Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu - 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.51 KB, 18 trang )

Đặt vấn đề
Pháp luật dân sự là công cụ có sức mạnh lớn nhất để điều chỉnh, giải
quyết các vấn đề nảy sinh nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia
quan hệ giao dịch dân sự. Bộ luật dân sự hiện hành đã quy dịnh cụ thể, chi tiết,
chặt chẽ và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện cũng như các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Tuy nhiên , Việt Nam đang hội nhập vào
nền kinh tế thế giới nên việc giao dịch dân sự cũng ngày càng phát triễn nhưng
bên cạnh đó luôn chứa đựng những vấn đề phức tạp, rắc rối mà các giao dịch
dân sự mang lại dẫn đến nhiều khó khăn và thách thức mới trong việc giải quyết
vấn đề giao dịch dân sự, nhất là việc tranh chấp dân sự ngày càng tăng lên, các
giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch chiếm
tỉ lệ không hề nhỏ.
Đặc biệt, có trường hợp chủ thể xác lập giao dịch dân sự nhưng không đạt
được lợi ích mà mình mong muốn mặc dù họ hoàn toàn có thiện chí và ngay
thẳng khi tham gia vào giao dịch đó, những người như thế được các nhà làm luật
gọi là “ Người thứ ba ngay tình”. Vậy, làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của họ
khi tham gia vào các giao dịch dân sự? Trong bài tập lớn cá nhân lần này em xin
tìm hiểu về “ Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự
vô hiệu theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành”.
Giải quyết vấn đề nghiên
1.

Cơ sở lý luận

1.1. Khái niệm giao dịch dân sự:
Điều 121 BLDS năm 2005 quy định: Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự.
1.2. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu



Điều 127 BLDS quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện
được quy định tạo Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”.
Điều 122 BLDS năm 2005 quy định rất rõ về điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định.”
Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không bắt buộc phải được thiết
lập theo một hình thức nhất định thì giao dịch đó sẽ được coi là có hiệu lực khi
-

có đủ ba điều kiện được quy định tại khoản 1 của điều luật:
Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự:
Là người có đủ khả năng nhận thức và khả năng tài sản để thực hiện các
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự mà họ tham gia. Bao gồm:
+ Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được tự mình xác lập, thực
hiện các giao dịch dân sự;
+ Người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hang ngày, phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định
khác.
+ Người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không
cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp

-


luật có quy định khác.
Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
Theo điều kiện này thì để được coi là có hiệu lực, các bên không được
thỏa thuận để thực hiện những hành vi đã bị pháp luật cấm hoặc trái với những
chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được

-

cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.


Giao dịch dân sự phải được thiết lập trên cơ sở tự do, tự nguyện của các
bên chủ thể. Vì vậy, giao dịch dân sự sẽ bị coi là không có tính tự nguyện của
người tham gia khi giao dịch đó được thiết lập do bị đe dọa, bị lừa dối, bị nhầm
lẫn.
Đối với những giao dịch dân sự mà pháp luật đã quy định phải được thiết
lập theo một hình thức nhất định thì ngoài việc phải đáp ứng đủ các điều kiện
trên, hình thức của giao dịch này còn phải tuân theo quy định của pháp luật mới
được coi là có hiệu lực pháp luật.
1.3. Khái niệm người thứ ba ngay tình
Điều 189 BLDS năm 2005 quy định:
“Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình.
Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ
luật này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là
người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là



không có căn cứ pháp luật”.
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu của một người đối với
một tài sản mà không dựa trên những cơ sở của pháp luật. Việc chiếm hữu tài
sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của BLDS năm 2005 là chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật.
Điều 183 BLDS năm 2005 quy định.
“Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các
trường hợp sau đây:
1. Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
2. Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản;
3. Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự
phù hợp với quy định của pháp luật;
4. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là
chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp
với các điều kiện do pháp luật quy định;
5. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc
phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định;
6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định.”




Cũng theo điều luật này, hành vi chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật
chỉ được coi là ngay tình nếu có đủ 2 điều kiện: Không biết và không thể biết
việc chiếm hữu đó là không có căn cứ pháp luật.
Ví dụ: A mua của B một chiếc xe đạp mà không hề biết chiếc xe đạp đó là
do B trộm cắp của C. Trong trường hợp này thì A chiếm hữu chiếc xe đạp đó
được xem là không có căn cứ pháp luật nhưng lại được coi là ngay tình vì A
không biết tài sản đó là do B trộm cấp của C, đồng thời chiếc xe đạp là một tài

sản không phải đăng ký quyền sỡ hữu nên A không thể biết chiếc xe đạp đó có

2.

phải của B hay không.
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô
hiệu.
2.1. Điều kiện để xác định người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô
hiệu
Để xác định người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu phải căn
cứ vào những điểm sau:
- Trước khi người thứ ba tham gia giao dịch dân sự đã có một giao dịch
dân sự trước được xác lập, thực hiện nhưng giao dịch trước đó vô hiệu.
- Người thứ ba xác lập giao dịch phải ngay tình.Tức là trong trường hợp
này, người thứ ba không biết hoặc không thể biết rằng mình tham gia giao dịch
dân sự với người không có quyền định đoạt tài sản, hoặc đối tượng của giao dịch
liên quan đến giao dịch trước đó.
- Người thứ ba tham gia vào giao dịch dân sự phải là người có đầy đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Nếu trong trường hợp mà họ không có
đầy đủ năng lực hành vi thì họ phải có người giám hộ hoặc người đại diện hợp
pháp.
- Người thứ ba đã thực hiện nghĩa vụ và hưởng những quyền dân sự trong
giao dịch do họ xác lập. Nói cách khác, họ đã nhận tài sản từ giao dịch và mục
đích của giao dịch đã đạt được.
- Tài sản giao dịch là những tài sản được phép lưu thông. Bởi nếu là vật
cấm lưu thông,thì người thứ ba buộc phải biết mình xác lập giao dịch dân sự bất
hợp pháp.


- Mục đích và nội dung của giao dịch không được trái quy định của pháp

luật và đạo đức xã hội.
- Trình tự xác lập giao dịch tuân thủ đúng trình tự pháp luật.
- Người thứ ba phải có yêu cầu được hưởng tài sản hoặc bồi thường thiệt
hại khi tài sản giao dịch bị tịch thu sung quỹ Nhà nước, hoặc bị trả lại cho chủ
sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
2.2. Quy định của Bộ luật dân sự 2005 về việc bảo vệ quyền lợi của người
thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
2.2.1. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình ( Điều 138, 256)
Điều 138 BLDS năm 2005 quy định cụ thể khi bảo vệ quyền lợi người thứ
ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu:
“Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô
hiệu
1.

Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản
không phải đăng kí quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác
cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ
trường hợp quy định tại Điều 257 của bộ luật này."
Ví dụ như: A là chủ sở hữu của chiếc Laptop Dell. A cho B mượn. B đem
bán cho C. Trong trường hợp này, C không biết chiếc Laptop là do B mượn của
A chứ B không phải là chủ sở hữu của chiếc Laptop đó. Thực tế, C không thể
biết được, C không có bất cứ căn cứ nào để biết được điều này và trường hợp
này pháp luật cũng không bắt buộc C phải biết. Như vậy, C là người chiếm hữu
ngay tình. Như vậy, quyền lợi của C được pháp luật bảo vệ, Theo quy định tại
khoản 1 Điều 138 BLDS thì giao dịch giữa B và C có hiệu lực, C có quyền
chiếm hữu chiếc Laptop đó.
2.

Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản


phải đăng kí quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho
người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp


người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao
dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản
do bản án, quyết định bị hủy, sửa.”
Điều 256. Quyền đòi lại tài sản
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm
hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình
phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật
này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu
ngay tình thì áp dụng Điều 257 và Điều 258 của Bộ luật này”
Khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Người chiếm hữu,
người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất
động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu,
trừ trường hợp tài sản đó thuộc hình thức sở hữu nhà nước. Tức là trường hợp
này người thứ ba ngay tình sẽ được bảo vệ
Ví dụ: ?
2.2.2. Quyền lợi của người thứ ba ngay tình đổi với tài sản giao dịch là động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu ( Điều 257)
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Dân sự, động sản là những
tài sản không phải là bất động sản. Có nghĩa tài sản này không là đất đai, nhà,
công trình xây dựng gắn liền với đất đai, các tài sản gắn liền với nhà, công trình
xây dựng, gắn liền với đất đai hoặc các một số tài sản theo quy định của pháp
luật là bất động sản. Việc sở hữu các động sản này không cần đăng ký theo thủ
tục nhất định tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Điểu 257 Bộ luật dân sự 2005 cũng đã quy định về quyền đòi lại động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình : “Chủ sở hữu


có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu
ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này
thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài
sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có
quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác
-

bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.”
Nếu động sản không có đăng kí là tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của
người đó và người thứ ba có được thông qua giao dịch có đền bù, như: qua mua
bán thì xét thấy những căn cứ sau: khi chủ sở hữu chuyển dịch tài sản cho người
thứ hai, thì giữa chủ sở hữu và người thứ hai có một giao dịch, cho nên chủ sở
hữu cần phải đề phòng những trường hợp người được chuyển giao tài sản không
trả lại tài sản, do đó phải áp dụng các biện pháp bảo đảm mà pháp luật cho phép
nhằm khống chế hành vi vi phạm của người được chuyển giao tài sản. Bên cạnh
đó, người thứ ba có nhu cầu sử dụng tài sản, cho nên họ đã mua hoăc đổi tài sản
để có tài sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc nhu cầu kinh doanh. Khi tham gia
giao dịch họ không biết tài sản sản đó không phải là của người thứ hai, cho nên
hành vi của họ là ngay tình. Pháp luật cần phải bảo vệ lợi ích của họ, cho phép
xác lập quyền sở hữu với tài sản đó, điều đó đồng nghĩa với việc chủ sở hữu
không được kiện đòi tài sản, bảo vệ người thứ ba ngay tình.
Ví dụ: A cho B mượn xe đạp rồi B đem bán cho C. Trong trường hợp này,
C không biết được đây không phải là xe của B vì C không có căn cứ để biết điều
này, C là người chiếm hữu ngay tình. Tuy nhiên, C có được chiếc xe đạp này

-


thông qua một giao dịch có đền bù, nên A không được kiện đòi tài sản
Nếu động sản không có đăng kí là tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm giữ
hợp pháp, không theo ý chí của người đó, mà người thứ ba – được xác định là
bên chiếm hữu ngay tình, có được tài sản này thông qua một giao dịch có đền bù
như mua, bán…
Ví dụ: Ví dụ: B ăn trộm Điện thoại Oppo của A rồi B đem bán cho C.
Trong trường hợp này, C không biết được đây không phải là điện thoại của B vì
C không có căn cứ để biết điều này, C là người chiếm hữu ngay tình. Tuy nhiên,
C có được chiếc điện thoại này thông qua một giao dịch có đền bù, nên nếu A


kiện đòi chiếc điện thoại thì pháp luật bắt buộc C phải trả lại cho A khi A kiện
đòi tài sản.
Trong trường hợp này, tuy người chiếm hữu thứ ba ngay tình vẫn phải trả
lại tài sản mà mình đang chiếm giữ cho chủ sở hữu đích thực của tài sản. Nhưng
pháp luật cũng bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ bằng cách cách thức sau:
- Được yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại (giá trị đòi bồi thường là giá trị
của giao dịch mà họ đã xác lập và các thiệt hại khác…) từ người đã trực tiếp
chuyển giao tài sản cho mình. Mục đích trong giao dịch đã xác lập không đạt
được (muốn sở hữu tài sản nhưng đã phải trả về cho chủ sở hữu) nhưng họ được
quyền đòi lại từ người đã trực tiếp xác lập giao dịch. Tuy nhiên, quy định này
chỉ có thể thi hành trên thực tế nếu thoả mãn điều kiện:
+ được người đã chuyển giao tài sản đó cho người thứ ba ngay tình.
+ Người phải bồi thường có khả năng tài chính và tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ.
- Được hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu đến thời điểm phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu.
- Được thanh toán những chi phí đã bỏ ra để làm tăng giá trị cho tài sản.
2.2.3. Quyền lợi của người thứ ba ngay tình đối với tài sản giao dịch là động

sản hoặc bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu ( Điều 258)
Điều 258 Bộ luật dân sự quy định: “Chủ sở hữu được quyền đòi lại động
sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba
chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch
với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do
bản án, quyết định bị hủy, sửa”.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 Bộ luật Dân sự:
“Bất động sản là các tài sản bao gồm:


a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền
với nhà, công trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.”
Động sản phải đăng ký quyền sở hữu là những tài sản không là đất đai,
nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, các tài sản gắn liền với nhà, công
trình xây dựng, gắn liền với đất đai hoặc các một số tài sản theo quy định của
pháp luật là bất động sản. Việc sở hữu các động sản này cần đăng ký theo thủ
tục nhất định tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, chủ sở hữu hoàn toàn có quyền đòi lại tài sản của người thứ ba
ngay tình nếu tài sản đó là động sản có đăng ký và bất động sản, tức là pháp luật
không bảo vệ lợi ích của người thứ ba ngay tình trong trường hợp này. Thực tiễn
giải quyết tranh chấp liên quan đến người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân
sự đối với động sản, hoặc bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu có gặp một
trường hợp là: Tài sản chung vợ chồng, nhưng giấy tờ (giấy chứng nhận quyền
sở hữu, quyền sử dụng) đứng tên một người và người đã đứng tên trong giấy
chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đã đem tài sản đó bán, chuyển nhượng
cho người thứ ba hoặc đem thế chấp, bảo lãnh. Khi tranh chấp xảy ra, tuyệt đại

đa số trường hợp hai vợ chồng đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu và
Tòa án xét xử đã chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện. Cũng có một số ít Tòa
án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng chỉ vô hiệu
một phần (phần của người vợ hoặc người chồng không tham gia giao dịch),
nhưng nếu có khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm thì bản án, quyết định đó bị
kháng nghị. Trừ trường hợp tuy một bên đứng ra bán, chuyển nhượng để phục
vụ nhu cầu cấp bách: chữa bệnh, hoặc sau khi bán bên kia biết mà không phản
đối thì Tòa án công nhận hợp đồng, bảo vệ người thứ ba ngay tình.


Nhưng cũng căn cứ theo quy định này thì trong hai trường hợp dưới đây
Chủ sở hữu không được quyền kiện đòi lại tài sản của mình từ người thứ ba
chiếm hữu ngay tình:
- Người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán
đấu giá.
Ví dụ: A mua được chiếc xe máy Wace RX thông qua bán đấu giá mà
chiếc xe máy này là tang vật của vụ án, lâu ngày không có người đến nhận nên
Tòa án quyết định xử lý thông qua bán đấu giá để xung vào ngân sách nhà nước.
Sau đó B phát hiện chiếc xe máy thuộc quyền sở hữu của mình nên đòi A trả lại.
Theo quy định tại điều này thì A không phải trả lại cho B chiếc xe máy.
- Người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua giao
dịch với người mà theo bản án xác nhận người này là chủ sở hữu nhưng sau đó
người này không phải là chủ sở hữu do Bản án bị hủy, sửa
Ví dụ: A là chủ sở hữu của 500m2 đất, mảnh đất này đã được UBND
huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2006, A chuyển nhượng
toàn bộ diện tích đất nói trên cho con trai ông là C. Đến năm 2007, ông B – là
anh ruột của ông A kiện ông A và yêu cầu ông A phải trả lại diện tích đất nói trên
cho ông. UBND huyện H xem xét và quyết định mảnh đất đó thuộc sở hữu của
ông B. Tuy nhiên, trong trường hợp này, C là người chiếm hữu ngay tình. C
tham gia giao dịch với ông A. Thời điểm đó, UBND huyện H đã xác định ông A

là chủ sở hữu của mảnh đất. Sau khi ông A thực hiện giao dịch 1 năm, UBND
huyện H mới xác nhận lại là ông A không phải là chủ sở hữu của mảnh đất đó. .
Theo quy định tại khoản 2 Điều 138 BLDS năm 2005, C vẫn có quyền chiếm
hữu đối với mảnh đất đó. Vì đây là do sai sót của UBND huyện H, C không thể
biết được việc chiếm hữu của cha mình là không có căn cứ pháp luật. Như vậy,
H vẫn có quyền chiếm hữu đối với mảnh đất 500m2 nói trên.


3.

Nhận xét về những qui định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi
của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu và giải pháp hoàn
thiện
3.1. Những điểm tiến bộ và hợp lý
Điều 257 (quy định về Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền
sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình) và 258 (Quyền đòi lại động sản phải đăng
ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình) BLDS năm
2005 điều chỉnh giao lưu dân sự phù hợp với cơ chế thị trường tạo thành hành
lang pháp lí cho các giao dịch dân sự phát triển ổn định, bảo vệ được quyền của
chủ sở hữu và lợi ích của người chiếm hữu ngay tình, mặt khác qui trách nhiệm
dân sự cho cơ quan nhà nước và tòa án nếu cán bộ công chức hoặc thẩm phán do
trình độ chuyên môn yếu hoặc do hành vi cố ý công nhận quyền sở hữu cho cá
nhân, tổ chức một cách trái pháp luật thì cơ quan nhà nước hoặc tòa án phải chịu
trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật. Chế định bảo vệ quyền sở hữu
trong BLDS 2005 đã có những quy định rất mềm dẻo và linh hoạt, đặc biệt đã
dành một thái độ tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình – một
điểm tiến bộ hơn hẳn so với quy định của BLDS 1995 trước đó. Chúng ta thấy
được sự hợp lí trong nội dung qui định tại điều 257: một mặt, bảo đảm tính ổn
định của giao dịch, mặt khác đã bảo vệ một cách hài hòa giữa lợi ích của chủ sở
hữu và lợi ích của người chiếm hữu ngay tình. Cách qui định của điều luật này

không có nghĩa là khuyến khích những hành vi trái pháp luật (chủ thể không có
quyền định đoạt tài sản) mà là nhằm bảo đảm sự ổn định của giao dịch, bảo vệ
hài hòa lợi ích của chủ sở hữu và người chiếm hữu ngay tình. Trong trường hợp
hợp đồng giữa người không có quyền định đoạt tài sản với người chiếm hữu
ngay tình là hợp đồng có đền bù thì cách giải quyết của điều 257 cũng hợp lí.
Nếu chủ sở hữu bị mất, bị lấy cắp tài sản thì chủ sỡ hữu có quyền đòi lại tài sản
đó từ người chiếm hữu ngay tình. Nhưng nếu chủ sở hữu cho thuê hoặc cho
mượn động sản mà bên thuê hoặc bên mượn động sản lại bán động sản đó cho
người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu không có quyền đó nữa.


3.2. Những điểm chưa hợp lý và phương hướng hoàn thiện.
Pháp luật cần đưa ra nhiều giải pháp hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tinh, theo đó không nên tuyệt đối hoá hoàn toàn quyền được
đòi tài sản của chủ sở hữu thì sẽ tất tạo ra tâm lý e dè, lo sợ của các chủ thể khi
quyết định thực hiện một giao dịch dân sự để xác lập quyền sở hữu đối với một
tài sản cụ thể. Và vô hình chung quy định này sẽ tạo ra một rào cản cho sự thúc
đẩy các giao lưu dân sự, thương mại phát triển và kìm hãm sự phát triển kinh tế
xã hội nói chung, đặc biệt trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường đang chuyển
mình hội nhập của nước ta hiện nay
Trong trường hợp chủ sở hữu đòi lại tài sản theo các điều kiện luật định
thì lúc này, người thứ ba ngay tình phải trả lại tài sản mà mình đang chiếm giữ
cho chủ sở hữu đích thực của tài sản và đồng thời họ cũng được quyền yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại từ người đã trực tiếp chuyển giao tài sản cho mình nếu
thoả mãn được hay điều kiện:
- Tìm được người đã chuyển giao tài sản đó cho người thứ ba ngay tình
- Người phải bồi thường có khả năng tài chính và tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ
Điều kiện thứ nhất là khó thực hiện được bởi vốn dĩ họ là người có động
cơ tham lam, không trong sáng nên sau khi thực hiện giao dịch xong, đạt được

lợi ích mong muốn họ thường tìm cách xoá mọi tin tức để tránh trách nhiệm sau
này. Điều kiện thứ 2 phụ thuộc vào điều kiện thứ nhất có tồn tại hay không và
cũng thường gặp những phức tạp như: người phải thi hành nghĩa vụ không có
tiền để bồi thường hoặc họ tìm cách biển thủ tài sản để chây lỳ không chịu thực
hiện nghĩa vụ. Do đó, người bị thiệt nhất vẫn là người thứ ba ngay tình, trong
trường hợp này pháp luật lại bỏ mặc. Pháp luật cần có những chế định về nghĩa
vụ của người chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình để bảo vệ tốt hơn
quyền lợi của người thứ ba ngay tình.


3.3. Những quy định về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
khi giao dịch dân sự vô hiệu trong Bộ luật dân sự ( sửa đổi)
Trong quan hệ dân sự, các bên đều được bảo vệ theo pháp luật. Thực tế có
nhiều tình huống tranh chấp giữa người sở hữu và người thứ ba nên Bộ luật dân
sự đã không ngừng hoàn thiện để góp phần giải quyết các tranh chấp mang tính
khả thi hơn. Vấn đề bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự được
quy định tại Điều 147 BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 đã bổ sung tương
đối đậm nét về việc bảo vệ người thứ ba chiếm hữu ngay tình trong các Điều
138, 256, 257 và 258. Theo quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự thì quyền lợi
của người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ trong hai trường hợp.
- Thứ nhất, khi giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động
sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch
khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp chủ sở hữu đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật.
- Thứ hai, khi người thứ ba ngay tình nhận được bất động sản hoặc động
sản phải đăng ký quyền sở hữu thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người
mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu
tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án,
quyết định bị hủy, sửa.
Tuy nhiên, quá trình thực thi cho thấy quy định hiện hành chưa bảo vệ

một cách triệt để quyền lợi của người thứ ba khi mà việc giao dịch của họ là
thiện chí, ngay tình và trong một số trường hợp chưa bảo đảm được tính ổn định
của các giao dịch dân sự. Đặc biệt là đối với các giao dịch dân sự mà đối tượng
giao dịch là tài sản đã được đăng ký quyền sở hữu và người thứ ba căn cứ vào
tình trạng đã đăng ký của tài sản để thực hiện việc giao dịch. Do vậy, dự thảo Bộ
luật Dân sự sửa đổi đã quy định chặt chẽ hơn, chi tiết hơn và theo hướng bảo vệ
tốt hơn quyền lợi của người thứ ba ngay tình có thiện chí. Theo đó, ngoài việc
giữ nguyên các quy định hiện hành, Dự thảo bổ sung thêm các vấn đề về bảo vệ
người thứ ba ngay quy định tại các Điều 148 và 187
Điều 148 quy định:


“1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là
tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao cho người thứ ba
ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp quy định tại Điều 187 của Bộ luật này.
2. Trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và
người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao
dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản
là đối tượng của giao dịch đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của
chủ sở hữu.
3. Trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu mà tài sản đó chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhưng đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba thì
giao dịch này bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài
sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó
người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa”.

Điều 187 quy định:
“Chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác có quyền đòi lại động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp
người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có
đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là
hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị
lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.
Dự thảo BLDS 2015 đã có những quy định cụ thể và ngày càng chặt chẽ
hơn về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình. Ngoài ra chúng ta có
thể nhận thấy dự thảo lần này nghiêng về bảo vệ người thứ ba ngay tình nhiều
hơn so với BLDS năm 2005, chẳng hạn tại Khoản 2 Điều 148 của Dự thảo
BLDS sửa đổi quy định “Trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài
sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác


cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực
hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba
biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch đã bị chiếm đoạt bất hợp
pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu” quy định này bảo vệ được quyền lợi của
người thứ ba ngay tình.
Bản thân em hoàn toàn tán thành việc nghiêng về phía người thứ ba ngay
tình trong dự thảo BLDS bởi “Người thứ ba ngay tình” là người hoàn toàn ngay
thẳng và có thiện chí khi giao dịch dân sự thế nhưng trong một số trường hợp
chủ thể xác lập giao dịch lại không đạt được lợi ích mà mình mong muốn nên họ
là những người xứng đáng được bảo vệ nhiều hơn. Quy định như dự thảo Bộ
luật góp phần bảo đảm tốt hơn, công bằng, hợp lý hơn quyền, lợi ích hợp pháp
của người thiện chí, ngay tình trong giao lưu dân sự, theo đó, nếu người thứ ba
ngay tình căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mà xác lập giao dịch thì người thứ ba ngay tình được bảo vệ.

Thế nhưng dự thảo BLDS sửa đổi cũng có một số vấn đề cần được bổ
sung và xem xét lại:
Thứ nhất, dự thảo luật cũng nên bổ sung thêm quy định nhằm hạn chế
quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu nếu người thứ ba ngay tình chiếm hữu tài
sản (không phải đăng ký quyền sở hữu) liên tục, công khai trong thời hạn mười
năm thì chủ sở hữu tài sản không được quyền đòi lại tài sản để thống nhất với
quy định về thời hiệu xác lập quyền sở hữu đối với động sản được quy định tại
Điều 178 của Dự thảo BLDS.
Thứ hai, tại Khoản 2 Điều 148 quy định “Trường hợp đối tượng của giao
dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao
dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác
lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường hợp
người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch đã bị
chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu”. Với quy định
này thì dự thảo cũng chưa làm rõ trường hợp nào người thứ ba: “phải biết tài
sản là đối tượng của giao dịch đã vị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí


của chủ sở hữu”. Ngoài ra, với quy định như vậy thì vô hình chung dự thảo đã
đặt nặng vấn đề chứng minh tính hợp pháp của tài sản đối với người thứ ba ngay
tình.
Thứ ba, tại Khoản 2 Điều 148 quy định “Trường hợp đối tượng của giao
dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao
bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc
đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô
hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của
giao dịch đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu” Với
cách quy định này thì giao dịch với người thứ ba dường như không cần đăng ký,

chỉ cần người thứ ba đã xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đã có hiệu lực.
Ví dụ: A bán xe cho B, xe đã được đăng ký quyền sở hữu sang tên cho B,
sau đó B bán cho C. B và C mới chỉ lập hợp đồng bằng giấy tay, chưa công
chứng hoặc đã công chứng nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng giữa
A và B bị tuyên vô hiệu do có hành vi lừa dối. Như vậy, trường hợp này C có
được bảo vệ hay không? Vì vậy dự thảo cần quy định rõ hơn “xác lập, thực
hiện” là như thế nào? Để hạn chế dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và từ đó
dễ phát sinh tranh chấp.
Kết thúc vấn đề
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng ta đã hiểu hơn về những quy
định của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
giao dịch dân sự vô hiệu. Nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc bảo
vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình vì họ là những người hoàn toàn ngay
thẳng và có thiện chí khi giao dịch dân sự thế nhưng trong một số trường hợp
họ xác lập giao dịch nhưng lại không đạt được lợi ích mà mình mong muốn nên
họ là những người xứng đáng được bảo vệ nhiều hơn. Bên cạnh đó, thấy được
những ưu điểm và những hạn chế còn tồn tại để rút ra nhiều bài học kinh nghiệm
cho việc áp luật Pháp luật trong công việc của bản thân trong tương lai.


Danh mục tài liệu tham khảo:
1.
Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật Dân Sự Việt Nam
( Tập 1)
2.
Bộ luật dân sự năm 2005, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia
3.
Hướng dẫn môn học Luật dân sự, TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Lê
4.
5.


Kim Giang.
Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ( tập 1)
/>
6.

w_Detail.aspx?ItemID=588
/>p_page_id=1&p_cateid=1751909&item_id=94814251&article_details=

7.

1
/>
8.
9.

thu-ba-ngay-tinh.html
/> />



×