Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

skkn tao hứng thú và day hoc theo chuỗi hoạt động với bài cấu trúc rẽ nhánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.02 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................2
1. Lý do lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm.............................................................2
2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm...............................................................3
PHẦN 2. PHẦN NỘI DUNG..............................................................................4
1. Cở sở lý thuyết..................................................................................................4
1.1. Bốn đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực.............................5
1.2. Thực trạng nội dung nghiên cứu....................................................................6
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.......................................................................6
2.1. Nội dung.........................................................................................................6
2.2. Phương pháp áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn.........................9
2.3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm............................................................10
PHẦN 3. PHẦN KẾT LUẬN............................................................................13
1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm..........................................13
2. Kiến nghị, đề xuất...........................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................15


PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm
Xã hội ngày càng hiện đại, việc giáo dục nói chung và công tác giảng dạy
nói riêng cần phải đổi mới để phù hợp với xu hướng của thời đại. Hiện nay,
thiên hướng học tập của học sinh có nhiều thay đổi. Các em muốn tự tìm tòi,
khám phá, không muốn áp đặt vào khuôn khổ lối học thụ động “đọc – chép” đã
được hình thành từ trước giờ. Vì thế, trong những năm gần đây, việc mở các lớp
bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên của Bộ và của các Sở
Giáo dục & Đào tạo về việc đổi mới phương pháp giảng dạy “Lấy học sinh làm
trung tâm”, khuyến khích học sinh tham gia một cách chủ động và tích cực
trong việc học của mình được tổ chức triển khai nhiều tại các địa phương.
Vì thế, nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên là cần xây dựng quá


trình dạy học như thế nào để giúp học sinh đạt được khả năng chủ động tư duy,
hình thành kĩ năng, chiếm lĩnh kiến thức.
Như chúng ta đã biết, việc dạy học theo chuỗi hoạt động chỉ mới được áp
dụng trong giảng dạy ở thời gian gần đây. Nó là yêu cầu cơ bản không thể thiếu
của cách dạy học theo mô hình “Trường học mới”. Hình thức dạy học này đã
được triển khai thí điểm và chính thức ở một số cấp học ở nhiều nơi trong cả
nước. Và vì đây là một yêu cầu đổi mới khá mới mẻ nên hầu hết giáo viên còn
gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tiếp cận và thực hiện. Bên cạnh đó, theo
đánh giá chủ quan của bản thân tôi thì việc dạy học theo chuỗi hoạt động khiến
cho giáo viên rất e dè khi thực hiện nó. Bởi nó đòi hỏi sự mày mò và đầu tư
không hề nhỏ. Cũng chính vì quá mới mẻ nên việc nghiên cứu dạy học theo
chuỗi hoạt động kích thích sự hứng thú tích cực của học sinh ở bậc Trung học
phổ thông còn rất hạn chế.
Ngoài ra, môn Tin học là một môn học đặc thù, dạy học Tin học thường
gồm có hai phần: Lý thuyết và thực hành, cả hai được kết hợp song song với
nhau trong quá trình dạy học, phần lý thuyết Tin học rất mới với đa số học sinh,
tiết học Lý thuyết thường rất khô khan, có nhiều khái niệm trừu tượng, thuật
toán phức tạp dẫn đến học sinh khó hiểu, khó hình dung nên tiết học lý thuyết
rất dễ bị nhàm chán, những học sinh không theo kịp sẽ bị hổng kiến thức liền.
Qua nhiều năm giảng dạy môn Tin học 11, tôi nhận thấy đa số học sinh
không mấy hứng thú với môn học này. Nội dung chương trình Tin học 11 cung
cấp cho học sinh các kiến thức cơ bản về lập trình và ngôn ngữ lập trình bậc cao.
Bên cạnh đó rèn luyện cho các em kỹ năng giải được một số bài toán đơn giản
trên máy tính bằng cách vận dụng được các kiến thức về thuật toán, cấu trúc dữ
liệu, ngôn ngữ lập trình cụ thể…thực tế cho thấy học sinh gặp nhiều khó khăn
2 |15


trong việc học tin học, đặc biệt là phần tin học khối 11. Học sinh thường không
mấy chú tâm vào học môn này. Nên việc tìm ra giải pháp để kích thích các em

học tập là một điều rất quan trọng.
Vì vậy, xuất phát từ thực tế nói trên và qua nhiều năm giảng dạy tại
trường THPT Đoàn Kết – Hai Bà Trưng và trường THPT Trần Phú – Hoàn
Kiếm. Tôi mạnh dạn chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh trong dạy học theo chuỗi hoạt động ở bài 9 Cấu trúc rẽ
nhánh” để nghiên cứu và áp dụng. Hy vọng rằng sáng kiến này sẽ góp một phần
nhỏ nâng cao hiệu quả giảng dạy của bản thân cũng như giúp ích phần nào trong
việc cung cấp tài liệu tham khảo cho các đồng nghiệp.
2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Thời gian qua tiếp cận với việc dạy học theo chuỗi hoạt động, tôi nhận
thấy rất hay. Trong mỗi bài học, theo logic của quá trình nhận thức, thông
thường người học phải trải qua các hoạt động: khởi động nêu vấn đề; hình thành
kiến thức bài học; hệ thống hóa kiến thức và luyện tập; vận dụng kiến thức vào
thực tiễn và tìm tòi mở rộng. Nhưng cũng tùy vào thực tế, không phải lúc nào
cũng cứng nhắc áp dụng luôn 5 bước hoạt động này. Tùy vào từng bài và cách
thức truyền đạt của giáo viên ta cũng có thể được rút gọn lại thành 4 bước: khởi
động nêu vấn đề; hình thành kiến thức; luyện tập, vận dụng; tìm tòi, mở rộng
hay là còn 3 bước trong những tiết bài tập rèn luyện hay thực hành: khởi động
nêu vấn đề; luyện tập, vận dụng; tìm tòi, mở rộng.
Cùng với những kinh nghiệm được đúc rút từ bản thân qua quá trình
giảng dạy ở trường phổ thông, trong sáng kiến này tôi có đưa ra các bước xây
dựng một tiến trình dạy học theo chuỗi hoạt động cụ thể, khoa học gắn liền với
nội dung, đặc trưng của bài học, môn học; kết hợp với các kĩ thuật lên lớp để
gây hứng thú cho học sinh, xây dựng một tiết học sôi nổi, phát huy tối đa tính
tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin làm việc theo nhóm trong học sinh.
Và tiến trình này được mô phỏng trực tiếp trên 2 tiết dạy của bài số 9.
Bước đầu kiến tạo một cấu trúc soạn giảng theo mô hình trường học mới, góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn Tin học ở trường phổ
thông.
Đối tượng cụ thể mà sáng kiến hướng đến đó là học sinh khối học phổ

thông và áp dụng trực tiếp trên bài 9 Cấu trúc rẽ nhánh của chương trình Tin học
11, triển khai dạy thực nghiệm trên các lớp 11A4, lớp 11A5, 11A6 trường THPT
Đoàn Kết – Hai Bà Trưng và lớp 11D5 trường THPT Trần Phú – Hoàn Kiếm.

3 |15


PHẦN 2. PHẦN NỘI DUNG
1. Cở sở lý thuyết
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển năng lực của
học sinh. Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ
chú ý tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng
lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp,
đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường
việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV – HS theo hướng cộng tác có ý
nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những
tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ
đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Những định hướng chung, tổng quát về đổi mới phương pháp dạy học các môn
học thuộc chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là:
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát
triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông
tin,...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư
duy.
Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc
thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào
cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ
nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của GV”.
Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học.
Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình

thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài
lớp... Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo
yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng
cao hứng thú cho người học.
Như vậy để thực hiện việc soạn giảng theo định hướng phát triển năng lực học
sinh về bản chất là :
+ Chuyển hoạt động dạy của giáo viên sang hoạt động học của học sinh. Dạy
học cá thể hóa học sinh để học sinh được phát huy hết khả năng của mình. Khả
năng của học sinh chỉ được bộc lộ thông qua các hoạt động học tập và trải
nghiệm.
+ Chuyển dần quy mô lớp học sang quy mô nhóm để tích cực hóa hoạc sinh và
tăng khả năng tương tác hỗ trợ giúp đỡ nhau trong tiếp thu chiếm lĩnh kiến thức
(tùy theo đặc điểm tình hình mà tổ chức các nhóm cho phù hợp (nhóm đôi,
nhóm 4, nhóm 6, nhóm 8).
4 |15


+ Hoạt động của học sinh chuyển từ việc thụ động nghe thầy cô giảng bài để ghi
chép sang việc chủ động làm việc với sách, tham gia các hoạt động dưới sự tổ
chức của giáo viên để chiếm lĩnh kiến thức.
Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã qui định.
Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung
học và phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng công nghệ thông tin
trong dạy học.
1.1. Bốn đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực
1. Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh
Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp
HS tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những
tri thức được sắp đặt sẵn. Theo tinh thần này, giáo viên không cung cấp, áp đặt
kiến thức có sẵn mà là người tổ chức và chỉ đạo HS tiến hành các hoạt động học

tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến
thức đã biết vào các tình huống học tập[1] hoặc tình huống thực tiễn,...
2. Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Chú trọng rèn luyện cho HS những tri thức phương pháp để họ biết
cách đọc sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến
thức đã có, biết cách suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới,... Các tri
thức phương pháp thường là những quy tắc, quy trình, phương thức hành động,
tuy nhiên cũng cần coi trọng cả các phương pháp có tính chất dự đoán, giả định
(ví dụ: phương pháp giải bài tập vật lí, các bước cân bằng phương trình phản
ứng hóa học, phương pháp giải bài tập toán học,...). Cần rèn luyện cho HS các
thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự,
quy lạ về quen... để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo của họ.
3. Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác
Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương
châm “tạo điều kiện cho HS nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều
hơn”. Điều đó có nghĩa, mỗi HS vừa cố gắng tự lực một cách độc lập, vừa hợp
tác chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới.
Lớp học trở thành môi trường giao tiếp thầy – trò và trò – trò nhằm vận dụng sự
hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các
nhiệm vụ học tập chung.
4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến
trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng
phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của HS với nhiều hình thức
như theo
5 |15


1.2. Thực trạng nội dung nghiên cứu
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được đặt ra đối với tất cả các cấp

học trong hệ thống giáo dục. Đặc biệt, khi chúng ta tiến hành đổi mới chương
trình và sách giáo khoa thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học sẽ trở thành
một yêu cầu cấp thiết. Phong trào đổi mới phương pháp dạy học đã diễn ra rộng
khắp trong ngành giáo dục toàn quốc. Tuy nhiên việc đổi mới phương pháp dạy
học theo mô hình trường học mới, soạn – giảng theo chuỗi hoạt động chưa được
thực hiện một cách đồng bộ ở các trường học, cấp học, các vùng miền trong cả
nước. Nhiều giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ trong cách soạn – giảng theo chuỗi hoạt
động này. Thiết nghĩ phương pháp dạy học thì có rất nhiều, nhưng làm thế nào
kết hợp nhuần nhuyễn, thích hợp với từng đối tượng để thiết kế ra một tiết dạy
trong khoảng thời gian 45 phút lên lớp, giáo viên có thể khiến cho học sinh luôn
chú tâm, thực hiện các yêu cầu đưa ra, thảo luận hoạt động tích cực để hoàn
thành mục tiêu đề ra của bài thì đó là cả một nghệ thuật của người giáo viên.
Một số giáo viên còn chưa thấy hết tầm quan trọng của việc rèn luyện cho
học sinh phương pháp tự học và học theo nhóm. Vì vậy có những bài tập có liên
quan đến kiến thức họ còn làm thay cho học sinh vì sợ học sinh không hiểu bài.
Dẫn đến không rèn được cho học sinh thói quen tự học và học theo nhóm, các
em luôn có thói quen chờ đợi, không tự mình suy nghĩ, tìm tòi để phát hiện ra
kiến thức mới.
Một số giáo viên triển khai hoạt động nhóm trong học sinh chưa được
hiệu quả hoặc triển khai tạo nhóm sai cách, như tạo nhóm mà không có các yêu
cầu để thực hiện thảo luận trong nhóm với nhau. Một số nhóm trưởng chưa
mạnh dạn tự tin để lãnh đạo nhóm mình hoạt động. Một số học sinh trong nhóm
còn ỷ lại các bạn cùng nhóm, không tích cực trong hoạt động nhóm.
Thực tế, đa số các em học sinh đều sợ chương trình Tin học 11 do kiến
thức khô khan, câu lệnh dài yêu cầu chính xác đến từng ký tự, thuật toán phức
tạp. Nếu không tạo hứng thú học tập cho học sinh thì dễ dẫn đến chán nản và
học sinh sẽ bị mất gốc.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Nội dung
Để chuẩn bị tốt cho việc dạy học theo chuỗi hoạt, giáo viên cần có rất

nhiều việc cần làm, như: Nghiên cứu các phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy
học, phần mềm hỗ trợ dạy học mới; xây dựng tiến trình dạy học chi tiết cho từng
tiết; chuẩn bị 7 máy tính cá nhân có cài sẵn phần mềm Netop school, Pascal.
6 |15


Để có được tiết dạy hiệu quả, người giáo viên phải xây dựng một tiến
trình dạy học thích hợp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tiến trình đó sẽ
được triển khai qua từng phần cụ thể như sau:
Phần 1. Khâu chuẩn bị
Khâu chuẩn bị này rất quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình dạy
học của tiết thực hành.
1. Về giáo viên: Ngoài việc lên trước kiểm tra mọi điều kiện về cơ sở vật
chất phù hợp, đầy đủ cho học sinh; thì khâu chuyển giao nhiệm vụ cụ thể, rõ
ràng cho học sinh là rất quan trọng, từ khâu phân nhóm học tập, đến chuẩn bị
trước một số nội dung tùy thuộc vào từng yêu cầu cụ thể của bài học.
2. Về học sinh: Sau khi nhận nhiệm vụ từ giáo viên đưa ra, học sinh sẽ phân
nhóm học tập theo yêu cầu của giáo viên. Thực hiện việc chuẩn bị một số nội
dung cần thiết cho tiết học.
Thực tế cho thấy, khi học theo nhóm các em được chia sẻ ý kiến cho nhau,
được hỗ trợ giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ nhằm phát triển năng lực và phẩm
chất, hoàn thiện bản thân trong quá trình học tập. Để tạo một nhóm hoạt động và
thực hiện các yêu cầu hiệu quả, giáo viên cần chú ý một số đặc điểm sau:
+ Số lượng học sinh: từ 7-8 em (gồm ít nhất 1 máy tính cá nhân). Luân phiên
chỉ định nhóm trưởng và thành viên trong nhóm báo cáo kết quả hoạt động
nhóm một cách linh hoạt phù hợp trong các hoạt động của từng bài học.
+ Vị trí chỗ ngồi trong nhóm: Chia lớp thành 2 dãy, mỗi dãy gồm 3 nhóm.
+ Đưa ra các yêu cầu cho nhóm: việc chuyển giao nhiệm vụ của giáo viên
cũng rất quan trọng. Khi đã tạo nhóm học tập giáo viên cần đưa ra các nhiệm vụ
cho nhóm có sự thảo luận và dành thời gian thảo luận trong nhóm cho các học

sinh. Tránh việc tạo nhóm mà cá nhân học sinh chỉ trình bày, thuyết trình về yêu
cầu nào đó mà không cần thảo luận nhóm.
Ngoài ra, khi chia nhóm, cũng cần tránh: học sinh trong 1 nhóm bị bỏ rơi
khi thảo luận hoặc không có cơ hội trình bày ý kiến của mình khi thảo luận.
Thực tế, tùy vào từng đặc điểm của tiết học và tùy vào mục đích sử dụng
nhóm của giáo viên. Ta có thể phân nhóm theo năng lực, nghĩa là có nhóm khá,
giỏi, nhóm trung bình, nhóm yếu; hoặc là phân nhóm cân bằng, tức là giáo viên
sẽ chỉ định một số học sinh khá, giỏi kèm theo các học sinh yếu kém lập thành
một nhóm, nhằm mục đích hỗ trợ, giúp đỡ bạn hoàn thành nhiệm vụ. Dù cho
phân nhóm như thế nào, thì giáo viên cũng cần phải kiểm tra mức độ tiếp cận
của từng học sinh đối với kiến thức bài học như thế nào.
Phần 2. Hoạt động lên lớp
Khi xây dựng các hoạt động lên lớp, giáo viên cần chú ý một số đặc điểm
sau:
Thứ nhất, kỹ thuật ghi bảng giáo viên:
7 |15


Bảng là một thiết bị rất hữu hiệu, gần gũi, thiết thực của lớp học trong quá
trình dạy học, hỗ trợ giáo viên và học sinh trong quá trình học tập ở mọi nơi mọi
chỗ. Theo tôi, ghi bảng khi thấy cần thiết như nội dung hoạt động chung cả lớp,
tên bài học, các nhiệm vụ chuyển giao cho học sinh, các ý kiến của học sinh
(nếu cần thiết) và hệ thống hóa kiến thức. Hoặc là dành ra một góc bảng để làm
góc ghi chú trong các tiết dạy.
Thứ hai, tổ chức hoạt động khởi động, nêu vấn đề:
Hoạt động này cần tạo ra những tình huống, những vấn đề ở đó người học
cần được huy động tất cả các kiến thức hiện có, những kinh nghiệm, vốn sống
của mình để cố gắng nhìn nhận và giải quyết theo cách riêng của mình và cảm
thấy thiếu hụt kiến thức, thông tin để giải quyết. Để tạo ra tình huống xuất phát
hay, hiệu quả là cả một nghệ thuật của người giáo viên.

Theo tôi, giáo viên cần: nêu vấn đề tìm hiểu của bài học khi khởi động
gắn liền với hoạt động tiếp nối là hình thành kiến thức mà đã có trong tài liệu,
sách giáo khoa của bài học; coi hoạt động là một hoạt động học tập, có mục
đích, thời gian hoạt động và sản phẩm hoạt động; bố trí thời gian thích hợp cho
các em học tập, bày tỏ quan điểm cũng như sản phẩm của hoạt động. Còn trong
các tiết thực hành thì phần khởi động này chính là bước kích thích học sinh, đưa
ra các bài tập cụ thể để học sinh hứng thú thảo luận, giải quyết các yêu cầu của
giáo viên. Và giáo viên cũng nên tránh: lựa chọn các tình huống khởi động
không đắt giá dẫn đến các em có thể trả lời được một cách dễ dàng với các câu
hỏi đặt vấn đề đơn giản; thời gian cho hoạt động này quá ít, chưa cho các em suy
nghĩ, bày tỏ ý kiến của mình; cố gắng giảng giải, chốt kiến thức ở ngay hoạt
động này…
Thứ ba, hệ thống hóa kiến thức bài học:
Khâu quan trọng trong bài học là hệ thống hóa kiến thức được hình thành
trong bài học. Thông thường giáo viên tổ chức hoạt động này trong mục “Hình
thành kiến thức” hoặc “Luyện tập”.
Để tổ chức hệ thống hóa bài học, giáo viên nên: thảo luận chung với toàn
lớp về những kiến thức mới được hình thành ở chuỗi hoạt động thứ hai với
những vấn đề mà các em phát hiện ra ban đầu ở hoạt động “khời động”. Trên cơ
sở đó giáo viên có những nhận xét đánh giá kết quả hoạt động của các nhóm,
hoặc từng cá nhân học sinh. Đây chính là thời điểm hay nhất để giúp giáo viên
có sự nhìn nhận, đánh giá, rút kinh nghiệm từ việc tổ chức hoạt động của mình.
Giáo viên phải là trọng tài, giám khảo để chốt lại kiến thức, giúp các em nhận
thức ra chân lý. Nếu các em còn gặp khó khăn cần sử dụng các kĩ thuật hoặc
phương pháp để trợ giúp các em, thậm chí cần giảng giải đưa ra những minh
8 |15


chứng thực tiễn về vấn đề đó, hoặc tiếp tục cho các em nghiên cứu tìm hiểu ở
ngoài lớp học,…

Thứ tư, kết thúc bài học và hướng dẫn giao nhiệm vụ về nhà:
Trong giờ dạy, người giáo viên cần chủ động kết thúc và giao nhiệm vụ về
nhà cho học sinh, dù cho có thể lúc đó công việc trên lớp vẫn còn dang dở.
Thông thường ít nhất 3 đến 5 phút trước khi kết thúc tiết dạy. Vấn đề đặt ra là
cần xử lí tình huống sư phạm như thế nào cho từng nhóm, từng em ở trong lớp.
Giáo viên cần căn cứ kết quả và tiến độ hoạt động của từng nhóm học sinh để
giao việc về nhà cho học sinh. Việc học tập ở nhà có thể hướng dẫn như sau:
+ Đối với các nhóm hoạt động còn dang dở: tiếp tục về nhà nghiên cứu, tìm
hiểu vấn đề chưa xong trên lớp, gợi ý các em thực hiện ở nhà… và vận dụng vào
thực tiễn. Yêu cầu các em báo cáo kết quả thực hiện ở nhà thông qua các sản
phẩm học tập.
+ Đối với các nhóm đã thực hiện xong: cần giao nhiệm vụ cho các em tiếp
tục vận dụng thực tiễn, đề xuất các phương án khác đã có trong bài học. Yêu cầu
các em báo cáo kết quả thực hiện ở nhà thông qua các sản phẩm học tập.
Không nên giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh bằng những câu hỏi, bài
tập có tính chất học thuộc lòng máy móc, mà nên lựa chọn những tình huống,
nhiệm vụ học tập bổ ích liên quan đến thực tiễn đòi hỏi các em phải hợp tác với
cộng đồng để tìm tòi, khám phá.
Thứ năm, theo dõi học sinh đánh giá quá trình học tập:
Theo dõi đánh giá học sinh trong quá trình học tập là một trong những
khâu quan trọng trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người học. Ở đây,
giáo viên quan sát các hành động, cử chỉ, hành vi, tác phong của các em trong
quá trình học ở lớp. Căn cứ vào sản phẩm học tập và thái độ học tập, giáo viên
đánh giá được sự tiến bộ của học sinh, đánh giá được khả năng vận dụng giải
quyết tình huống vào thực tiễn.
Để theo dõi đánh giá quá trình học tập của học sinh, giáo viên cần:
+ Có sổ theo dõi quá trình học tập, ở đó ghi những lưu ý về khả năng phát
triển cũng như các hạn chế của từng em trong quá trình học tập.
+ Theo dõi đánh giá khả năng nhận thức, thái độ học tập thông qua hoạt
động học, như: tiếp nhận nhiệm vụ, tự học cá nhân, trao đổi thảo luận, tư duy

sáng tạo học tập và trình bày sản phẩm học tập, các kĩ năng thao tác thực hành…
+ Giáo viên nên chuẩn bị các tiêu chí đánh giá, phân tích hướng dẫn cho học
sinh cách tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau.
+ Thường xuyên tổ chức cho học sinh tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau thông
qua tổ chức trò chơi học tập, đánh giá sản phẩm học tập.
9 |15


Bên cạnh đó giáo viên cần phát hiện những điểm yếu kém của học sinh,
động viên khích lệ sự cố gắng, nổ lực tiến bộ của học sinh so với bản thân các
em. Đa dạng hóa các hình thức và phương pháp đánh giá…
2.2. Phương pháp áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn
Từ ý tưởng thiết kế tiến trình dạy học như trên, tôi đã xây dựng tiến trình
tổ chức hoạt động một tiết học thực hành tại phòng thực hành bộ môn Tin học
theo chuỗi hoạt động dưới dạng một giáo án (nằm ở phần Phụ lục), áp dụng cụ
thể trên nội dung bài 9 Cấu trúc rẽ nhánh, chương trình Tin học 11.
Và với ý tưởng ban đầu mong muốn kích thích sự hứng thú và khai thác
khả năng học tập theo nhóm, cũng như khai thác kĩ năng thực hành triệt để của
các em thông qua các chuỗi hoạt động trong tiết học. Trong bài 9, tôi muốn giúp
học sinh hiểu rõ hơn về cấu trúc rẽ nhánh, câu lệnh If then, vì thế một số hoạt
động sẽ dành số thời gian tương đối trong tiết để từng nhóm học sinh thảo luận
phân tích kĩ yêu cầu bài toán, kích thích khả năng tư duy của các em, sau đó mới
tiến hành cho các em thực hành trên máy tính cá nhân.
Nhằm muốn các em có sự ganh đua, cố gắng hoàn thành một cách nhanh
nhất các yêu cầu theo nhóm, giáo viên cần 1 học sinh hỗ trợ cho mình để thực
hiện một số nhiệm vụ, như: phát phiếu học tập; ghi nhận các nhóm hoàn thành
yêu cầu của giáo viên trước thời gian cho phép; tính điểm cho các nhóm qua
từng hoạt động, điểm tối đa từng hoạt động là 10 điểm, điểm sẽ được ghi công
khai trên bảng (góc bảng).
Để tạo hứng thú khi học bài 9 Cấu trúc rẽ nhánh, giáo viên sẽ chuyển giao

nhiệm vụ học tập cho học sinh từ tiết trước, nội dung như sau:
- Tạo nhóm học tập: chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm 7-8 học sinh.
- Mỗi nhóm chuẩn bị bảng phụ, bút dạ và máy tính cá nhân (nếu có).
- Giáo viên chọn ra 1 học sinh (thông thường là lớp trưởng – học sinh khá
giỏi trong lớp) làm người hỗ trợ cho giáo viên, ngoài việc tham gia vào hoạt
động cùng nhóm mình sẽ hỗ trợ cho giáo viên nội dung sau: phát, thu và dán
bảng phụ; ghi nhận các nhóm hoàn thành yêu cầu của giáo viên; tính điểm cho
các nhóm qua từng hoạt động, ghi điểm công khai vào 1 góc trên bảng.
- Giáo án minh họa tiến trình dạy học sẽ nằm ở phần phụ lục của sáng kiến.
2.3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Quá trình dạy học, cách chuyển giao nhiệm vụ, phương pháp truyền đạt
qua từng chuỗi hoạt động logic đã kích thích các em thực hiện các chuỗi hoạt
động giáo viên đưa ra. Việc lập nhóm hoạt động thực hiện nhiệm vụ của giáo
viên được các em tham gia thảo luận tích cực, chủ động tìm tòi kiến thức để
hoàn thành yêu cầu đặt ra. Khách quan mà nói, nếu chỉ xét một khía cạnh nào đó
10 |15


thì việc dạy học theo chuỗi hoạt động không thể quyết định hoàn toàn kết quả
học tập của học sinh, nhưng cũng không thể phủ nhận sự đóng góp to lớn của
nó.
* Về phía học sinh
Trong năm học vừa qua, tôi đã thực nghiệm giảng dạy theo chuỗi hoạt
động ở một số tiết học trên một số lớp. Đơn cử như lớp 11A4, 11A5, 11A6 và
lớp 11D5 (trường Trần Phú) . Tôi đã tiến hành lấy ý kiến phản hồi của học sinh
sau khi tham gia các tiết học được thiết kế theo chuỗi hoạt động nhằm đánh giá
hiệu quả trong quá trình dạy học. Cụ thể, tôi đã khảo sát hai lớp 11A4, 11A5,
11A6 và 11D5 (trường Trần Phú) với tổng số học sinh là 134. Kết quả như sau:
 Kết quả đánh giá mô hình dạy học của GV giữa 2 nhóm lớp:
a. Kết quả ở nhóm 1 (được dạy học theo mô hình lớp học truyền thống)

Lớp
11D10 (Sĩ số:45)
11D9 (Sĩ số: 43)
SL
%
SL
%
Rất hài lòng
8
17,8
6
14
Hài lòng
12
26,7
14
32,6
Bình thường
15
33,3
15
34,8
Không hài lòng
10
22,2
8
18,6
Rất không hài lòng 0
0
0

0
b. Kết quả ở nhóm 2 (được dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược)
Lớp
11A4
11A5
11A6
(Sĩ số:44)
(Sĩ số: 45)
(Sĩ số: 45)
SL
%
SL
%
SL
%
Rất hài lòng
23
52.3 22
48,9
20
44,4
Hài lòng
18
40.9 20
44,4
21
46,7
Bình thường
3
6,8

3
6,7
4
8,9
Không hài lòng
0
0
0
0
0
0
Rất không hài lòng 0
0
0
0
0
0

Kết quả đánh giá chất lượng học tập của HS giữa 2 nhóm lớp
a. Kết quả ở nhóm 1 (được dạy học theo mô hình lớp học truyền thống)
Lớp
11D10
11D9
(Sĩ số:45)
(Sĩ số: 43)
SL
%
SL
%
Giỏi

12
26,
10
46,5
7
Khá
15
33,
13
30,2
3
TB
18
40
20
46,5
11 |15


Yếu
Kém

0
0

0
0

0
0


0
0

b. Kết quả ở nhóm 2 (được dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược)
Lớp
11A4
(Sĩ 11A5(Sĩ số: 45) Lớp 11A6 (Sĩ số:45)
số:44)
SL
%
SL
%
SL
%
Giỏi
18
40,9
20
44,4
21
46,7
Khá
22
50
20
44,4
22
48,9
TB

4
9,1
5
11.1
2
4,7
Yếu
0
0
0
0
0
0
Kém
0
0
0
0
0
0
Dựa vào các bảng thống kê, ta thấy đa số học sinh tiếp thu kiến thức tốt,
được khắc sâu lượng kiến thức sau khi học các tiết học áp dụng phương pháp
này. Bên cạnh đó, hầu hết các em cho rằng giờ học sinh động, hấp dẫn, kích
thích học sinh chủ động, tích cực, hứng thú trong các hoạt động học tập.
Qua việc áp dụng phương pháp dạy học theo chuỗi hoạt động trên các
khối lớp ở trường THPT Đoàn Kết – Hai Bà Trưng và THPT Trần Phú – Hoàn
Kiếm nói chung và đặc biệt là trên khối 11 nói riêng. Những lớp mà tôi dạy bằng
nhiều phương pháp thu thập dữ liệu khác nhau, tôi đã nhận được kết quả đáng
khích lệ. Khi khảo sát bằng cách quan sát trực quan hay qua phiếu điều tra thì tôi
thấy hầu hết các em học sinh đều có những phản ứng tích cực với phương pháp

dạy học mới này. Ngoài ra, khi quan sát quá trình học tập của các em, tôi thấy
rằng khả năng học tập của các em có bước tiến bộ dần bởi các em được hiểu vấn
đề một cách thấu đáo.
Ngay từ phần khởi động vào bài, đã kích thích các em tìm tòi, nghiên cứu
để tiếp nhận kiến thức. Học sinh cảm thấy hứng thú học tập hơn, việc tiếp thu
bài của học sinh có tiến bộ hơn. Không còn tình trạng nhàm chán khi học môn
Tin học 11, học sinh trở nên thích học hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều
hơn. Trong tiết dạy, tôi luôn cố gắng áp dụng phương pháp dạy học mới ấy cùng
với phong cách dạy học của bản thân kết hợp một cách hài hòa nhất để tạo ra
không khí thoải mái nhất, hiệu quả nhất cho học sinh.
* Về phía giáo viên

12 |15


Thời gian đầu, do vừa dạy, vừa tìm tòi nên tôi gặp không ít khó khăn, nhất
là khâu soạn giáo án. Đây là khâu mất rất nhiều thời gian. Nhưng càng về sau,
do tích lũy được nhiều kinh nghiệm nên tôi đã bắt đầu quen dần, việc soạn giáo
án trở nên nhẹ nhàng, nhanh chóng theo các chuỗi hoạt động đã thiết kế sẵn.
Bên cạnh đó, dựa vào những kinh nghiệm giảng dạy qua nhiều năm, tiếp xúc với
nhiều đối tượng học sinh, tôi cũng đã cố gắng tìm ra nhiều phương pháp triển
khai trong quá trình hoạt động học tập trên lớp, nhằm tạo sự hứng thú trong học
sinh, giúp các em tăng tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong mọi hoạt động, rèn
giũa các em học tập theo nhóm, tăng tính tự tin, khả năng trình bày lưu loát khi
đứng trước đám đông. Và tôi đã rất phấn khởi vì hầu hết học sinh khá thích thú
với phương pháp giảng dạy mà tôi đã đưa ra.
Giáo án này tôi đã sử dụng để đi thi giáo viên dạy giỏi môn Tin học cấp
Cụm Hoàn Kiếm – Hai Bà Trưng vào ngày 3,4/12/2019 và đã đạt giải Nhất.
Những điều kể trên chính là động lực lớn lao để tôi tiếp tục giảng dạy, tìm
tòi nghiên cứu và tiếp tục hoàn thiện, áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực

tiễn để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục cho nhà trường.
PHẦN 3. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua một năm tiếp cận và áp dụng phương pháp dạy học theo chuỗi hoạt
động nhằm phát huy tính cực, khả năng sáng tạo của học sinh nói trên, bản thân
tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông
là rất cần thiết. Qua quá trình thực hiện đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Giáo
viên sử dụng linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học nên đã phát huy
được tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi,
khám phá kiến thức trong học sinh. Học sinh luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm
lĩnh tri thức, hình thành năng lực tự học, năng lực sáng tạo. Các em phát triển tốt
các kỹ năng sống như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, tạo một môi trường
học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái. Chất lượng học tập ngày càng nâng cao.
Với sáng kiến kinh nghiệm“Phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong dạy học theo chuỗi hoạt động ở bài 9 Cấu trúc rẽ nhánh” này, tôi
mong đây sẽ là một đề tài nghiên cứu đi vào thực tiễn và phục vụ hiệu quả công
tác giảng dạy của mình cũng như của các đồng nghiệp ở khối trung học phổ
thông. Vì đây là một đề tài mới nên nó gây ra một số khó khăn nhất định cho
người nghiên cứu. Theo tôi, về các chuỗi hoạt động, chúng ta tuân thủ theo tinh
thần của các công văn hướng dẫn, về phần nội dung của từng hoạt động thì mỗi
13 |15


giáo viên nên tự nghiên cứu, thiết kế theo kinh nghiệm và năng lực bản thân sao
cho phù hợp với đối tượng học sinh tại đơn vị mình.
Trong quá trình nghiên cứu và viết sáng kiến này, chắc chắn tôi còn mắc
một số hạn chế nhất định. Chính vì vậy, sự đóng góp quý báu của quý đồng
nghiệp sẽ giúp tôi rất nhiều trong việc điều chỉnh, hoàn thiện đề tài tốt hơn.
2. Kiến nghị, đề xuất
* Với các cấp quản lý giáo dục:

- Cần nhân rộng hơn nữa và áp dụng thực hiện dạy học theo chuỗi hoạt động
trong các trường trung học phổ thông.
- Cần tổ chức sinh hoạt chuyên môn cấp cụm trường với các trường khác để
tạo mối quan hệ chia sẻ, học tập lẫn nhau.
- Cần xây dựng mạng Wifi để cho học sinh truy cập khi tham gia các trò chơi
qua mạng, hơn phù hợp với thời đại công nghệ số ngày nay.
* Với các giáo viên đồng nghiệp:
- Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện đề tài này để góp phần mang lại hiệu quả
giảng dạy.
- Giáo viên cần tăng cường trao đổi chuyên môn, học hỏi kinh nghiệm. Soạn
giảng, thiết kế tiến trình lên lớp cần chú ý đến đối tượng học sinh, lấy học sinh
làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động,hợp tác của học sinh trong mọi
hoạt động thực hiện nhiệm vụ học tập. Rèn dũa các em tự tin trong việc trình
bày, trao đổi ý kiến, quan điểm cá nhân trong các hoạt động nhóm.
- Cần xây dựng tốt một lớp học thân thiện, học sinh tích cực.
Trên đây là những kết luận sơ lược được rút ra từ thực tế giảng dạy. Do
khuôn khổ hẹp của đề tài, đây mới chỉ là bước đầu, chắc hẳn phần nội dung vẫn
còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự chia sẻ, đóng góp của
các thầy cô giáo đồng nghiệp để rút kinh nghiệm và hoàn thiện hơn để tôi đạt kết
quả tốt hơn trong công tác giảng dạy của những năm học tới.
Tôi xin chân thành đón nhận, lắng nghe và mong được sự chia sẻ, đóng góp
xây dựng từ các đồng nghiệp để nâng cao chuyên môn, vững vàng hơn trong
công tác giảng dạy.

14 |15


XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là đề tài của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Trần Thị Huyền

15 |15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Tin học 11”, “Sách GV Tin học 11”, “Bài tập tin học 11”, Hồ Sĩ Đàm

(chủ biên), Hồ Cẩm Hà, Trần Đỗ Hùng, Nguyễn Xuân My, Nguyễn Đức
Nghĩa, Nguyễn Thanh Tùng, Ngô Ánh Tuyết (2007), NXB Giáo dục, Hà
Nội.
2. Hướng dẫn dạy học môn Tin học trung học phổ thông theo chương trình
giáo dục phổ thông mới, Hồ Cẩm Hà, Nguyễn Chí Trung, Trần Thiên
Thành, NXB ĐẠI HỌC SƯ PHẠM.
3. Hướng dẫn dạy học môn tin học trung học có sở theo chương trình giáo
dục phổ thông mới. Hồ Cẩm Hà, Nguyễn Thế Lộc, Lê Viết Chung, Vũ
Thái Giang, Trần Thiên Thành, NXB ĐẠI HỌC SƯ PHẠM.
4. Tài liệu tập huấn: Phương pháp và kĩ thuật tổ chức hoạt động học theo
nhóm và hướng dẫn học sinh tự học môn Tin học.
5. Hướng dẫn dạy học môn tin học trung học phổ thông theo chương trình
giáo dục phổ thông mới. Hồ Cẩm Hà, Nguyễn Chí Trung, Trần Thiên
Thành – Nhà xuất bản đại học sư phạm.
6. Bài tập ngôn ngữ lập trình Pascal. Quách Tuấn Ngọc – Nhà xuất bản
thống kê.


16 |15


17 |15



×