu cực đối với đời sống của nông dân có đất bị thu hồi. Hoạt động thu
hồi đất trồng lúa trong những năm gần đây là một phần tác nhân gây nên sự mất ổn định
cuộc sống của một số đông nông dân nghèo. Nhiều nông dân đã bị đẩy khỏi cây lúa và
2

Minh Quang:
2010, trang 19.

 
































GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu
























a





1









a

, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, kỳ 1, năm

SVTH: Nguyễn Quốc Việt



Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

mảnh đất quen thuộc của mình trong tình cảnh chưa có kế hoạch gì để tự nuôi sống bản
thân và gia đình trong tương lai đã phải chịu rất nhiều gian nan và vất vả. Tình trạng nông
dân thiếu việc làm, thất nghiệp, không chuyển đổi được nghề nghiệp, phải quanh quẩn với
cái nghèo… đã và đang diễn ra ở nhiều địa phương. Tuy các cơ quan nhà nước, từ trung
ương tới địa phương, đã rất tích cực trong việc ban hành các văn bản pháp luật ghi nhận
vấn đề bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đất cũng như nỗ lực vận dụng chúng trên
thực tế nhằm giải quyết những khó khăn của nông dân có đất trồng lúa bị thu hồi nhưng
lợi ích chính đáng của nông dân vẫn chưa được đảm bảo tốt nhất. Những quy định của
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ Nhà nước khi thu hồi đất mặc dù thường xuyên được sửa
đổi, bổ sung nhưng vẫn còn chứa đựng nhiều điểm bất cập. Thậm chí, công tác áp dụng
những quy định của pháp luật của nhiều địa phương cũng chưa được thực hiện tốt. Giá đất
tính bồi thường đất cho nông dân vẫn khá thấp so với giá thị trường nên trong nhiều
trường hợp số tiền bồi thường mà nông dân nhận được không đảm bảo cho họ ổn định
được cuộc sống sau khi bị thu hồi đất. Công tác dạy nghề và tạo việc làm cho nông dân ở
nhiều địa phương còn tồn tại rất nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng nông dân bị thất nghiệp
dài hạn kéo theo rất nhiều hệ lụy tiêu cực cho bản thân nông dân cũng như xã hội: tệ nạn
xã hội, đói nghèo, di cư tràn lan lên thành thị… Vấn đề đảm bảo cuộc sống cho nông dân
sau khi thu hồi đất thật sự là một yêu cầu khách quan và rất cấp thiết.
Chính vì thế, người viết chọn đề tài “Nghiên cứu những quy định của pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa trong mối quan hệ với mục
tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất” làm luận văn tốt
nghiệp của mình với mục đích tìm ra những giải pháp nhằm giải quyết những hạn chế nêu
trên, góp phần đảm bảo tốt hơn cuộc sống của nông dân sau khi thu hồi đất.
Trên bình diện nghiên cứu khoa học luật Việt Nam, vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất đã được quan tâm và nghiên cứu từ rất lâu với số lượng công trình
nghiên cứu rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, một đề tài nghiên cứu chuyên sâu về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa mà đặc biệt là khi xem xét trong mối
quan hệ với mục tiêu đảm bảo cho cuộc sống cho người nông dân sau khi thu hồi đất thì
vẫn chưa xuất hiện. Do đó, đứng trước yêu cầu khách quan và cấp thiết của vấn đề đảm
bảo cuộc sống của nông dân sau khi thu hồi đất trồng lúa, mảng nội dung này cần thiết
phải được nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống.
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

2

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

Về mặt bố cục, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
 














ơ

























o















































a

























































a






















































































a







Nội dung chương này bao gồm những vấn đề lý luận làm nền tảng cho hoạt động bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa và vấn đề đảm bảo cuộc sống của người
nông dân sau khi thu hồi đất như thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất, mối quan
hệ giữa bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất trồng lúa với vấn đề đảm bảo cuộc sống của
người nông dân sau khi thu hồi đất và lược sử pháp lý về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất trồng lúa.
 









a














ơ































































a













o
































a
























a





















































o















































a
















































Trong nội dung chương này, người viết phân tích những quy định của pháp luật hiện
hành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa cũng như thông qua những
nội dung được trình bày, làm rõ mối quan hệ giữa những quy định này với mục tiêu đảm
bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất.
 


















ơ

























































a










































o

o













































a

























































a






















































Ở chương này, người viết nêu lên thực trạng và đề xuất một số giải pháp khắc phục
những hạn chế còn tồn tại nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa và công tác tổ chức thực thi những quy định đó
với mục đích góp phần đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất.
Tùy theo mục tiêu cần hướng đến trong nội dung của mỗi chương trong luận văn,

những phương pháp nghiên cứu được người viết sử dụng chủ yếu bao gồm:


Trong chương 1, chương thiên về xem xét, tìm hiểu các vấn đề mang tính lý luận,

người viết sử dụng phương pháp tìm kiếm, tổng hợp và chọn lọc tài liệu lý luận trên sách
chuyên khảo, báo chí, internet… Từ những tài liệu tìm được, kết hợp với vốn kiến thức,
hiểu biết của bản thân, người viết tiến hành việc phân tích, so sánh, đối chiếu để rút ra
những cơ sở lý luận của hoạt động bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa
cũng như vấn đề đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất trồng lúa.
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

3

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất


Trong chương 2, chương nghiên cứu về những quy định của pháp luật, tổng hợp, sắp

xếp, chọn lọc, phân tích, so sánh và đánh giá là những phương pháp mà người viết chủ
yếu sử dụng. Theo đó, sau khi đã tổng hợp những quy định pháp luật hiện hành có liên
quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
trồng lúa và chọn lọc, sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định, người viết tiến hành việc
phân tích, so sánh và đánh giá vai trò, ý nghĩa của chúng đối với mục tiêu đảm bảo cuộc
sống của người nông dân sau khi thu hồi đất trồng lúa.



Trong chương 3, chương chủ yếu đề cập đến những vấn đề thực tiễn và giải pháp,

người viết sử dụng phương pháp sưu tầm số liệu thống kê, tìm hiểu các báo cáo của các
cơ quan Nhà nước và các bài viết có liên quan để rút ra thực trạng của hoạt động bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa trong mối quan hệ với việc đảm bảo
cuộc sống của nông dân sau khi thu hồi đất. Trên cơ sở đó, kết hợp với việc tham khảo ý
kiến, quan điểm kiến nghị của các chuyên gia, của các Bộ, ngành và các địa phương,
người viết, với quan điểm, lập trường cá nhân, tiến hành việc phân tích, đánh giá thực
trạng và đưa ra những giải pháp khắc phục cho những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa.

GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

4

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRỒNG LÚA VÀ VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO
CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN SAU KHI THU HỒI ĐẤT
 




















a





ơ







































































































































 














































o
























a















a








































 



 






















a


































ơ







 
























a









a




















a















o








a



























































a

















































 





 









































 













ơ











































o



o









































 









 



































 











a










a



o























































a








 













a
































 






























o
























a















a












1.1. Thu hồi đất
1.1.1. Thu hồi đất
Đất đai là một loại tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự3 nhưng khác với các
loại tài sản khác, đất đai là một loại tài sản đặc biệt. Tính chất đặc biệt của đất đai thể hiện
ở chỗ, nếu hầu hết các loại tài sản khác tồn tại sở hữu tư nhân thì đối với đất đai, chỉ có
một hình thức sở hữu duy nhất là sở hữu toàn dân4. Tuy khác với các tài sản khác về chủ
thể sở hữu, nhưng về nội dung của quyền sở hữu thì đất đai cũng giống như các loại tài
sản khác. Quyền sở hữu đất đai cũng bao gồm ba quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt đất đai. Toàn dân với tư cách là chủ sở hữu đất đai không thể
trực tiếp thực hiện quyền sở hữu của mình mà phải thông qua Nhà nước, chủ thể đứng ra
đại diện quản lý đất đai trên phạm vi toàn lãnh thổ. Vì thế, Nhà nước nắm giữ cả ba quyền
3

Xem khoản 1 Điều 174 Bộ luật Dân sự 2005.

4

Kể từ năm 1980, đất đai ở Việt Nam được xác lập chế độ sở hữu toàn dân. Điều 19 Hiến pháp 1980 quy định: “





a




























































€










































































































o




























ơ



















































€





























































o

a




































a















ơ










€

















s



o


a





o





























t









ơ


































































€





a
















€
























o


























































o
























































































































a








































































































ơ














































a











q



r















5








GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu






















































SVTH: Nguyễn Quốc Việt






Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

năng thuộc nội dung quyền sở hữu đất đai. Tuy nhiên, trên thực tế, Nhà nước không trực
tiếp sử dụng đất đai do mình quản lý mà phải thông qua các chủ thể sử dụng đất. Trừ một
phần nhỏ diện tích đất sử dụng vào mục đích công cộng như đất dùng để làm đường xá,
cầu cống… Nhà nước trực tiếp nắm giữ quyền sử dụng bằng cách giao cho các cơ quan,
doanh nghiệp nhà nước quản lý thì phần lớn quỹ đất còn lại của quốc gia, Nhà nước đều
phải thực hiện quyền sử dụng thông qua các chủ thể sử dụng đất, từ đất quốc phòng, an
ninh, đất sử dụng cho mục đích giáo dục, y tế, văn hóa… bằng việc trao quyền sử dụng
đất cho các chủ thể này.
Mặc dù trao quyền sử dụng cho các chủ thể sử dụng đất nhưng quyền định đoạt đối
với đất đai thì Nhà nước vẫn giữ. Cũng chính vì nắm giữ quyền định đoạt đối với đất đai,
Nhà nước có quyền thu hồi đất từ các chủ thể sử dụng đất. Việc thu hồi đất của Nhà nước
thoạt trông có vẻ giống việc một chủ sở hữu thu hồi lại tài sản của mình nhưng thực tế
không phải như vậy. Điều đó xuất phát từ tính chất đặc biệt của quyền sử dụng đất. Nếu
một người có một tài sản nào đó thì khi đề cập đến khía cạnh quyền sở hữu, người ta chỉ
xem xét trực tiếp trên tài sản đó, còn quyền sử dụng đối với tài sản thì không được xem
xét như là một tài sản nữa. Tuy nhiên, đối với quyền sử dụng đất, đó lại là chuyện khác.
Bởi lẽ, khác với hầu hết các loại tài sản khác, cùng với đất đai, quyền sử dụng đất cũng
được pháp luật thừa nhận là một quyền tài sản5. Việc tách quyền sử dụng đất ra khỏi
quyền sở hữu đất đai để hình thành một loại quyền tài sản là một điểm đặc biệt của pháp
luật Việt Nam. Chính điều đó đã dẫn đến hệ quả, ở nước ta, quyền sở hữu đất đai thuộc

toàn dân do Nhà nước đại diện, còn quyền sử dụng đất lại thuộc về các chủ thể sử dụng
đất. Việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng không có nghĩa là
Nhà nước mất đi quyền này mà chỉ chuyển giao hoặc thừa nhận họ có quyền khai thác, sử
dụng đất trong phạm vi trao quyền có hoặc không giới hạn về thời gian. Do đó, khi cần
thiết, Nhà nước thu hồi lại kèm theo việc bồi thường cho họ.
Như vậy, thu hồi đất là một trong những cách thức để Nhà nước thực hiện quyền định
đoạt của chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai.
Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai 2003 quy định:












5









































































































e

o















o




























a

























































a

o














o






























a













a

 




















.

Xem khoản 2 Điều 173 Bộ luật Dân sự 2005.

GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

6

SVTH: Nguyễn Quốc Việt




Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

Từ khái niệm luật định nêu trên, một số đặc điểm cơ bản của thu hồi đất có thể được
rút ra như sau:
- Thu hồi đất do Nhà nước tiến hành;
- Thu hồi đất được thực hiện thông qua quyết định hành chính;
- Thu hồi đất có thể là thu lại đất hoặc thu hồi lại quyền sử dụng đất.





















o



 




























Nhà nước là chủ thể duy nhất đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, do đó cũng chỉ
có Nhà nước mới có quyền thu hồi đất. Bằng việc thu hồi đất, quan hệ sử dụng đất của
các chủ thể sử dụng đất chấm dứt và quyền sử dụng đất được chuyển giao lại cho Nhà
nước. Tiếp theo đó, Nhà nước đem quyền sử dụng đất có được phục vụ cho những mục
đích nhất định mà Nhà nước hướng đến. Mục đích đó có thể là vì lợi ích công cộng, phát
triển kinh tế… Bên cạnh đó, việc Nhà nước thu hồi đất đôi khi cũng nhằm giải quyết
những vấn đề trước mắt như xử lý vi phạm pháp luật đất đai của các chủ thể sử dụng đất,
thu hồi lại đất không có người sử dụng… Việc chuyển giao quyền sử dụng đất trong thu
hồi đất giữa các chủ thể sử dụng đất với Nhà nước khác hoàn toàn so với việc chuyển
giao quyền sử dụng đất giữa các chủ thể sử dụng đất với nhau. Nếu như trong thu hồi đất,
việc chuyển giao quyền sử dụng đất mang tính mệnh lệnh hành chính, xuất phát từ quá

trình quản lý và điều phối đất đai của Nhà nước, thì việc chuyển giao quyền sử dụng đất
giữa các chủ thể sử dụng đất mang tính chất dân sự, chỉ là hoạt động đơn thuần của việc
định đoạt quyền sử dụng đất giữa họ với nhau mà thôi.































 

























a







































Nhà nước chuyển giao quyền sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng đất bằng phương
thức giao đất, cho thuê đất dưới hình thức ra quyết định hành chính hay ký hợp đồng,
nhưng khi thu hồi đất thì Nhà nước chỉ thực hiện dưới hình thức ra quyết định hành chính.
Điều đó xuất phát từ lý do thu hồi đất là một hoạt động nằm trong quy trình quản lý hành
chính nhà nước đối với đất đai. Quyết định thu hồi đất do các cơ quan có thẩm quyền
trong bộ máy nhà nước ban hành. Các cơ quan này có quyền ban hành quyết định thu hồi
đất là bởi vì họ được Nhà nước trao quyền để làm việc đó. Trên thực tế, để thực hiện việc
quản lý hành chính nhà nước đối với đất đai, Nhà nước phải tiến hành phân cấp, phân
nhiệm cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Các cơ quan này, tùy theo chức năng
nhiệm vụ của mình, có quyền quyết định những vấn đề cụ thể trong quy trình quản lý
hành chính nhà nước đối với đất đai, trong đó có thu hồi đất.
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

7

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất






















































o

 



















































Nhà nước thực hiện việc quản lý đất đai nên Nhà nước cũng có quyền sử dụng đất đai.
Tuy nhiên, mặc dù trong bộ máy nhà nước bao gồm rất nhiều cơ quan và cá nhân nhưng
Nhà nước không thể giao toàn bộ vốn đất đai của quốc gia mà mình quản lý cho những
chủ thể này trực tiếp sử dụng hết được. Vì vậy, đối với phần lớn diện tích đất đai trên cả
nước, Nhà nước trao quyền sử dụng cho các chủ thể sử dụng đất. Nhà nước chỉ nắm trọn
vẹn quyền sở hữu đối với một phần nhỏ các diện tích đất như đất nông nghiệp sử dụng
vào mục đích công ích, đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, đất bãi bồi ven sông ven
biển… Những diện tích đất này Nhà nước giao cho tổ chức, UBND cấp xã thay mặt Nhà
nước quản lý. Khi thu hồi đất, đối với các diện tích đất đã trao quyền sử dụng cho các các
chủ thể sử dụng đất, Nhà nước thu hồi lại quyền sử dụng đất, còn đối với các diện tích đất
Nhà nước đã giao cho tổ chức, UBND cấp xã quản lý, Nhà nước chỉ thu lại đất một cách
thuần túy.
Cơ sở của việc Nhà nước thu hồi đất đã giao cho tổ chức, UBND cấp xã quản lý thì
không có gì phải bàn cãi. Bởi vì, đất là Nhà nước giao quản lý, quyền sử dụng đất vẫn
thuộc Nhà nước nên cần thì Nhà nước thu hồi lại. Còn trong trường hợp thu hồi quyền sử
dụng đất của các chủ thể sử dụng đất, cơ sở để Nhà nước tiến hành việc thu hồi đất là ở
chỗ mặc dù đã trao quyền sử dụng đất cho họ nhưng quyền định đoạt đối với đất đai vẫn
do Nhà nước nắm giữ. Với quyền định đoạt đất đai của mình, Nhà nước có thể thực hiện
các hành vi làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ đất đai, trong đó có thu hồi đất,

căn cứ làm chấm dứt quan hệ sử dụng đất của các chủ thể sử dụng đất. Đồng thời, với
việc quyền sử dụng đất đã được pháp luật công nhận là một quyền tài sản của các chủ thể
sử dụng đất nên cùng với việc thu hồi đất, Nhà nước xem xét việc bồi thường cho họ.
1.1.2. Thu hồi đất trồng lúa
Đất trồng lúa là loại đất được sử dụng để trồng cây lúa. Căn cứ vào đặc điểm, đất
trồng lúa được chia làm hai loại là đất chuyên trồng lúa nước và đất trồng lúa nương.
Trong đó, đất chuyên trồng lúa nước lại chia làm hai loại là đất chuyên lúa 1 vụ và đất
chuyên lúa 2 vụ trở lên trong một năm.
Quy định hiện hành của Luật Đất đai 2003 không cho thấy sự tách biệt trong việc phân
loại giữa đất chuyên trồng lúa nước và đất trồng lúa nương. Chúng đều được xếp vào loại
đất trồng cây hàng năm thuộc nhóm đất sử dụng vào mục đính nông nghiệp6. Tuy nhiên,
6

Xem khoản 1 Điều 13 Luật Đất đai 2003.

GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

8

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

việc không tách biệt giữa các loại đất lúa này không đồng nghĩa với việc chính sách đối
với chúng có sự giống nhau. Điều đó thể hiện ở việc Luật Đất đai 2003 đã dành hẳn một
điều luật để quy định riêng về đất chuyên trồng lúa nước. Theo đó, chính sách đối với đất
chuyên trồng lúa nước và trách nhiệm của người sử dụng loại đất này được quy định cụ
thể tại Điều 74 Luật Đất đai 2003.

 









a





















































































































a











































































o
























a











o
























a































































































































































































o



































































































o





















o








a









a
















































a




























o























































a








































































o





















a





a









































o





























































o













a




































o



























































a
























 
































































































ơ


















a



















































o


























































































o






























a







Việc Nhà nước có quy định riêng biệt dành cho đất chuyên trồng lúa nước không phải
là sự phủ nhận tầm quan trọng của đất trồng lúa nương trong việc cung cấp lương thực,
đảm bảo đời sống người nông dân mà chỉ là sự thừa nhận tầm quan trọng to lớn của đất
chuyên trồng lúa nước đối với nền kinh tế - xã hội của Việt Nam. Một thực tế không thể
phủ nhận là phần lớn diện tích đất trồng lúa ở Việt Nam là đất chuyên trồng lúa nước,
người nông dân Việt Nam chủ yếu canh tác lúa nước và Việt Nam cũng là một trong
những cái nôi của nền văn minh lúa nước có lịch sử hàng ngàn năm.
Trên thực tế, trong các quyết định thu hồi đất cụ thể của từng dự án, đất trồng lúa
nương được xếp vào nhóm đất cây hàng năm, còn đất chuyên trồng lúa nước được tách
riêng thành đất 1 lúa và đất 2 lúa7.
Thu hồi đất trồng lúa là một trường hợp cụ thể của thu hồi đất. Mặc dù Luật Đất đai
2003 có sự tách biệt về chính sách đối với từng loại đất trồng lúa nhưng các Nghị định
quy định cụ thể về thu hồi đất hiện hành không có sự tách biệt khi thu hồi các loại đất
này. Thậm chí, ngay cả việc thu hồi đất trồng lúa nói chung cũng không có những quy
định tách biệt mà được ghi nhận chung trong các quy định về thu hồi đất nông nghiệp.

7

Xem Phụ lục Quyết định 31/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2007 của UBND tỉnh Sóc Trăng về việc thu hồi và giao

đất tọa lạc tại xã Nhơn Mỹ, An Lạc Thôn và An Lạc Tây, huyện Kế Sách để xây dựng Quốc lộ Nam Sông Hậu.


GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

9

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

Tuy nhiên, trước thực tế của việc thu hồi một cách tràn lan đất trồng lúa8 và những hệ quả
tiêu cực nảy sinh từ đó thì nhu cầu về sự có mặt của những quy định riêng biệt dành cho
đất trồng lúa, trong đó có vấn đề thu hồi loại đất này ngày càng trở nên cấp thiết. Những ý
kiến về “luật hóa đất trồng lúa”, “bồi thường đất lúa gấp đôi đất ở”, “vẽ sợi chỉ đỏ cho đất
trồng lúa”… ngày càng được nhắc đến nhiều hơn trong thời gian qua đã cho thấy điều đó.
Do là một trường hợp cụ thể của thu hồi đất, nên thu hồi đất trồng lúa cũng mang một
số đặc điểm chung của thu hồi đất như việc thu hồi đất do Nhà nước tiến hành, việc thu
hồi đất được thực hiện thông qua quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền và nhằm vào những mục đích nhất định… Bên cạnh đó, thu hồi đất trồng lúa cũng
mang những đặc điểm riêng biệt:
Đất trồng lúa là một loại đất nông nghiệp, nên khi đã có quyết định thu hồi thì sẽ
áp dụng các quy định liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp như những loại đất nông
nghiệp khác. Tuy nhiên, vì đất trồng lúa có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh tế - xã
hội của đất nước nên việc đi đến quyết định thu hồi loại đất này phải được cân nhắc hết
sức cặn kẽ nhiều yếu tố như an ninh lương thực, vấn đề tam nông, quá trình đô thị hóa…
Ví dụ như Nghị quyết 26-NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn xác định mục tiêu đến năm 2020 là
phải “


























 






























a








o













 





a














ơ











 














a





 









 

”. Cụ thể hóa điều đó, Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2009 của



Chính phủ về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia xác định diện tích đất trồng lúa cần
bảo vệ một cách cụ thể: “

















 

















a























































o




































 




o











a













 


















a


































o






















 


















o









”. Việc thu hồi đất trồng lúa phải được tiến hành trên cơ sở tính toán sao

cho phù hợp với những chiến lược về an ninh lương thực quốc gia kể trên.
Đất trồng lúa là loại đất chủ yếu do nông dân trực tiếp sử dụng. Đối với nông dân,
đất trồng lúa không đơn giản là một tài sản mà đó còn là tư liệu sản xuất vô cùng quý giá,
tạo ra nguồn thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình của họ. Khi thu hồi đất trồng lúa,
8

Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến cuối năm 2010, diện tích đất trồng lúa ở nước ta là khoảng

4,068 triệu ha. Trong giai đoạn 2000 – 2009, diện tích đất trồng lúa đã giảm trên 361.935 ha, bình quân giảm gần
52.000 ha/năm, trong đó chủ yếu bị thu hồi để phục vụ cho nhu cầu xây dựng… Nếu theo đà giảm này thì tới năm
2020, diện tích đất trồng lúa ở nước ta chỉ còn khoảng 3,5 triệu ha, thấp hơn diện tích đất trồng lúa cần phải bảo vệ là
3,8 triệu ha mà Nghị quyết 63/NQ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ về đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia đã đề ra.

GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

10


SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

nông dân hoặc không còn hoặc còn rất ít đất để canh tác. Do đó, thu hồi đất trồng lúa phải
đi đôi với việc bảo vệ quyền lợi cho họ. Trong tình cảnh phần lớn nông dân ở Việt Nam
còn nghèo, trình độ văn hóa còn thấp, cuộc sống luôn gắn bó với làng quê, ruộng đồng thì
việc thu hồi đất sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho cuộc sống của họ và gia đình họ. Việc
giải quyết những khó khăn này là khách quan và là đòi hỏi chính đáng của họ. Với quan
điểm “




























 




























 






































a




















” đã đề



a

ra trong Nghị quyết 26-NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, những chính sách liên quan đến bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trồng lúa vì thế cũng phải thiết thực và tập trung
hướng vào đối tượng này để hạn chế hệ quả tiêu cực do thu hồi đất trồng lúa mang lại.
1.2. Bồi thường khi thu hồi đất
1.2.1. Bồi thường
Nhà nước thu hồi đất nhằm vào những mục đích nhất định. Những mục đích đó có thể
là nhằm tạo ra quỹ đất để sử dụng cho mục đích xây dựng, nhằm xử lý vi phạm pháp luật
của những người sử dụng đất hay đơn giản chỉ là nhằm thu lại đất không có người sử
dụng… Tuy nhiên, trong những trường hợp Nhà nước thu hồi đất vào những mục đích
nhất định kể trên, chỉ có một trường hợp duy nhất vấn đề bồi thường đối với người sử
dụng đất được đặt ra. Đó là trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế. Vấn đề bồi
thường được đặt ra trong trường hợp này là bởi những lý do sau:
Quyền sở hữu tư nhân về tài sản được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Hiến pháp đầu
tiên của nước ta ra đời năm 1946 tại Điều 12 đã ghi nhận: “

























a
















o












































a

 

”. Đến Hiến pháp 1992, quyền này tiếp tục được khẳng




định lại tại Điều 58 một cách rõ ràng và cụ thể hơn9. Hơn nữa, Điều 23 Hiến pháp 1992
còn quy định: “






o





















































 




































o










































a
























a




















a






















































o

























































a












o

e





o




























o





















































a

”.



Mặt khác, quyền sử dụng đất cũng được pháp luật thừa nhận là một quyền tài sản. Ở Việt
Nam, người sử dụng đất thực sự là chủ sở hữu đối với quyền sử dụng đất của mình.

9

Điều 58 Hiếp pháp 1992 quy định: “


































s








































a
































a






























o















a






























a





















































o







o

a



































q







o






















s




























”.

GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

11

SVTH: Nguyễn Quốc Việt







Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

Người sử dụng đất được pháp luật ghi nhận cho các quyền:



































o






























o










































a

 










 
































o

























































































































 














































o

10



.

Bởi vì thế, khi Nhà nước thu hồi đất làm mất quyền sử dụng đất của người có đất bị thu
hồi và gây thiệt hại cho tài sản gắn liền trên đất của họ, Nhà nước phải có trách nhiệm bồi

thường.
Việc Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế suy cho cùng đều có tác dụng tích cực cho
tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong một xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp
của mọi thành viên trong xã hội đều được pháp luật tôn trọng và bảo vệ thì mọi chủ thể
trong xã hội bao gồm Nhà nước, công dân, các tổ chức… đều bình đẳng trước pháp luật.
Do đó, không thể có chuyện đối xử một cách bất công giữa những nhóm lợi ích riêng và
chung. Người bị thu hồi đất phải hy sinh những lợi ích của riêng mình để phục vụ cho
những lợi ích chung của toàn xã hội thì họ xứng đáng được bồi thường, quyền lợi của họ
nhất thiết phải được bảo vệ. Bồi thường cho những người có đất bị thu hồi không chỉ
nhằm thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với họ, thể hiện sự công bằng trong cách
hành xử giữa người với người mà còn thể hiện sự tốt đẹp của chế độ xã hội mà chúng ta
đang cố gắng xây dựng, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai 2003, “




































































































































































































































o

”.

Thông qua việc phân tích khái niệm luật định trên, kết hợp với những quy định của

các văn bản dưới luật, một số đặc điểm cơ bản của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
được rút ra như sau:
- Bồi thường do Nhà nước tổ chức thực hiện;
- Bồi thường chỉ đặt ra trong một phạm vi nhất định;
- Bồi thường được thực hiện bằng việc trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện
tích đất bị thu hồi;
- Bồi thường chỉ áp dụng cho người có quyền sử dụng đất bị thu hồi;
- Bồi thường bao gồm bồi thường đất và bồi thường tài sản gắn liền trên đất.

10

Xem Điều 106 Luật Đất đai 2003.

GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

12

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

















o





 






























 









 

Nếu như thu hồi đất là hành vi thể hiện quyền định đoạt đối với đất đai của Nhà nước
thì bồi thường lại không mang bản chất này. Bồi thường đơn thuần chỉ là hành vi bù đắp
lại thiệt hại mà người bị thu hồi đất phải gánh chịu nên Nhà nước chỉ cần tổ chức công tác
thực hiện chứ không nhất thiết phải trực tiếp tiến hành. Hiện tại, theo quy định của pháp

luật, UBND cấp tỉnh hoặc cấp huyện tùy trường hợp sẽ tổ chức thực hiện công tác bồi
thường khi thu hồi đất bằng cách giao nhiệm vụ cho Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Hội
đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp huyện. Đồng thời, hai chủ thể trên cũng có thể
thuê doanh nghiệp tư nhân thực hiện việc bồi thường11.



























 

 



a

 

o








































 

Việc bồi thường trong thu hồi đất chỉ được áp dụng trong một phạm vi nhất định. Cơ
sở để xác định phạm vi đó là dựa vào việc thiệt hại mà người thu hồi đất phải gánh chịu
có phải là những thiệt hại chính đáng hay không. Chỉ những thiệt hại chính đáng của
người bị thu hồi đất mới được Nhà nước xem xét bồi thường. Nếu đất bị thu hồi do người
sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai, không còn người sử dụng… thì không đặt ra vấn
đề bồi thường. Ngược lại, nếu đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế thì được đặt ra vấn đề bồi
thường. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích trên

nhưng vẫn không đặt ra vấn đề bồi thường. Đó chủ yếu là những trường hợp mà quyền sử
dụng đất được hình thành có nguồn gốc ngân sách nhà nước hoặc thuộc diện đất được
Nhà nước giao cho quản lý, sử dụng không phải trả tiền. Điển hình như trường hợp đất
nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn, đất nông nghiệp do
cộng đồng dân cư sử dụng dù bị thu hồi để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế thì vẫn không được bồi thường12.






























 






























 

















 



















































 































Phương thức bồi thường được thực hiện bằng việc trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối
với diện tích đất bị thu hồi13. Điều này xuất phát từ chỗ quyền sử dụng đất bị thu hồi có
11

Hiện tại ở nước ta, công ty Đức Khải là doanh nghiệp đầu tiên và duy nhất hoạt động trong lĩnh vực này. Xem
website của Công ty Đức Khải: />
12

Xem khoản 1 Điều 43 Luật Đất đai 2003.

13

Khoản 24 Điều 4 Luật Đất đai 2003 quy định “




























€












































a

















€


















q









































t






GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

13

SVTH: Nguyễn Quốc Việt







Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

giá và có thể quy ra thành một số tiền cụ thể. Chính vì thế, việc bồi thường trong thu hồi
đất có thể được thực hiện bằng nhiều phương thức, miễn sao tài sản đánh đổi mà Nhà
nước sử dụng để bồi thường cho người bị thu hồi đất có thể định giá được bằng tiền và
tương đương với giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, việc bồi thường có thể bằng nhiều phương thức như bằng tiền, bằng việc giao đất
mới có cùng mục đích sử dụng, giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư. Việc quy
định nhiều phương thức bồi thường giúp cho những người trực tiếp thực hiện công tác bồi
thường có thể lựa chọn phương thức nào phù hợp nhất cho từng trường hợp cụ thể.









































o



























































 

Khi bị thu hồi đất, người đang sử dụng đất mất đi quyền sử dụng đất của mình. Do đó,
việc bồi thường chỉ có thể áp dụng đối với họ. Căn cứ theo quy định của pháp luật cũng
có trường hợp mặc dù không thu hồi đất nhưng người sử dụng đất vẫn được bồi thường.
Đó là trường hợp người sử dụng đất được bồi thường thiệt hại do công trình công cộng có
hành lang an toàn đi qua đất khiến khả năng sử dụng của đất bị hạn chế14. Tuy nhiên, việc
bồi thường thiệt hại trong trường hợp đó không mang tính chất của việc bồi thường khi
thu hồi đất đang đề cập mà chỉ đơn thuần là một biện pháp bồi thường khoản thiệt hại
thực tế cho người sử dụng đất do đất của họ bị hạn chế khả năng sử dụng mà thôi.


















a


o


































































 













 












 

Mặc dù quy định trong Điều 4 Luật Đất đai 2003 không giải thích cụ thể phạm vi bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng có thể nói bồi thường khi thu hồi đất bao gồm
bồi thường đối với đất và bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền trên đất15. Trong nhiều
trường hợp, khi Nhà nước thu hồi đất, bên cạnh việc người sử dụng đất chuyển giao
quyền sử dụng đối với mảnh đất bị thu hồi cho Nhà nước thì đồng thời họ cũng phải tháo
dỡ, di chuyển tài sản trên đất của mình đi nơi khác. Trong quá trình tháo dỡ, di chuyển, tài
sản của người bị thu hồi đất có thể bị thiệt hại. Do đó, việc bồi thường khi thu hồi đất
hướng đến cả hai đối tượng này. Đối với quyền sử dụng đất, pháp luật có những quy định
về bồi thường đất, còn đối với tài sản gắn liền trên đất, pháp luật có những quy định về
bồi thường tài sản.
1.2.2. Bồi thường khi thu hồi đất trồng lúa
14
15

Xem khoản 2 Điều 16 Nghị định 197/2004/NĐ-CP.
Nghị định 197/2004/NĐ-CP chia bồi thường khi thu hồi đất ra làm hai chương: Chương II quy định về Bồi thường

đất và Chương III quy định về Bồi thường tài sản.

GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

14

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa

trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

Tuy Luật Đất đai 2003 tại Điều 13 về phân loại đất có phân đất thành từng loại rất cụ
thể nhưng các Nghị định liên quan đến bồi thường khi thu hồi đất lại không có sự phân
chia cụ thể như vậy. Các văn bản trực tiếp nhất quy định về vấn đề bồi thường khi thu hồi
đất như Nghị định 197/2004/NĐ-CP, Nghị định 84/2007/NĐ-CP và Nghị định
69/2009/NĐ-CP chỉ phân chia tách bạch giữa việc bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp
với đất ở và với đất phi nông nghiệp không phải là đất ở. Chính vì lý do đó, những vấn đề
liên quan đến bồi thường khi thu hồi đất trồng lúa chỉ có thể được tìm hiểu thông qua các
quy định về bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp nói chung.
Vì là một trường hợp cụ thể của bồi thường khi thu hồi đất nên bồi thường khi thu hồi
đất trồng lúa cũng mang một số đặc điểm chung của bồi thường khi thu hồi đất, chẳng hạn
như việc bồi thường do Nhà nước tổ chức thực hiện, không phải mọi trường hợp thu hồi
đất trồng lúa đều được bồi thường, việc bồi thường chỉ áp dụng cho người có quyền sử
dụng đất trồng lúa bị thu hồi… Tuy nhiên, xuất phát từ tính đặc thù của đất trồng lúa so
với các loại đất khác nên ngoài một số đặc điểm kể trên, vấn đề bồi thường khi thu hồi đất
trồng lúa có một số điểm đặc trưng riêng.



o













































a







 



























































 







 






a




























Đối với hầu hết người người nông dân, đất trồng lúa vừa là tư liệu sản xuất quan trọng
nhất vừa là loại tài sản có giá trị lớn nhất trong các loại tài sản của họ. Do vậy, khi bị thu
hồi đất trồng lúa thì vấn đề bồi thường đối với đất là điều mà nông dân cần và quan tâm
hơn cả. Nói như vậy không có nghĩa là khi thu hồi đất trồng lúa thì người nông dân không
được bồi thường tài sản trên đất. Thực tế thì nông dân khi bị thu hồi đất trồng lúa trong đa
số trường hợp vẫn được bồi thường về lúa, hoa màu gieo trồng trên đất, thủy sản thả nuôi
trên đất và đôi khi là cả nhà và công trình thủy lợi được xây dựng trên đất. Tuy nhiên, nếu

xem xét mối tương quan về mặt giá trị thì khoản bồi thường đối với đất trồng lúa vẫn là
chủ yếu và quan trọng nhất.



































 









 




























 











a






























Tuy pháp luật có quy định việc bồi thường đối với đất có thể thực hiện bằng việc giao
đất mới hoặc bằng tiền nhưng trên thực tế việc bồi thường đối với đất trồng lúa thường
bằng tiền. Bởi lẽ, các địa phương thường khó có thể chủ động được quỹ đất trồng lúa để
bồi thường cho người bị thu hồi đất. Quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích

do UBND cấp xã quản lý mặc dù có thể sử dụng để giao cho người có đất trồng lúa bị thu
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

15

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

hồi nhưng cũng chỉ trong trường hợp đất bị thu hồi để sử dụng vào việc xây dựng các
công trình công cộng của địa phương nên việc sử dụng quỹ đất này vào việc bồi thường
còn rất hạn chế. Do đó, việc bồi thường bằng tiền cho người bị thu hồi đất trồng lúa là rất
phổ biến. Việc bồi thường bằng tiền mang lại ưu thế là thuận tiện, nhanh chóng cho người
chi trả nhưng lại gây khó khăn cho người nhận bồi thường nếu giá đất tính bồi thường cho
đất trồng lúa quá thấp.
1.3. Hỗ trợ khi thu hồi đất
1.3.1. Hỗ trợ
Hỗ trợ hiểu theo nghĩa đơn giản là việc giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người như: hỗ
trợ bạn bè, hỗ trợ đồng đội, hỗ trợ đồng nghiệp… Trong quan hệ hỗ trợ, người hỗ trợ là
người có điều kiện để giúp đỡ người khác, còn người nhận hỗ trợ là người đang rơi vào
hoàn cảnh khó khăn cần được người khác giúp đỡ. Hoạt động hỗ trợ mang tính chất tương
thân tương ái giữa những thành viên trong xã hội, không đòi hỏi sự đáp trả và chủ yếu
nhằm giúp đỡ người đang trong hoàn cảnh khó khăn vượt qua sự khó khăn.
Hoạt động thu hồi đất nhằm hướng tới những mục đích tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh
những ý nghĩa mà nó mang lại cho kinh tế - xã hội của đất nước thì nó còn gây ra những
hệ lụy tiêu cực khác. Bên cạnh việc mất đi quyền sử dụng đất và bị thiệt hại về tài sản gắn
liền trên đất thì
















cuộc sống của những người bị thu hồi đất và gia đình của họ gặp

rất nhiều khó khăn sau khi thu hồi đất. Những khó khăn đó có thể là việc người bị thu hồi
đất bị mất việc làm, phải di chuyển chỗ ở, đời sống bị xáo trộn, thu nhập giảm, con cái bỏ
học… Những quy định về bồi thường nếu được thực hiện sẽ mang lại cho họ một số tiền
nhất định, một ngôi nhà hoặc một chỗ ở mới để đổi lại những thiệt hại đối với đất và tài
sản gắn liền trên đất của họ. Tuy nhiên, với những hệ lụy tiêu cực đã kể trên, bồi thường
khó có thể giải quyết được. Bởi lẽ, bản chất của bồi thường là sự đền bù tương xứng cho
những mất mát đã gây ra. Bồi thường mang tính chất định lượng và có thể xác định bằng
một số tiền căn cứ vào thiệt hại thực tế mà chủ thể phải gánh chịu. Ngược lại, những khó
khăn của người bị thu hồi đất lại mang tính chất định tính. Khó có thể sử dụng một tiêu
chí nào để quy đổi những khó khăn đó thành một số tiền cụ thể để bồi thường được.
Trong xã hội, mỗi cá nhân, tổ chức có một hoàn cảnh khác nhau. Việc thu hồi đất do đó
cũng gây cho họ những khó khăn khác nhau. Ngay cả khi cùng khó khăn về một vấn đề
cụ thể nào đó thì mức độ khó khăn của họ cũng có thể rất khác nhau. Do đó, việc bồi
thường với tính chất định lượng không thể theo kịp với thực tế phong phú đó. Hỗ trợ là

một giải pháp thích hợp có thể giải quyết những khó khăn của người bị thu hồi đất.
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

16

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


Nghiên cứu những qui định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trồng lúa
trong mối quan hệ với mục tiêu đảm bảo cuộc sống của người nông dân sau khi thu hồi đất

Khoản 7 Điều 4 Luật Đất đai 2003 quy định:






















































 











a

















































a





o



































































 

o





































































Qua khái niệm luật định trên, cộng với việc phân tích các quy định dưới luật, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất mang những đặc điểm cơ bản sau:
- Hỗ trợ do Nhà nước tổ chức thực hiện;
- Hỗ trợ mang tính chính sách;

- Tùy thuộc đối tượng nhận hỗ trợ là ai mà các biện pháp hỗ trợ được áp dụng có khác
nhau;
- Hỗ trợ giữ vai trò bổ trợ cho việc bồi thường nên mang tính chất “cho thêm”;
- Hỗ trợ mang tính “mở”.




 





o



 




























 














Cũng giống như bồi thường, hỗ trợ cũng không mang bản chất của hành vi thể hiện
quyền định đoạt đối với đất đai như thu hồi đất. Do đó, hỗ trợ cũng không nhất thiết do
Nhà nước trực tiếp tiến hành. Nhà nước chỉ cần tổ chức thực hiện công tác hỗ trợ thông
qua vai trò của Tổ chức phát triển quỹ đất và Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp
huyện. Đồng thời, Tổ chức phát triển quỹ đất và Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cấp huyện có thể thuê Công ty Đức Khải thực hiện công việc này. Việc một doanh nghiệp
tư nhân tham gia vào hoạt động này xuất phát từ trào lưu “tư nhân hóa” những dịch vụ
công ích của Nhà nước đang không ngừng gia tăng ở nước ta trong khoảng thời gian vừa
qua. Tuy nhiên, hoạt động của loại hình doanh nghiệp này chỉ mang tính chất thí điểm và
hiện tại vẫn chưa được luật hóa16.




 





a


































Những vấn đề mà hỗ trợ hướng đến không chỉ là vấn đề riêng của những người bị thu
hồi đất mà là vấn đề chung của toàn xã hội. Mất việc làm, khó khăn về chỗ ở, thu nhập
giảm sút, con cái bỏ học… không chỉ là những vấn đề bất cập nảy sinh từ thu hồi đất mà
từ lâu đã là những vấn đề nhức nhối tồn tại trong lòng xã hội. Các biện pháp hỗ trợ một
mặt giúp người bị thu hồi đất tạo lập cuộc sống mới, tạo công ăn việc làm, tăng thu
nhập…, mặt khác còn góp phần tác động tích cực đến sự ổn định và phát triển của xã hội.

Do đó, hỗ trợ mang tính chính sách. Điều đó cũng lý giải tại sao Nghị định 197/2004/NĐ16

Xem Công văn 642/TTg-ĐMDN của Thủ tướng Chính phủ ngày 29 tháng 4 năm 2008 về việc thành lập doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đền bù giải tỏa.

GVHD: Ths. Nguyễn Văn Hậu

17

SVTH: Nguyễn Quốc Việt


×