Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Bức tranh thiên nhiên trong Du ký viết về Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.21 KB, 8 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 62 (02/2019)
No. 62 (02/2019)
Email: ; Website:

BỨC TRANH THIÊN NHIÊN TRONG DU KÝ
VIẾT VỀ NAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
The picture of nature in Southern travel writing in the first half
of the twentieth century
ThS. Võ Thị Thanh Tùng
Trường Đại học Thủ Dầu Một
Tóm tắt
Du ký là thể loại ra đời khá sớm trong lịch sử văn học dân tộc. Đến đầu thế kỷ XX, khi điều kiện giao
thông thuận lợi, con người có nhu cầu mở rộng tầm nhìn bằng các chuyến đi, do đó du ký cũng có cơ
hội hồi sinh và phát triển. Du ký viết về Nam Bộ là mảng văn học khá lí thú bởi nó cung cấp cho người
đọc nhiều thông tin bổ ích về vùng đất và con người Nam Bộ. Trong các trang viết tỉ mỉ ấy của du
khách bốn phương, thiên nhiên Nam Bộ hiện lên thật sinh động với nhiều màu sắc. Bài viết này bước
đầu đi vào tìm hiểu hai khía cạnh nổi bật của bức tranh thiên nhiên trong du ký viết về Nam Bộ, đó là
thiên nhiên hoang dã và thiên nhiên trù phú xinh đẹp.
Từ khóa: du ký Nam Bộ, thiên nhiên, nửa đầu thế kỷ XX.
Abstract
Travel writing is a literary genre that was born quite early in the history of national literature. At the
beginning of the 20th century, when the traffic conditions became more convenient, people had the need
to broaden their visibility by traveling, so travel writing also had the opportunity to revive and develop.
Travel writing about the South is an interesting piece of literature because it provides readers with a lot
of useful information about the land and people of the South. In the meticulous pages of travelers from


different corners of earth, the nature of the South is very lively and colorful. This article will explore the
two most prominent aspects of the picture of nature in travel writing about the South, including wild
nature and beautiful rich nature.
Keywords: Southern travel writing, nature, the first half of the twentieth century.

phá thiên nhiên đầy khắc nghiệt mà ông
cha ta đã trải qua hàng mấy thế kỷ. Nhưng
không đơn thuần chỉ là mưu sinh, ông cha
ta “Khẩn hoang tận đồng bằng sông Cửu
Long là tiếp nối bình thường truyền thống
dựng nước, giữ nước, lần hồi tạo thêm nét
đa dạng trong tính thống nhất về văn hóa
dân tộc” [3, tr.18]. Trong quá trình chinh

1. Đặt vấn đề
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống
gắn bó, hòa hợp với thiên nhiên. Bên cạnh
việc dựa vào tự nhiên để tồn tại, cha ông ta
cũng có ý thức chinh phục, chế ngự thiên
nhiên để tạo nên môi trường sống tốt hơn
cho bản thân và cộng đồng. Vùng đất Nam
Bộ chính là thành quả của công cuộc khai
Email:

75


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 62 (02/2019)


truông, tiếng thường kêu là “khúc cây da
năm chưn” là một nơi sầm uất và rất hiểm,
vì cọp, beo thường khi ra nghểu nghiến
giỡn chơi, và như phải đều rủi chi tại đây
thì không ai mà tiếp cứu cho được” (Dạo
rảo xứ Thủ Dầu Một) [14, tr.796].
Con người nhỏ bé như rợn ngợp trước
thiên nhiên mênh mông hoang dại. Đối
diện với mối đe dọa thường xuyên, họ
thường trực một mối lo sợ “chèo ghe sợ
sấu cắn chưn, xuống sông sợ đỉa, lên rừng
sợ ma”. Nỗi sợ ấy còn được thể hiện qua
cách đặt tên các địa danh. Tác giả Khuông
Việt đã không quên ghi lại cái thực tế này
trong du ký Hai mươi lăm ngày đi tìm dấu
người xưa:“Gọi là Rạch Gầm, theo lời một
vị hương chức nói lại, là vì xưa kia vùng đó
toàn rừng rú, có nhiều cọp gầm thét tối
ngày” [2, tr.976].
Khi cuộc sống của con người vẫn còn
đang phụ thuộc vào thiên nhiên thì mọi
động tĩnh mà thiên nhiên gây ra đều mang
một màu sắc thần bí, khó hiểu. Lưu dân,
những người đang hàng ngày hàng giờ phải
đối mặt thường xuyên với sơn lam chướng
khí, ma thiêng nước độc, cọp beo rắn rít...
tin rằng để không bị thiên nhiên làm “nhiễu
hại trâu bò của dân sự” (Tây Ninh Vũng
Tàu du ký) hay “phá xóm làng” (Cảnh vật

Hà Tiên), gây khó khăn cho công cuộc
khẩn hoang và đe dọa tính mạng của con
người, họ phải lập miếu thờ và cúng tế
đàng hoàng. Theo quan sát của tác giả
Khuông Việt, hiện tượng thờ cúng này đến
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX vẫn còn tồn
tại:“hiện nay trong làng, mỗi lượt cúng kỳ
yên đều có chầu heo riêng cho cọp” (Hai
mươi lăm ngày đi tìm dấu người xưa) [2,
tr.976]. Không chỉ thờ mà họ còn tôn cọp
làm “ông cả” trong làng, do đó mà “tên
cọp ít khi kêu; kêu tránh là: ông kẹ, ông

phục thiên nhiên nơi vùng đất mới, lưu dân
ở đây đã hình thành nên một thái độ văn
hóa, đó là vừa e sợ nhưng cũng vô cùng
biết ơn. E sợ vì thiên nhiên hoang dã vẫn
luôn là một thế lực đầy bí hiểm, đầy sức
mạnh đang hiện diện khắp nơi như muốn
thử thách ý chí và lòng dũng cảm của con
người nhưng biết ơn vì thiên nhiên đã chở
che, cưu mang và đem đến nguồn sống cho
họ. Dấu ấn của thái độ văn hóa ấy đã được
thể hiện khá rõ trong những trang du ký
viết về Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Bức tranh thiên nhiên hoang dã
Khi người dân Việt mới đến Nam Kỳ,
ấn tượng đầu tiên là sự choáng ngợp trước
một thiên nhiên bao la rộng lớn nhưng

“hoang sơ lạ lẫm” với sông rạch chằng chịt,
rừng rậm nối dài. Điều này được Châu Đạt
Quan viết trong Chân Lạp phong thổ ký
như sau: “Bắt đầu vào Châu Bồ gần hết cả
vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những
cửa rộng của con sông lớn chảy dài hàng
trăm dặm với bóng mát um tùm của những
cây mây dài, khắp nơi vang tiếng chim hót
và thú kêu. Vào nửa đường trong sông, thấy
những cánh đồng hoang không có một gốc
cây. Xa hút nữa tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ
cây đầy rẫy” [11, tr.80]. Thiên nhiên ưu ái
ban tặng cho vùng đất này sự màu mỡ, giàu
sản vật quý hiếm khiến lưu dân tin rằng đây
chính là miền đất hứa cho những thân phận
lạc loài, đau khổ. Nhưng họ nhanh chóng
nhận ra rằng đây cũng là “xứ sở lạ lùng”, vì
“dưới sông” thì “sấu lội” mà “trên bờ” thì
“cọp um”, hoang vu, bất trắc đến nỗi: “con
chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”.
Cái hiểm nguy ấy của thiên nhiên được tác
giả G.Y ghi lại trong du ký Dạo rảo xứ Thủ
Dầu Một như sau:
“Ngày nay người ta còn chỉ khúc
76


VÕ THỊ THANH TÙNG

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN


vía đâu mất cả, nhưng phúc đức, khỏi
chết”(Một tháng ở Nam kỳ) [11, tr.238].
Những câu chuyện như vậy đã “trở
thành truyền thuyết phổ biến sâu rộng và
bền bỉ trong ký ức người dân. Đó là những
việc làm và những thành tích của tập thể
mà nổi bật là những cá nhân xuất sắc đại
biểu cho lòng can đảm và ý chí chiến thắng
của người dân Gia Định” [1, tr.13]. Những
cá nhân không sợ hiểm nguy, quyết tâm
bảo vệ sự bình yên cho cộng đồng luôn
được nhân dân tôn vinh, ngưỡng mộ như
những anh hùng thật sự.
Trong những ấn tượng sâu sắc về vùng
đất mới, ấn tượng về rừng là dai dẳng nhất.
Đối với dân tộc Việt Nam, rừng là hình ảnh
quen thuộc, gần gũi vì rừng cùng với biển
là nơi đem lại nguồn sống cho con người.
Rừng như người mẹ hiền nuôi dưỡng và
che chở cho dân tộc Việt Nam từ khi khai
thiêng lập địa cho tới tận ngày nay. Là nơi
để con người tưởng nhớ về cội nguồn. Tuy
nhiên đối với lưu dân, từ khi mới tiếp xúc,
rừng không chỉ là người bạn hiền mà còn
chứa đựng trong nó tất cả những lạnh lẽo,
thâm u, hiểm nguy và đáng sợ. Tác giả
Biến Ngũ Nhy trong một lần đi ngang qua
rừng vẫn còn cảm nhận rất rõ cái đáng sợ
ấy: “khỏi mấy xóm nhà, thì tới rừng, hai

bên cây mọc bí bách. Đường trường vắng
vẻ, chẳng thấy bóng người, dòm xung
quanh chỉ thấy cây lá điểm dài trước sau
một đường trắng xóa” (Tây Ninh Vũng Tàu
du ký) [6, tr.3]. Rừng cũng để lại cho con
người sự ám ảnh về những mất mát, đau
thương “Đi tới cây số 47 thì gò cao, đất
dốc hai bên rừng bụi diềm dà, đường
quanh co trắc trở. Chỗ đó kêu là truông
Thò Đo, những kẻ cầm bánh xe hơi đều cho
là chỗ hiểm, nên hễ tới đó thì rất cẩn thận”
(Tây Ninh Vũng Tàu du ký) [8, tr.4].

thầy, cáo vàng” (Cảnh vật Hà Tiên) [10,
tr.587] với hy vọng được chúng buông tha.
Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh
sinh tồn đầy khắc nghiệt ấy, để tồn tại, con
người không chỉ biết sợ mà còn phải biết
chinh phục tự nhiên, “vì dù sao thú dữ
trước mặt cũng không ác bằng bọn quan lại
vua chúa nơi quê nhà” [4, tr.21]. Bằng ý
chí, sự bền bỉ và lòng dũng cảm, lưu dân đã
biết “làm rọ mà bắt loài thú dữ ấy” (Tây
Ninh Vũng Tàu du ký) một mặt là để tự vệ,
mặt khác là để “khẳng định quyền làm chủ
chân chính của người Việt trên mảnh đất
này” [1, tr.14]. Chính hành động ấy đã để
lại trong ký ức lưu dân những ấn tượng sâu
sắc, khó quên về thời kỳ đầu đi mở cõi.
Xung quanh những câu chuyện diệt hổ, giết

cọp vẫn thường được bao phủ bởi một màn
sương huyền thoại. Đó được coi là những
chiến công lớn nhất trong hành trình đi mở
cõi của cha ông ta. Tác giả Phạm Quỳnh
trong một tháng dạo chơi ở Nam Kỳ đã
không quên ghi chép thật tỉ mỉ những câu
chuyện giết hổ, diệt cọp đầy vẻ hoang
đường này:
“Rồi ngài kể chuyện một bữa bắn
được con hổ to lớn lạ thường, khi nó vươn
mình ra từ đầu đến cuối đuôi có tới sáu
thước tây, nó làm kinh hoảng cả một vùng
đó, ăn hại không biết bao nhiêu người và
súc vật, người dân đã cho là hổ thần, đành
chịu không ai bắn nổi. (…) Quả gặp hổ
thần thật. Ngài bắn luôn mấy phát trúng,
ngã sóng sượt ra, người nhà tưởng chết
thẳng rồi, có một anh đánh bạo chạy lại
gần; té ra hổ ta còn ngắc ngoải, vươn tay
ra nắm lấy gáy anh chàng! Quan đốc phủ
nhanh mắt và nhanh tay sao, bắn liền ngay
một phát vào giữa đầu hổ chết cứng. May
sao là may, nếu chậm một giây phút thì
anh đầy tớ kia đi đời. Khi khiêng về hồn
77


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 62 (02/2019)


thánh thần. Do vậy, phần lớn các chùa
chiền, đền điện đều được xây dựng trong
rừng, chính vì vậy, những sinh hoạt tôn
giáo cũng thường diễn ra trong ấy, Biến
Ngũ Nhuy đã ghi chép tỉ mỉ những sinh
hoạt này trong du ký của mình như sau: “đi
khỏi châu thành chừng 4 ngàn thước, thì
tới rừng. Rừng ấy kêu là rừng Độm, rộng
lớn minh mông, ăn vào tận tới chân núi, bề
ngang hơn 8 ngàn thước. Cách năm bảy
năm trước, những thiện nam tín nữ trong
Lục Châu đi lên Điện Bà lấy làm khó nhọc,
vì chẳng có đường lộ, phải đi xe bò, băng
ngang vào rừng...” (Tây Ninh Vũng Tàu du
ký) [7, tr.4].
Khi thực dân Pháp xác lập quyền
thống trị trên đất Nam Kỳ, một số thành thị
ra đời. Tuy nhiên, số thành thị này không
nhiều, còn lại vẫn là nông thôn và những
vùng hoang vu chưa ai khai phá. Thực tế
này được phản ánh khá rõ trong những
trang du ký viết về Nam Bộ, tác giả Biến
Ngũ Nhy mô tả: “Ra khỏi Trảng Bàng, xe
chạy lên Gò Dầu Hạ, đi ngang qua một cái
gò rất cao, lớn, kêu là xái-cục, thuộc về
làng Phước An. Đường lên dốc, nhiều chỗ
quanh co, khi lên cao, như mu rùa, khi
xuống thấp như lòng chảo. Nơi gò cao, đất
hoang cỏ cháy, tre mọc từng chòm; chỗ

thấp trũng, bưng, báo, ruộng nương thưa
thớt, coi phong cảnh não nùng” (Tây Ninh
Vũng Tàu du ký) [6, tr.3].
Tình trạng đất đai vô chủ là tương đối
phổ biến ở Nam Kỳ trong những năm đầu
thế kỷ XX, theo như ghi chép của Phạm
Quỳnh thì: “Phong cảnh này thật là khác
cái phong cảnh mấy tỉnh Tây Nam mình
vừa đi qua mới rồi. Đất đây cao và khô,
toàn là đất gò đất núi cả, lắm chỗ đường
xe đi sẻ ngang vào giữa khoảng rừng cỏ
bãi hoang, cảnh tượng cũng đìu hiu tịch

Rừng rậm sông sâu vẫn luôn là một thế
lực bí hiểm, đầy sức mạnh đang hiện ra với
một dáng vẻ hoang sơ như muốn thử thách
lòng can cảm của con người “đường đi
ngang qua rừng, chỗ lên cao, chỗ xuống
thấp, hai bên cây cối mọc dài. Đi qua một
cái truông, kêu là truông Hồng Đào. Trong
rừng cũng có nhiều thú dữ, như là cọp,
beo, song ít khi ra tới lộ đi tới dựa chân
núi thì cùng đường” (Tây Ninh Vũng Tàu
du ký) [7, tr.4].
Trong ký ức người dân Nam Bộ, rừng
và truông thường gắn liền với nhau nên
mức độ nguy hiểm càng tăng lên gấp bội.
Truông chính là sào huyệt của những băng
cướp khét tiếng, thường bắt bớ, giết chóc
để cướp của hoặc đòi tiền mãi lộ. Do đó

truông luôn là hiện thân của mối đe doạ
khủng khiếp đối với con người. Trong Gia
Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức
cũng có viết: “Duy có vùng Toái Đàm
(Đầm Nát) thuộc huyện Long Thành có
nhiều kinh mương đan nhau, rừng ao xanh
rậm, đất trống, không có dân cư nên trộm
cướp thường núp ở đấy, khách buôn qua lại
thường phải đề phòng (…) Xứ ấy có nhiều
rừng cây sầm uất, nhà ở xa nhau, cho nên
nhiều trộm cướp nổi lên” [3, tr.188]. Ca
dao xưa cũng từng đề cập: “Thương em
anh cũng muốn vô / Sợ Truông nhà Hồ sợ
phá Tam Giang”. Do đó truông và rừng
luôn là những chướng ngại thường xuyên
ngăn cản bước chân người lưu dân trên con
đường đi tìm miền đất hứa.
Tuy nhiên, rừng cũng là nơi thanh tịnh,
nơi để con người tự đối diện với lòng
mình, rủ bỏ mọi ưu phiền khổ não, phủi
sạch bụi trần để trở về với cái bản lai diện
mục của chính mình. Từ trong tiềm thức
của lưu dân, rừng là biểu trưng cho sự
trong sạch của tâm hồn, là nơi yên nghỉ của
78


VÕ THỊ THANH TÙNG

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN


danh mộc ít nơi dám bì”. Còn Đông Hồ và
Nguyễn Văn Kiểm thì không quên liệt kê tỉ
mỉ những danh mộc của xứ Hà Tiên: “lào
táo, căm xe, cà chất, váng hương, săn đá,
tràm, sơn hay giăng, đều là thứ danh mộc
tốt nhất hạng” (Cảnh vật Hà Tiên) [10,
tr.557]. Và tuy mỗi loại có những đặc điểm
khác nhau nhưng tất cả đều là những “thứ
gỗ to tốt đẹp, chắc chắn, dùng được nhiều
việc” như “cất nhà, đóng ghe, đóng hòm,
v.v…” (Cảnh vật Hà Tiên) [10, tr.557]. Vì
là danh mộc nên “thứ nào dùng lâu cũng
lên nước láng tốt” (Cảnh vật Hà Tiên) [10,
tr.557]. Về cầm thú thì cơ man nào là cọp,
rắn, ong, chuột, thỏ, heo rừng, nhím...
nhiều đến nỗi vào “mùa nước đổ, đồng
ruộng ngập hết, heo, mang lên núp trên gò.
Khi ấy không cần bắn súng hay đánh bẫy.
Cứ bơi xuồng ra gò, lấy cây lấy đá liệng nó
cũng chết” (Cảnh vật Hà Tiên) [10,
tr.557]. Những quan sát và ghi chép về
rừng của các tác giả du ký Nam bộ đã góp
phần lột tả được vẻ đẹp hoang sơ cũng như
sự trù phú của một vùng đất mới.
Nam Bộ xưa nổi tiếng là nơi: “Ruộng
đồng mặc sức chim bay/Biển, hồ lai láng
cá bầy đua bơi”. Nơi đây không chỉ có
“rừng vàng” mà còn có “biển bạc”. Biển
cũng đem lại nguồn lợi đáng kể cho người

dân Nam Bộ. Đặc biệt, các tỉnh như Kiên
Giang, Vũng Tàu có bờ biển dài nên cá
tôm lúc nào cũng nhung nhúc với đủ thứ
loại:“Cá vồ, cá chan, cá vược, cá mú, cá
ngừ, cá chét gộc là mấy thứ cá ngon”,
(Cảnh vật Hà Tiên) [10, tr.598-602]. Từ đó
hình thành nên “nghề đánh cá, làm nước
mắm đã phát triển với kinh nghiệm cao về
kỹ thuật” [5, tr.19] từ “cá cơm để làm nước
mắm, cá bạc má làm cá mặn, mỗi năm bán
được mấy trăm vạn đồng” (Cảnh vật Hà
Tiên) [10, tr.595], đến các loại hải sản khác

mịch như lắm nơi ở Trung kỳ” (Một tháng
ở Nam Kỳ) [11, tr.248].
Dấu ấn của thiên nhiên hoang dã ở
Nam Bộ vẫn còn rất sâu đậm trong những
trang viết của các nhà du hành nửa đầu thế
kỷ XX. Điều đó phản ánh một thực tế rằng
mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người
nơi vùng đất hoang sơ này vẫn còn vô cùng
khăng khít. Đối với người dân Nam Bộ, khi
đời sống của họ phần lớn phụ thuộc vào
thiên nhiên thì hơn ai hết họ ý thức rất rõ sự
tác động lớn lao của thiên nhiên lên sản
xuất, sinh hoạt, do đó xuất hiện tâm lý sùng
bái, ngưỡng mộ, tôn trọng và cả nỗi sợ sệt,
lo âu, khiếp nhược là điều hoàn toàn có thể
lý giải được. Tất cả những biểu hiện hết sức
phong phú này của tâm lý con người trước

thiên nhiên hoang dã đã được du ký ghi lại
một cách tỉ mỉ, sinh động. Đọc du ký viết
về Nam Bộ ta có thể hiểu thêm một khía
cạnh nữa trong cách ứng xử của người Nam
Bộ xưa trước tự nhiên, đồng thời bộ phận
văn học này còn góp phần làm cho mảng
văn học viết về Nam Bộ trở nên phong phú
và hấp dẫn hơn.
2.2. Bức tranh thiên nhiên trù phú,
xinh đẹp
Không chỉ có thâm sâu, nguy hiểm,
rừng còn chứa đựng trong nó nguồn sống
dồi dào đủ sức làm ấm lòng những người
con xa xứ bằng một cuộc sống ấm no, đầy
đủ. Vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu, lưu dân
đã có thể tự tin đến với rừng để khai thác
nhiều sản vật quý hiếm mà rừng đã hào
phóng ban tặng. Rừng từ xưa đến nay được
coi là nơi quy tụ nguồn lợi dồi dào, đa
dạng. Là người con của xứ Nam Kỳ, khi
đứng trước sự giàu có của rừng phương
Nam, tác giả của Cuộc du lịch Châu-Đốc
Hà-Tiên Kam-pot Phú-quốc đã tự hào
khẳng định:“Nam Kỳ này có nhiều loại
79


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 62 (02/2019)


có giá trị kinh tế cao như:“tôm càng, tôm
bạc, tôm gộng, tôm tích, tôm vỗ ngực, tôm
sú... ” (Cảnh vật Hà Tiên) [10, tr.597] đã
góp phần đem đến sự phát triển thịnh
vượng chung cho vùng đất Nam Bộ này.
Trong quá trình chinh phục tự nhiên,
lưu dân đã vô tình khám phá ra vẻ đẹp
quyến rũ làm say lòng người của cảnh vật
nơi đây. Tác giả của Cảnh vật Hà Tiên đã
khám phá ra“bên cạnh những bức tranh
đẹp của làng quê, còn có những khung
cảnh hùng vĩ của núi non hang động” mà
“càng ngắm lại càng không tin là cảnh
thiên tạo” vì “thiên tạo là ai là người ngồi
tò mò xây đặt từng bậc đá, tỉ mỉ từng nét
hoa, dẫu nhơn công cũng vị tất là khéo
bằng” (Cảnh vật Hà Tiên) [10, tr.629].
Cảnh vật đẹp đẽ khiến tác giả Marie
Nguyễn Sử cứ “nhìn hoài không chán,
càng nhìn lại càng làm cho mê mết tâm
hồn” làm cho “bao nhiêu sự mệt nhọc nhờ
ngọn gió tốt nên tiêu tan đi hết” (Cuộc du
lịch Châu-Đốc Hà-Tiên Kam-pot Phúquốc) [11, tr.177]. Và nói như tác giả Đông
Hồ thì chỉ khi nào“người ta được đặt mình
vào những cảnh vắng vẻ êm đềm thì tâm
hồn mới thấy tỉnh táo nhẹ nhàng, di được
tinh, dưỡng được tình là ở những cảnh này,
chớ lăn lóc ở trong bụi xe ngựa, chen chúc
trong án phồn hoa chỉ tổ làm cho người ta

quay cuồng xuẩn động mà thôi” (Cảnh vật
Hà Tiên) [10, tr.627].
Thật là một bức tranh thiên nhiên đầy
sự tương phản, không chỉ là chốn “cọp beo
chẳng thiếu chi” (Tây Ninh Vũng Tàu du
ký), mà còn là nơi có nhiều phong cảnh
hữu tình như những bức tranh sơn thủy.
Đây là cảnh biển với “bãi cát trắng phau,
chạy dài hàng mấy nghìn thước. Ngoài
khơi xa, lác đác mấy chiếc thuyền đánh cá,
cánh buồm trắng in vào đám mây hồng.

Bên rặng núi mờ xanh, nhởn nhơ đàn nhạn
lạc, tạc thành một bức tranh ảnh khổng lồ
tuyệt đẹp” (Chơi Phú Quốc) [10, tr.384].
Còn kia là “bãi Mũi Nai, núi Tô Châu, đảo
Phú Quốc, núi Thạch Động, Đông Hồ, mỗi
cảnh đẹp riêng một thế” (Cảnh vật Hà
Tiên) [10, tr.520]. Quả là “một cảnh thần
tiên linh hoạt” (Tôi ăn Tết ở Côn Lôn) [4,
tr.982] khiến khách du không khỏi mơ
màng trước cái “vẻ nước, màu trời, bóng
trăng, sắc núi, hơi gió thì thào, tiếng sóng
dào dạt” (Tết chơi biển) [12, tr.303]. Cảnh
như mê như hoặc làm rung động, gợi cảm
hứng cho những tâm hồn nhạy cảm, biết
say mê cái đẹp: “ước chi tôi là một họa sĩ
tài hoa hầu ghi lại trên vuông lụa trắng
những màu sắc mà thợ trời kéo tô điểm cho
mây nước bao la. Ước chi tôi là một thi

nhân lỗi lạc hầu lựa những vần tuyệt tác để
ca tụng cái đẹp thiêng liêng huyền diệu của
hóa công” (Tôi ăn Tết ở Côn Lôn) [2,
tr.982].
Các nhà du hành nửa đầu thế kỷ XX
đã dành nhiều trang viết sinh động nhất khi
viết về thiên nhiên Nam Bộ. Thiên nhiên
không chỉ là bạn của con người mà còn là
nguồn mạch của sự sống, nơi nuôi dưỡng
những vùng đất trù phú: “Người ta thường
nói: “Đất Nam Kỳ là sản nhi của sông Mê
Kông”. Mà thiệt thế. Nhờ có sông Mê
Kông đào đất tự trên cao nguyên Tây Tạng
(Tibet), chảy qua mấy nghìn dặm mang tới
đây, đời ấy sang đời khác, phụ đắp mãi
vào, mới thành ra cái đồng bằng lớn đất
Nam Kỳ: cho nên ngày nay hình như sông
kia vẫn thương yêu riêng chốn đất này, hai
tay dương ra ôm ấp lấy, như người mẹ
hiền ãm đứa con quí của mình”, (Một
tháng ở Nam Kỳ) [11, tr.199].
Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên là một
trong những nội dung hấp dẫn của du ký
80


VÕ THỊ THANH TÙNG

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN


viết về Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX. Cảnh
đẹp ấy vừa có cái hùng vĩ, vẻ tươi tắn, sự
yển chuyển đầy mê hoặc sông nước mây
trời, vừa có cái sung túc của “rừng vàng
biển bạc”, cái màu mỡ, phì nhiêu của
những cánh đồng “cò bay thẳng cánh”.v.v.
Phải là những con người thật sự gắn bó
máu thịt với quê hương xứ sở thì mới có
thể có những quan sát tỉ mỉ và những cảm
nhận tinh tế về thiên nhiên như vậy. Những
trang du ký không chỉ thấm đượm tình quê
hương mà còn thể hiện ý chí tiến thủ, sức
sống mãnh liệt, lòng tự hào của lưu dân nơi
miền đất mới. Chính những bức tranh thiên
nhiên tươi đẹp được dệt nên từ ngôn từ như
thơ như nhạc đó đã phần nào cho ta thấy
được cái tâm sự yêu nước của các nhà văn,
tuy không trực tiếp, quyết liệt nhưng có
sức ám ảnh ghê gớm. Cái phong vị thiên
nhiên đất nước ấy như đánh thức dậy trong
tâm hồn mỗi người cái bản năng gần với
bản năng sinh tồn, đó là bản năng bảo vệ
quê hương đất nước.
3. Kết luận
Du ký viết về Nam Bộ nửa đầu thế kỷ
XX có những đóng góp không nhỏ trong
việc hoàn thiện thể loại du ký nói chung
cũng như khắc họa một phần lịch sử, địa
lý, văn hóa, cảnh vật, con người Nam Bộ
trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động,

khi các thế lực thực dân phương Tây đang
bắt đầu quá trình bành trướng sức mạnh
của mình đối với các dân tộc “nhược tiểu”
phương Đông, trong đó có Việt Nam. Du
ký Việt Nam nói chung và mảng du ký viết
về Nam Bộ nói riêng còn được coi là một
bộ phận văn học của những nhà tiền phong
mang sứ mệnh của những người đi khai
phá, mở đường “làm tài liệu cho một nền
văn học Việt Nam” (Phạm Thế Ngũ).
Không những thế nó còn có những đóng

góp lớn lao vào quá trình hiện đại hóa nền
văn học dân tộc trong buổi đầu còn nhiều
bỡ ngỡ.
Thiên nhiên là một trong những nội
dung quan trọng của du ký viết về Nam Bộ
nửa đầu thế kỷ XX. Các nhà văn dành cho
thiên nhiên một sự ưu ái đặc biệt bởi thiên
nhiên muôn đời vẫn luôn có một sức hấp
dẫn mãnh liệt đối với con người, dù đó là
thiên nhiên hoang dã hay thiên nhiên trù
phú xinh đẹp. Hai bức tranh thiên nhiên
mới nhìn có vẻ tương phản nhưng kỳ thực
là hai mảnh ghép không thể thiếu bổ sung
cho nhau làm cho bức tranh toàn cảnh của
thiên nhiên Nam Bộ trở nên hoàn thiện.
Hai bức tranh cũng là hai dấu ấn quan
trọng trong hành trình đi mở cõi của người
lưu dân nơi vùng đất mới. Dấu ấn đầu tiên

là nỗi khiếp sợ của những con người nhỏ
bé trước cái hoang sơ, lạnh lẽo của thiên
nhiên rộng lớn, nhưng vượt qua nỗi sợ ban
đầu, khi đã quen và gần gũi là sự ngưỡng
mộ rồi gắn bó sâu nặng. Tình yêu vĩnh cửu
với thiên nhiên là một trong những nguồn
mạch chính của văn chương phương Đông.
Khi viết về thiên nhiên Nam Bộ là lúc các
nhà du hành đang tiếp nối mạnh nguồn tươi
mát của truyền thống văn chương dân tộc,
góp phần khơi gợi tình yêu, sự trân trọng
đối với di sản văn học nước nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên),
Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh,
tập 2: Văn học, báo chí, giáo dục, NXB TP
Hồ Chí Minh, 1998.
2. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên), Văn học Việt
Nam thế kỷ XX, Tạp văn và các thể ký Việt
Nam 1900 – 1945, Quyển ba, tập IV, NXB
Văn Học, H, 2007.
3. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí
(Tái bản lần thứ nhất), NXB Tổng Hợp

81


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 62 (02/2019)


Đồng Nai, 2006.

Du ký Việt Nam, Tạp chí Nam Phong 1917
– 1934, (Tập I), NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh,
2007.

4. Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, NXB TP Hồ
Chí Minh, 1993.

11. Nguyễn Hữu Sơn (Tuyển chọn, giới thiệu),
Du ký Việt Nam, Tạp chí Nam Phong 1917 1934, (Tập II), NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh,
2007.

5. Sơn Nam, Đồng bằng Sông Cửu Long – nét
sinh hoạt xưa & Văn minh miệt vườn, NXB
Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2004.
6. Biến Ngũ Nhy, “Tây Ninh Vũng Tàu du
ký”, Công Luận Báo, số 420, trang 3 1921.

12. Nguyễn Hữu Sơn (Tuyển chọn, giới thiệu),
Du ký Việt Nam, Tạp chí Nam Phong 1917 1934, (Tập III), NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh,
2007.

7. Biến Ngũ Nhy, “Tây Ninh Vũng Tàu du
ký”, Công Luận Báo số 422, trang 4, 1921
8. Biến Ngũ Nhy, “Tây Ninh Vũng Tàu du
ký”, Công Luận Báo số 425, trang 4, 1921

13. Marie Nguyễn Sử, “Cuộc du lịch Châu-Đốc

Hà-Tiên Kam-pot Phú-quốc”, Nam Kỳ Địa
Phận số 1442, trang 177, 1937

9. Châu Đạt Quan, Chân Lạp phong thổ ký,
Bản dịch Lê Hương, Sài Gòn, 1973.

14. G.Y, “Dạo rảo xứ Thủ Dầu Một”, Nam Kỳ
Địa Phận, số 514, trang 796, năm 1918.

10. Nguyễn Hữu Sơn (Tuyển chọn, giới thiệu),

Ngày nhận bài: 22/10/2018

Biên tập xong: 15/02/2019

82

Duyệt đăng: 20/02/2019



×