Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN DUY TRÌ SĨ SỐ 2017 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.91 KB, 21 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM TỐT CÔNG TÁC DUY TRÌ SĨ SỐ HỌC
SINH LỚP 4
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Việc duy trì sĩ số đảm bảo chuyên cần ở trường Tiểu học đóng một vai trò
rất quan trọng trong việc học tập của học sinh. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh
hội kiến thức một cách đầy đủ, mang lại kết quả tốt trong quá trình dạy học và
giáo dục học sinh. Đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng trong việc
đánh giá, nhận xét chất lượng hoạt động của mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp và của
tập thể nhà trường. Nhưng hiện nay, tình hình học sinh nghỉ học, vắng học dài
ngày, bỏ học ở các huyện miền núi đã đến mức báo động, nhất là học sinh ở các
xã khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Theo thống kê của các năm gần đây cho thấy tỉ
lệ học sinh bỏ học, vắng học dài ngày ngày càng cao.
Những học sinh thất học là một mối nguy hại lớn các em dễ dàng dính vào
các tệ nạn xã hội, đặc biệt dễ bị kẻ xấu lôi kéo vào các tổ chức phản động.....
những ảnh hưởng đó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân, gia đình các em mà còn
làm ảnh hưởng đến toàn xã hội và sự phát triển của đất nước.
Là người giáo viên chủ nhiệm lớp tôi rất trăn trở, bức xúc trước thực trạng
học sinh vắng học, bỏ học, không ham học. Vậy để công tác duy trì sĩ số lớp
mình chủ nhiệm đạt kết quả tốt trong năm học, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục và hiệu quả đào tạo của nhà trường nói riêng và góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra cho ngành Giáo dục nói
chung tôi xin đề xuất một số kinh nghiệm của mình về "Một số biện pháp làm
tốt công tác duy trì sĩ số học sinh lớp 4".
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:

1


- Khảo sát thống kê tình trạng duy trì sĩ số của học sinh lớp 4B - Trường


tiểu học Tà Long.
- Tìm hiểu các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng bỏ học, vắng học
dài ngày.
- Đề xuất các biện pháp duy trì sĩ số học sinh.
- Ghi lại những giải pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết
thành kinh nghiệm của bản thân.
- Chia sẻ với đồng nghiệp những biện pháp mà mình thực hiện có hiệu
quả.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu lí luận, tìm ra những cơ sở lí luận, vai
trò vị trí, nhiệm vụ, hệ thống hóa những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
Ngoài ra còn nắm một số vấn đề liên quan đến học sinh ngay từ đầu năm học.
Tham khảo một số cách làm của đồng chí, đồng nghiệp, trên cơ sở tìm ra những
biện pháp duy trì sĩ số học sinh lớp 4 nói chung và lớp 4A - Trường tiểu học Tà
Long nói riêng. Vận dụng những biện pháp hay áp dụng vào lớp của mình và đề
xuất những biện pháp tích cực để khắc phục những hạn chế trong quá trình chủ
nhiệm lớp.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh lớp 4.
4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm
- Học sinh lớp 4A, 4B+4C 1 năm học 2017-2018 của trường Tiểu học Tà
Long.
- Lớp thực nghiệm: Lớp 4A năm học 2017-2018.
- Lớp đối chứng : Lớp 4B+4C1 năm học 2017-2018.

2


Số lượng học sinh của lớp thực nghiệm (30 học sinh) và lớp đối chứng (lớp
4B: 20 học sinh; lớp 4C1: 9 học sinh; tổng hai lớp là 29 học sinh) tương đương

nhau.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu để giải quyết tốt và có kết quả cao vấn đề đặt ra
trong quá trình thực hiện tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu. Trong đó
chủ yếu là phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập số liệu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp phân tích tổng hợp
Trong các phương pháp nêu trên phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập
tài liệu; phương pháp quan sát; phương pháp phân tích tổng hợp là phương pháp
chủ đạo.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp đàm thoại là phương pháp
bổ trợ thêm cho quá trình nghiên cứu.
6. Phạm vi nghiên cứu và kế hoạch nghiên cứu:
- Phạm vi nghiên cứu: Biện pháp làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh
lớp 4.
- Kế hoạch nghiên cứu:
+ Thời gian bắt đầu: Tháng 9 năm 2016.
+ Thời gian kết thúc: Tháng 4 năm 2018.
PHẦN II: NỘI DUNG
Chương I. Cơ sở lí luận:
3


Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nơi
tạo những cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên bậc học
cao hơn. Nhà trường Tiểu học có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành nhân cách cho trẻ em, là nơi tổ chức một cách tự giác quá

trình phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng
học tập, rèn luyện của học sinh. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” với mục tiêu: “Nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi
mới nhiều vấn đề liên quan đến dạy và học với mục đích là nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện cho học sinh. Đặc biệt đối với bậc Tiểu học được xác định “là
bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân” (Điều 2 - Luật giáo dục) với
mục tiêu cơ bản là: “nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ và các kĩ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. (Điều 23 - Luật Giáo dục)
Mục tiêu đó được cụ thể hóa trong từng môn học, từng lớp học, từng hoạt động
của cả bậc học.
Hơn nữa giáo sư, tiến sĩ Đăng Vũ Hoạt (Giáo dục học đại cương, 2011,
trang 139) nêu rõ "Quá trình giáo dục diễn ra sự tác động qua lại tích cực giữa
nhà giáo dục và người được giáo dục. Nếu không có sự tác động qua lại này thì
sẽ không có bản chất của quá trình giáo dục theo đúng nghĩa của nó".
Nếu không có người học thì sẽ không xảy ra quá trình giáo dục. Mà một
khi quá trình giáo dục không được thực hiện thì: Mục đích, nhiệm vụ, nội dung
giáo dục cũng sẽ không thực hiện được. Tóm lại người học đóng vai trò rất quan
trọng trong quá trình giáo dục và không thể thiếu được.
Để làm được những điều nêu trên thì không có cách nào khác là phải duy
trì đầy đủ học sinh đến lớp. Việc duy trì sĩ số trong các trường học, là một chủ
trương lớn của ngành giáo dục nhằm cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng các cấp,
đây là giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và bồi
4


dưỡng những tài năng của đất nước. Vì chỉ trên cơ sở của sự phát triển phong
phú, hài hoà có tính toàn diện của nhân cách thì tài năng con người mới có điều
kiện nảy nở và phát triển một cách cơ bản và bền vững.

Chương II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng công tác duy trì sĩ số tại lớp 4A:
- Trường Tiểu học Tà Long là một trong những trường thuộc địa hình khó
khăn nhất của huyện miền núi Đakrông, tỉnh Quảng Trị. Ở đây chủ yếu là đồng
bào dân tộc thiểu số Vân Kiều, Pa Cô sinh sống. Nghề nghiệp chủ yếu của họ là
lên nương làm rẫy, thu nhập thấp, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.
Chính vì vậy mà điều kiện để phụ huynh quan tâm đến con em mình còn hạn
chế. Bên cạnh đó một số phụ huynh vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng
của việc học trong xã hội hiện nay, điều đó dẫn đến ý thức của các em còn hạn
chế dẫn đến việc vắng học là điều khó tránh khỏi.
- Trong năm học 2017-2018 được nhận nhiệm vụ giảng dạy lớp 4A. Lớp có
tổng số học sinh là 30 em (15 học sinh nữ, 15 học sinh nam; 17 em thuộc hộ
nghèo, 7 em thuộc hộ cận nghèo). Học sinh trong lớp đông, địa bàn dân cư rộng,
nên việc xây dựng nề nếp, quản lý học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Học sinh
dân tộc chiếm 93,3 % (28/30 học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số), đa
số các em chưa xác định được lợi ích của việc học.
- Bố mẹ chủ yếu làm nương rẫy, kinh tế các gia đình còn khó khăn; đặc biệt
trong lớp chủ nhiệm có 1 học sinh lưu ban, 1 học sinh bố mẹ chia tay, 4 học sinh
mồ côi bố mẹ đang sống với người thân. Bên cạnh đó phần đa phụ huynh học
sinh có trình độ văn hoá hạn chế nên không biết cách kèm cặp, hướng dẫn con
em khi ở nhà. Bởi vậy, chuyện quan tâm đến việc học của các em còn hạn chế.
2. Nguyên nhân dẫn đến việc học sinh nghỉ học, vắng học dài ngày:
Sau khi điều tra, nghiên cứu tôi nhận thấy học sinh nghỉ học, vắng học dài
ngày chủ yếu do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
5


+ Học sinh mất gốc từ trước do đến lớp nhưng không nắm được kiến thức
mà giáo viên giảng dạy nên sinh ra chán nản.
+ Học sinh thể hiện cá tính của mình bằng cách chống đối: Chống đối thầy

cô, bố mẹ và chống lại việc học.
+ Trẻ em thuộc gia đình nghèo, đông con, các em không có áo quần lành
lặn để đến lớp như bao bạn khác. Những học sinh này thường mặc cảm, tự ti về
hoàn cảnh, tự cho thân phận của mình không bằng bạn bè , tự tách biệt khỏi tập
thể, các em luôn cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương và chán nản dẫn đến bỏ
học.
+ Trẻ em thuộc gia đình thiếu bố (mẹ) hoặc thiếu cả bố lẫn mẹ ; Tức là bố
mẹ ly hôn hoặc bố hoặc mẹ mất. Số trẻ em này thường có tính khí bất thường,
hay quậy phá, hờn giận, đánh nhau, tự ti, lúc nào cũng mặc cảm, tự cho mình
thua kém và tự xa lánh bạn bè dẫn đến bỏ học .
+ Trẻ em thuộc gia đình có mức kinh tế trung bình, không đông con, nhưng
bố mẹ ít quam tâm đến con cái, lo kiếm sống, suốt ngày để các em lêu lổng,
không quản lý giờ giấc. Số học sinh này rất tự do, bừa bãi, hay quậy phá, học ít
chơi nhiều, hay trốn học, thường nói dối cha mẹ, thầy cô, hay cãi lại người lớn,
không biết nghe lời, ít có lòng tự trọng và thích là bỏ học.
+ Do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, một số em nhà cách xa trường,
các em chỉ đến trường tham gia các buổi học chính khoá.
+ Do gia đình vì một lí do nào đó (về kinh tế, tình cảm.....) không quan tâm
đến chuyện học tập của con cái phó mặc mọi việc cho nhà trường. Dẫn đến các
em không có ý thức tự giác trong học tập.
+ Phần đa học sinh dân tộc, bố mẹ các em không biết chữ, nên khi đi học
về không có ai kèm, dẫn đến học yếu, các em phải ở lại lớp nhiều năm liền cảm
thấy xấu hổ thế là bỏ học.

6


Từ thực trạng trên mà tôi đã tổ chức khảo sát để nắm bắt được tình hình
của học sinh ngay từ đầu năm học. Đây là một việc làm quan trọng để xác định
được nguyên nhân học sinh nghỉ học, vắng học dài ngày hay bỏ học nhằm đưa

ra các biện pháp phù hợp với đối tượng học sinh trong quá trình làm công tác
chủ nhiệm lớp.
Kết quả khảo sát tình hình học sinh đến lớp từ đầu năm học 2017 - 2018
của lớp 4A và 4B+4C1

tại trường Tiểu học Tà Long như sau:

Lớp

Tổng số học
sinh

Học sinh
vắng học 1
đến 2 buổi/
tuần

Học sinh
vắng học 3
đến 4 buổi/
tuần

Học sinh
vắng học dài
ngày, có nguy
cơ bỏ học

4A

30


3

3

2

4B+4C1

29

2

3

2

Chương III. Các biện pháp duy trì sĩ số học sinh và kết quả thực hiện:
1. Các biện pháp duy trì sĩ số học sinh:
1.1 Nắm và xử lí thông tin đối với từng đối tượng học sinh cụ thể:
* Nắm bắt tình hình lớp:
Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình,
muốn đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết
giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về
từng học sinh.
Ngay từ đầu khi vừa nhận lớp, tôi đã tiến hành điều tra, tìm hiểu từng học
sinh thông qua hồ sơ, học bạ, sổ chủ nhiệm năm trước, cũng như trao đổi ý kiến
với giáo viên chủ nhiệm năm trước. Cụ thể, tôi đã tìm hiểu về các khía cạnh sau:
- Tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình của học sinh, công việc làm của bố, mẹ
các em, số con trong gia đình, nếp sống, mức sống, sự quan tâm của gia đình

đến vấn đề học tập của con mình và điều kiện học tập của mỗi em để có thể tìm
ra nguyên nhân từ những biểu hiện của học sinh. Cụ thể lớp tôi có 1 học sinh lưu
7


ban(Chủ), 1 học sinh bố mẹ chia tay hiện đang sống với bố và mẹ kế (Huấn), 4
học sinh mồ côi bố, mẹ hoặc mồ côi bố lẫn mẹ đang sống với người thân (Đen,
Song, Mênh, Lối).
- Tìm hiểu đặc điểm sinh lí của học sinh (thị lực, giọng nói, khả năng tư
duy..) để có thể sắp xếp chỗ ngồi cho phù hợp. Ví dụ trong lớp có em Tuấn
thường mất tập trung trong giờ học, hay nói chuyện riêng tôi sắp xếp em ngồi
bàn đầu tiên cùng với em Nga (học sinh xuất sắc của lớp) để Tuấn không có bạn
nói chuyện cùng nên phải chú ý đến bài giảng của giáo viên.
- Phát hiện những năng khiếu, sở trường, sở đoản của các em về môn học
nào đó để có biện pháp bồi dưỡng hoặc phụ đạo các em.
- Ngoài ra, tìm hiểu về khả năng giao tiếp, mối quan hệ với bạn bè thông
qua việc quan sát học sinh trong các hoạt động.
Từ những việc làm trên tôi tìm hiểu, thống kê các đối tượng học sinh đặc
biệt là các em có nguy cơ nghỉ học không đảm bảo duy trì sĩ số chuyên cần trên
lớp. Phải tìm được những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó của học sinh. Phân
loại học sinh vắng học theo những nguyên nhân chủ yếu và lên kế hoạch giúp đỡ
các em.
Ví dụ: Học sinh vắng học vì yếu kém do mất kiến thực căn bản từ lớp dưới,
học sinh vắng học vì chơi với bạn xấu, học sinh vắng học vì hoàn cảnh gia đình,
học sinh vắng học do không được phụ huynh quan tâm.
* Xử lí thông tin phù hợp với từng đối tượng học sinh:
Sau khi nắm được những thông tin trên giáo viên lên kế hoạch giảng dạy
thích hợp, giải quyết triệt để các vấn của học sinh gặp phải. Đối với từng đối
tượng học sinh cụ thể ta có thể làm như sau:
- Đối với học sinh đi học không chuyên cần vì mất kiến thức cơ bản

(Quyên):

8


Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Sau
khi tìm hiểu giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể
như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời
gian ngoài giờ lên lớp.
+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm
tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.
+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong quá trình lên lớp.
+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học
sinh yếu kém tiến bộ.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự
tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.
+ Chú ý tránh thái độ phân biệt, đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ
trước bạn bè.
- Đối với học sinh vắng học vì chơi với bạn xấu (Đen):
+ Giáo viên cần thường xuyên gần gủi, trò chuyện giúp học sinh nhận ra
được cái không tốt của bạn. Ví dụ: Người bạn đó có kết quả học tập và rèn luyện
như thế nào? Trong quá trình chơi với bạn đó bạn có giúp đỡ được gì cho em
trong học tập và rèn luyện không? Bạn đã xúi dục, lôi kéo em làm những việc
gì? Theo em những việc đó có tốt không?..................em thấy bạn là người bạn
như thế nào?
+ Kết hợp với gia đình yêu cầu phụ huynh quản lí các em khi ở nhà.
+ Giao cho em 1 nhiệm vụ đơn giản nhưng cần sự chuyên cần để em thấy
được vai trò của mình mà đến lớp đầy đủ, đúng giờ. Ví dụ: Ghi tên các bạn vắng
trong các buổi học, cầm khoá cửa của lớp........

- Đối với học sinh vắng học vì hoàn cảnh gia đình:
9


+ Giáo viên cần trò chuyện để nắm được chuyện gia đình mà em đang gặp
phải, từ đó mà cùng gia đình các em có biện pháp giải quyết hợp lí.
Ví dụ:
Khó khăn về kinh tế (Mênh): Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên động viên
giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Đề đạt với chi hội phụ huynh lớp, nhà
trường tạo điều kiện giúp đỡ những em đó. Tính ưu việt của việc làm này là vừa
khắc phục được khó khăn lại vừa giáo dục được lòng nhân ái cho học sinh và
tranh thủ được sự hỗ trợ của nhà trường của hội phụ huynh học sinh.
Khó khăn vì bố mẹ chia tay nhau (Chủ, Huấn): Quan tâm gần gũi em nhiều
hơn, giúp các em lấy lại thăng bằng, giao cho em nhiệm vụ làm trưởng ban vệ
sinh - sức khoẻ. Dần dần em đã phát huy được vai trò của mình, trở thành cán bộ
lớp năng nổ, có trách nhiệm, khi thấy em có tiến bộ, tôi đã động viên các em kịp
thời bằng cách: thưởng cho các em những cuốn vở, những bộ áo quần mà tự tôi
đã quyên góp được.
- Đối với học sinh vắng học vì không được gia đình quan tâm (Song):
Với những học sinh này ngoài giờ đến trường, các em suốt ngày lang thang
trên đường, học ít chơi nhiều, đến lớp thường muộn giờ, do không biết sắp xếp
thời gian ở nhà, thậm chí có thể thức khuya xem phim, sáng ngủ quên, tự ý bỏ
học mà gia đình không hay biết. Với đối tượng này tôi đã gần gũi các em vừa
bằng tình thương, vừa nghiêm khắc nhắc nhở phê bình và chỉ ra hậu quả để các
em sửa chữa. Ngoài ra tôi đã đến nhà gặp phụ huynh của em học sinh này. Tôi
yêu cầu bố mẹ phối hợp với các thầy cô trong việc giáo dục cụ thể : Học sinh và
cha mẹ cùng làm cam kết thực hiện những nội quy yêu cầu của nhà trường, của
lớp đề ra. Lập thời gian biểu để học sinh thực hiện ở nhà, có sự giám sát của cha
mẹ.
1.2 Dạy học bằng cái tâm của người thầy giáo:


10


Biện pháp này tôi chủ yếu sử dụng đối với những học sinh yếu, kém. Đối
với học sinh yếu kém thông thường giáo viên luôn có ác cảm các em làm giáo
viên phải bỏ nhiều công sức trong quá trình giảng dạy, thành tích lớp bị hạ thấp,
không được xếp danh hiệu thi đua như ý muốn......... cho nên khi kèm cặp học
sinh yếu giáo viên thường có thái độ bực bội nên hay mắng chửi thậm chí đôi
lúc còn sử dụng những lời lẽ, hình phạt không phù hợp với giáo dục hiện nay.
Như vậy thì học sinh không thể nào tốt lên được, mỗi lần thấy giáo viên sẽ sợ bị
mắng chửi nên các em sẽ e dè, nhút nhát.
Một số giáo viên hiện nay về phương pháp giáo dục còn mang ảnh hưởng
của cách giáo dục xưa. Như còn dùng hình phạt hoặc dùng những lời nói xúc
phạm các em nên các em không có thiện cảm đối với giáo viên, trường lớp, mặc
cảm với bạn bè sinh ra chán học.
Để giúp đỡ học sinh yếu kém, muốn học sinh thích học thì xuyên suốt quá
trình dạy học phải có tác phong sư phạm chuẩn mực, gần gủi, ân cần với học
sinh. Tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh.
Trong giảng dạy phải ăn nói nhẹ nhàng, tạo sự ăn ý, nhịp ngàng với học
sinh, khi giảng bài luôn quan sát học sinh trong lớp, đặc biệt là những em yếu,
hay nghịch ngợm. Mỗi lần học sinh có ý kiến trả lời sai thì giúp các em hiểu cái
sai, không cho học sinh ngồi xuống mà không biết mình sai ở điểm nào, không
để học sinh mất mặt trước bạn bè, làm trò cười cho lớp học. Trong quá trình dạy
học tôi luôn biết cách động viên, khích lệ học sinh mặc dù các em tiến bộ còn
chậm. Đôi lúc cần biết cách sử dụng năng khiếu của mình để làm cho tiết học
thêm sinh động (VD: Tìm những câu chuyện vui kể cho học sinh nghe để các
em cảm thấy thoải mái......).
Để các em học yếu mạnh dạn hơn thì giáo viên cần phải biết yêu thương,
gần gủi, tạo sự thân tình để các em hoà đồng vào môi trường học tập. Để từ đó

các em có ấn tượng với trường lớp, thầy cô mà ham thích học tập.

11


Thường xuyên gần gũi tâm sự và trò chuyện với những học sinh yếu, không
chuyên cần đặc biệt là những em nhút nhát, mặc cảm về bản thân. Hỏi các em về
chuyện gia đình, chuyện học hành, từ đó học sinh cảm thấy thân thiện với giáo
viên hơn; giáo viên sẽ nắm được nguyên nhân các em học yếu, hoàn cảnh gia
đình của các em, tâm tư, tình cảm của các em, những vướng mắc, nguyện vọng
của các em khi đến lớp để có biện pháp giáo dục tốt hơn. Ví dụ: Nhà em ở đâu?
Bố mẹ em làm việc gì? Hôm nay em đi học cùng ai? Hôm nay em có hiểu bài
không? Em có cần thầy giúp điều gì không?.......
Đôi lúc một câu nói, một cử chỉ nhỏ thôi nhưng có tác dụng rất lớn. Các
em sẽ thấy thầy cô luôn quan tâm đến mình, không ghét bỏ mình nên các em
thêm gần gũi, yêu mến chúng ta hơn. Đối với những em thiếu tự tin thì giáo viên
nên tìm ra những ưu điểm dù nhỏ nhất để khen ngợi các em. Ngoài ra cuối mỗi
học kì tôi thường khen và có những món quà nhỏ động viên các em học yếu
nhưng có tiến bộ trong một giai đoạn học tập nhất định.
1.3 Tạo môi trường giáo dục tốt:
Xây dựng một môi trường sự phạm tốt làm cho học sinh thấy vui tươi,
thoải mái, thích thú mà không cảm thấy nặng nề, sợ sệt khi đến lớp. Ý thức được
điều đó tôi đã thực hiện những việc như sau:
- Trồng cây xanh trong lớp, phân công nhiệm vụ cho từng nhóm chăm sóc
và trồng thêm cây.
- Cùng học sinh trang trí, sử dụng mang lại hiệu quả thiết thực trang quá
trình giảng dạy.
+ Giáo viên hướng dẫn và cùng các em trang trí lớp đẹp, hài hòa đảm bảo
tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Sau khi hướng dẫn phần trang trí lớp tôi giao
trực tiếp cho từng cá nhân, từng nhóm trang trí sao cho phù hợp, sử dụng hiệu

quả.

12


+ Thường xuyên sử dụng, khai thác các góc đã trang trí nhằm mang lại hiệu
quả cao góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
- Vào giờ ra chơi giáo viên hoặc tổng phụ trách Đội tổ chức hướng dẫn các
em các hoạt động vui chơi tập thể, đọc sách báo để tạo sự gắn bó thương yêu
trong học sinh và sự gần gũi thân mật giữa học sinh với giáo viên trong nhà
trường. Lên kế hoạch tổ chức sinh hoạt các chủ điểm với các hình thức như: Đố
vui, hái hoa dân chủ, vẽ tranh theo chủ đề, hát múa.......... với các hành thức này
giáo viên tạo cho các em sự vui thích, tìm tòi tham gia tích cực các phong trào
do trường, lớp tổ chức. Từ đó các em thấy được không khí học tập hứng thú, gần
gủi từ đó các em mong gặp bạn, gặp thầy cô để cùng trò chuyện, chia sẻ những
vui buồn trong cuộc sống.
Bên cạnh đó tôi thường xuyên quan tâm đến hoàn cảnh sống của một số
học sinh kịp thời nắm bắt những thiếu thốn của các em khi đến lớp nhằm giúp
đỡ các em kịp thời. Đối với những học sinh này tôi thường kêu gọi sự giúp đỡ
của bạn bè, đồng nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nhà trường quyên góp mua
dụng cụ học tập, quần áo giúp các em tiếp tục đến trường. Liên lạc, trực tiếp trao
đổi với phụ huynh học sinh về việc học tập, tâm tư, tình cảm của các em. Từ đó
động viên khuyến khích phụ huynh học sinh có hướng khắc phục cho các em
đến trường đều đặn.
1.4 Phối kết hợp với phụ huynh học sinh:
Sự buông lỏng của gia đình là nguyên nhân chủ yếu làm cho học sinh lơ là
học tập. Sự lười biếng học tập kéo dài sẽ dẫn đến hậu quả là kết quả học tập
cũng như rèn luyện nhanh chống giảm sút.
Học sinh mất căn bản do lỗ hổng kiến thức quá lớn, vào học thầy cô giảng
bài không hiểu được đồng thời hay bị phê bình nên chán nản bỏ học.

Chính vì thế, gia đình phải có trách nhiệm cùng giáo viên quản lý, nhắc
nhở và thường xuyên giám sát việc học tập của con em mình. Hiện tại vẫn còn
nhiều gia đình chỉ lo làm ăn mà không coi trọng việc học tập của con em mình.
13


Với những đối tượng này, chúng ta cần phải thật khéo léo cải thiện dần tư tưởng
để họ thấy được sự quan trọng của việc học và có trách nhiệm hơn trong việc
cùng nhà trường quản lí, giáo dục con em mình học tập tốt hơn.
Bởi vậy, người giáo viên chủ nhiệm như tôi thường nhắc nhở phụ huynh
học sinh nhất thiết phải duy trì mối liên hệ với nhà trường, dự họp đầy đủ khi
được thông báo để kịp thời nắm rõ tình hình học tập, rèn luyện của con em.
Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh để trao đổi
thông tin, nắm bắt tình hình, cùng phụ huynh tìm ra giải pháp phối hợp tốt nhất
trong công tác quản lí và giáo dục con em họ; góp phần duy trì tính chuyên cần,
tích cực trong học tập của học sinh.
Tích cực chủ động liên lạc với phụ huynh học sinh nhất là những trường
hợp học sinh cá biệt, thường xuyên vắng học để phối hợp giáo dục.
Giáo viên chủ nhiệm biết phối hợp với phụ huynh trong việc tạo sự ham
thích cho học sinh khi đến trường. Hiện nay một số phụ huynh không biết cách
giáo dục con cái thường chửi mắng, đánh con khi con mắc lỗi (bị điểm kém, bị
thầy cô phê bình....), làm cho các em sợ sệt, ức chế khả năng học tập của các em,
làm giảm đi niềm ham thích học tập. Do đó giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi,
hướng dẫn phụ huynh nên đảm bảo điều kiện tốt nhất cho con em mình đến
trường, khi giáo dục con em cần nhẹ nhàng, cần cho các em hiểu được việc đó
đúng hay sai để sửa chữa. Giáo viên cũng cần khéo léo đối với những học sinh
mắc lỗi khi thông báo với phụ huynh để tránh gây căng thẳng, buồn bực không
đáng có của phụ huynh đối với con mình mà gây ra mắng chửi hay đánh đập các
em.
Phụ huynh không chỉ quan tâm đến bản thân con mình mà cần quan tâm

đến mối quan hệ bạn bè của các em. Cần tìm hiểu xem con mình chơi với ai?
Tình trạng học tập của bạn đó thế nào? Bạn đó có ngoan hay không? Vì nếu các
em chơi với bạn xấu sẽ dễ bị ảnh hưởng thói xấu của bạn.
14


Nếu thấy con em mình học yếu thì thay vì trách phạt thì phụ huynh cần tìm
hiểu rõ nguyên nhân động viên, khen ngợi các em dù là những tiến bộ nhỏ nhất.
Đặc biệt cần thường xuyên quan tâm đến việc học của con em mình.
Làm được những đều đó học sinh sẽ thấy được sự quan tâm, thương yêu
của gia đình mà cố gắng học tập nhiều hơn.
1.5 Giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn:
Nắm được một số em có hoàn cảnh nghèo đặc biệt (mồ côi cha, mẹ), tôi rà
soát lại xem em nào còn thiếu quần áo trắng, đồ dùng học tập,… tôi đăng kí cho
các em được nhận dụng cụ do nhà trường hỗ trợ từ một số tổ chức từ thiện. Có 3
em điều kiện gia đình cực kì khó khăn (Chủ, Mênh, Lối) không có đủ quần áo,
đồ dùng học tập để đi học tôi mua tặng các em đồ dùng học tập ngay vào đầu
năm học. Ngoài ra tôi còn kêu gọi các gia đình những người quen hay các em
trong lớp dành tặng các em một số quần áo cũ và tranh thủ sự hỗ trợ từ một số
phụ huynh có khả năng để trang bị thêm những dụng cụ còn lại cho những em
này để các em được yên tâm đến trường, không phải mặc cảm vì nhà nghèo.
Qua đây tôi cũng thấy tình cảm giữa các học sinh trong lớp gần gũi nhau hơn.
1.6 Làm tốt nhiệm vụ chủ nhiệm của mình:
Ngoài sử dụng một số biện pháp chính đã nêu trên thì ngoài giáo viên chủ
nhiệm phải luôn luôn làm "tròn vai" của mình. Sau đây là một số cách tôi đã làm
khi chủ nhiệm lớp 4A:
* Tổ chức tốt buổi sinh hoạt lớp:
- Trong giờ sinh hoạt lớp, cần tạo cho các em tâm thế thoải mái, không gây
sức ép nặng nề đối với học sinh bằng những lời trách phạt, phê bình mà giáo
viên tập cho các em biết phê và tự phê. Mỗi tiết sinh hoạt, giáo viên cho học

sinh tự nhận xét ưu, khuyết điểm bằng nhiều hình thức khác nhau như: Hội đồng
tự quản nhận xét, nhóm trưởng nhận xét, cá nhân tự nhận xét. Bên cạnh đó, giáo
viên cũng tạo điều kiện cho học sinh bày tỏ những suy nghĩ của mình qua một
15


tuần học: những điều em thích, những điều em chưa thích, mong muốn của
em, ... Qua đó, giáo viên nắm được tâm tư, nguyện vọng của từng học sinh mà
có những biện pháp giáo dục phù hợp.
- Đối với những mặt học sinh còn hạn chế, tôi nhắc nhở nhẹ nhàng kèm
theo hướng dẫn, uốn nắn cho các em để tuần sau các em thực hiện tốt hơn.
- Ngoài ra tôi còn kể chuyện nêu gương các anh, chị học sinh những năm
trước dù đầu năm còn yếu kém nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng đến cuối năm
cũng đã đạt loại Khá, Giỏi để củng cố lòng tin ở các em. Bên cạnh đó, trong các
tiết sinh hoạt Chủ nhiệm, giáo viên lồng ghép một số hoạt động giáo dục về
quyền trẻ em, an toàn giao thông, giáo dục bảo vệ môi trường, rèn các kĩ năng
sống, tìm hiểu về lịch sử, ... nêu những tấm gương tốt cho học sinh noi theo.
- Ngoài ra, trong giờ sinh hoạt Chủ nhiệm, giáo viên cũng lồng ghép giáo
dục, rèn luyện học sinh một số hành vi đạo đức.
* Phổ biến đầy đủ quy định về nội quy nhà trường:
- Ở tuần đầu tiên, tôi sinh hoạt với học sinh trong lớp rất kĩ về nội quy nhà
trường, trong đó có phần quy định: Học sinh phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ
học phải có lí do và được cha mẹ xin phép.
Tổ chức họp phụ huynh học sinh đầu năm, tôi cũng thông báo cho phụ
huynh biết về quy định này và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở các
em.
* Kịp thời tìm hiểu nguyên nhân vắng học không có lí do của học sinh:
Đối với những trường hợp học sinh nghỉ học không có lí do hết giờ dạy tôi
lập tức đến ngay nhà những em này gặp phụ huynh tìm hiểu nguyên nhân và
trao đổi cách khắc phục. Đôi lúc, học sinh chỉ vắng học vì những lí do rất đơn

giản như: không có dép, không có quần áo, không có áo mưa............ với những
trường hợp này giáo viên tìm hiểu nguyên nhân, kịp thời giúp đỡ thì các em thì

16


sẽ đến lớp thường xuyên. Chính nhờ thế mà những học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm
chỉ nghỉ học 1 ngày không phép thì đến hôm sau đi học lại bình thường.
* Phối kết hợp với giáo viên bộ môn trong quá trình dạy học:
Trong việc duy trì sĩ số việc phối hợp với các giáo viên bộ môn là hết sức
quan trọng nhằm theo dõi sĩ số học sinh qua đó có kế hoạch điều chỉnh cũng như
động viên các em bỏ học giúp các em học tập tốt hơn. Mặt khác có những em
học sinh thích học môn này, lại không thích học môn kia vì những lí do khác
nhau do vậy giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân từ các
giáo viên bộ môn để cùng giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp nhằm giúp các
em có thể có kết quả học tập tốt hơn từ đó các em sẽ hứng thú học tập và đi học
đều đặn hơn.
* Phối hợp với các tổ chức trong nhà trường:
Phối hợp với ban giám hiệu: Tôi là người được thừa lệnh của hiệu trưởng
giao quyền quản lý học sinh lớp 4A. Trên tinh thần đó, tôi vẫn thường xuyên báo
cáo, tâm sự cùng Ban giám hiệu về tình hình học tập, kết quả học tập, nguyện
vọng của học sinh để tìm ra những biện pháp thích hợp để giáo dục các em một
cách tốt hơn.
Phối hợp với tổ chức Đoàn, Đội: Tôi thường xuyên phối hợp với chi Đoàn,
liên Đội trong việc tổ chức, động viên học sinh đặc biệt là học sinh có nguy cơ
bỏ học tham gia các hoạt động ngoài giờ như: Hội thao học đường, làm báo
tường, vẽ tranh theo chủ đề................. Thông qua những hoạt động đó tạo cho
học sinh cảm giác vui vẻ, gần gủi, yêu thầy, mến bạn hơn từ đó các em sẽ đến
lớp đều đặn hơn.
2. Kết quả thực hiện

Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm "Một số
biện pháp làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh lớp 4", tôi đã áp dụng các biện
pháp đã nên trên vào thực tế trong quá trình giảng dạy và giáo dục, học sinh lớp
17


tôi đã đạt được những kết quả tích cực. Tình trạng vắng học dài ngày không còn,
tình trạng vắng học rải rác trong các buổi học cũng giảm đi rõ rệt. Kết quả thống
kê cụ thể như sau:

Lớp

Tổng
số học
sinh

4A

30

4B+4C

29

Thời
gian

ĐKI

1


4A

30

4B+4C

29

GHKI

1

4A

30

4B+4C

29

CHKI

1

4A

30

4B+4C


29

1

GHKII

Học sinh
Học sinh vắng Học sinh vắng
vắng học dài
học 1 đến 2
học 3 đến 4
ngày, có nguy
buổi/tuần
buổi/tuần
cơ bỏ học
3

2

2

2

3

2

3


1

1

2

3

2

2

1

0

2

2

1

1

0

0

2


2

0

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với kết quả trình bày ở trên, có thể khẳng định việc duy trì sĩ số học sinh
lớp 4A cơ bản đã thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của sáng kiến. Đồng thời
cho chúng ta nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc đi học chuyên cần đối với
việc nâng cao hiệu quả dạy học và sự phát triển toàn diện của học sinh.
Việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi tìm tòi nắm được nhiều kiến liên quan
đến công tác chủ nhiệm lớp hơn . Trên cơ sở đó, bản thân cũng hiểu hơn về tính
ưu việt của phương pháp, biện pháp bổ trợ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
của mình với từng đối tượng học sinh, thấy được sự cấp bách, vận dụng vào việc
18


giảng dạy, giáo dục và cũng thấu hiểu được những khó khăn mà các em gặp phải
trên "con đường đến trường" của mình.
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng nhuần nhuyễn các biện pháp đã
nêu trên và nhận thấy rằng:
- Học sinh đến lớp đầy đủ hơn, tình trạng vắng học rải rác trong các buổi
học chính khoá cũng như các buổi học tăng cường được giảm dần, tình trạng học
sinh vắng học dài ngày không còn diễn ra.
- Học sinh hứng thú khi đến lớp, tích cực thực hiện nhiệm vụ được giáo
viên phân công.
- Chất lượng học sinh được nâng lên rõ rệt.
2. Kiến nghị:
Để đảm bảo được công tác duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục và
tiến tới mục tiêu phổ cập giáo dục Tiểu học. Cần có sự quan tâm hỗ trợ đúng

mức của toàn xã hội. Tôi xin có một số đề xuất như sau:
- Đối với nhà trường:
+ Tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động vui chơi, văn hoá, văn nghệ, thể
dục thể thao ...... thu hút học sinh tham gia nhằm tạo hứng thú cho các em khi
đến lớp, đến trường.
+ Có hình thức khen thưởng kịp thời đối với lớp, đối với giáo viên chủ
nhiệm không có học sinh bỏ học.
- Đối với chính quyền các cấp: Luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ về vật chất
cho những em học sinh nghèo và những em có hoàn cảnh khó khăn để các em

19


được đến trường như các bạn khác, nhiệt tình tham gia vận động học sinh bỏ học
đi học lại cùng với giáo viên chủ nhiệm.
- Đối với phụ huynh học sinh:
+ Mua sắm đầy đủ các trang thiết bị cần thiết, tạo điều kiện tốt nhất cho
con mình đến trường.
+ Quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tự học, tự rèn và thái độ học tập của
các em khi ở nhà.
+ Tạo mối quan hệ khăng khít giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong
việc giáo dục toàn diện học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đúc rút ra trong quá trình
công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp 4A. Trong suốt quá trình nghiên cứu, trình
bày không tránh khỏi thiếu sót, rất mong được các đồng chí góp ý để có thể làm
tốt hơn nhiệm vụ của mình.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Quảng Trị, ngày 16 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Nguyễn Văn Hoàng

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007). Điều lệ trường Tiểu học, Ban hành theo
quyết định số 51/2007/QĐ-BGDĐT.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011). Điều lệ Ban đại diện Hội cha mẹ học
sinh, ban hành theo thông tư số 55/2011/TT-BGDĐT
3. Đặng Vũ Hoạt (2011). Giáo dục học đại cương, Nhà xuất bản Hà Nội,
Hà Nội.
4. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1998). Giáo dục học tập 2, Nhà xuất bản
giáo dục, Hà Nội.
5. Nguyễn Dục Quang, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Ký (2000). Những tình
huống giáo dục học sinh của người giáo viên chủ nhiệm, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. PGS-TS Hà Nhật Thăng; TS. Nguyễn Dục Quang; TS. Nguyễn Trong
Hoàn (2003). Tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, Nhà xuất bản giáo
dục, Hà Nội.

21




×