Marx trong thế kỷ XXI...
3
Marx trong thế kỷ XXI và những tư tưởng lớn
của Marx về con người
Hồ Sĩ Quý(*)
Tóm tắt: Trong tương quan với học thuyết về tư bản và giá trị thặng dư, về quyết định
luận duy vật và hình thái kinh tế - xã hội, hay về giai cấp vô sản và chủ nghĩa xã hội…
thì vấn đề con người không phải là chủ đề trung tâm của học thuyết Marx. Mặc dù vậy,
những tư tưởng của Marx về con người, dù được trình bày chủ yếu ở giai đoạn Marx
còn trẻ, lại vẫn đủ tầm vóc để tồn tại trong kho tàng tư tưởng loài người như là một học
thuyết bề thế, có ý nghĩa to lớn đối với các khoa học về con người và đối với sự nghiệp
giải phóng con người.
Trong khuôn khổ những hoạt động kỷ niệm 200 năm ngày sinh Karl Marx (1818-2018),
bài viết cung cấp thông tin về thái độ của cộng đồng thế giới đối với Marx trong những
năm gần đây.
Những tư tưởng lớn của Marx về con người được chúng tôi tập trung trình bày và đánh
giá giá trị đối với thời đại ngày nay là: 1) Con người là thực thể tự nhiên có tính người;
2) Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người; 3) Con người là những cá nhân hiện
thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ; 4) Bản chất con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội; 5) Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Đó là những tư tưởng thực sự có chiều kích
vĩ đại. Ngày nay, những tư tưởng này vẫn đang là tiền đề lý luận thực sự cốt lõi của nhiều
khoa học về con người. Trong đời sống hiện thực, những tư tưởng này cũng là những chỉ
dẫn thế giới quan và phương pháp luận cơ bản của nhiều lý thuyết xã hội.
Từ khóa: K. Marx, Học thuyết Marx, Chủ nghĩa Marx, Giải phóng con người, Marx trong
thế kỷ XXI, Tư tưởng về con người
Abstract: In comparison with the Marx’s doctrines of capital and surplus value, of
materialistic determinism and socio-economic forms, or of the proletariat and socialism,
human issue is not his central theme. However, Marx’s ideas of human nature though
represented mainly in the "young Marx" period, are significant enough to survive in the
mankind’s thinking treasure as a considerably influential and substantial doctrine to
human sciences and the cause of human liberation.
Against the background of the 200th anniversary of Karl Marx’s birth, the paper provides
information about attitudes of international community toward Marxism in recent years.
GS.TS., Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam;
Email:
(*)
Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2018
4
Marx’s great ideas of human nature and their values today to be analysed in the paper
include: 1) Human beings are a natural entity that possess human nature; 2) Nature is
human’s inorganic body; 3) Humans are realistic individuals including their activities
and physical living conditions; 4) Human nature is the harmonic sum of social relations;
5) Each individual’s free development is the condition for everyone’s free development.
These ideas prove meaningful dimensions that remain core theoretical premise of various
human sciences. In reality, they also act as guidelines of worldviews and methodologies
in many social theories.
Keywords: K. Marx, Marx’s Theory, Marx’s Thought, Human Liberation, Marxism in
the Twenty-first Century, Marx’s Ideas of Humans
I. Marx trong thế kỷ XXI
Bước sang thế kỷ XXI, vị thế của Marx
và của học thuyết Marx trong đời sống tinh
thần nhân loại vẫn là một chủ đề không
kém phần thu hút với những thái độ trái
ngược nhau. Bên cạnh thái độ hoài nghi,
phê phán, thậm chí kỳ thị, bôi nhọ, chủ yếu
ở những người cánh Hữu, ở một vài cộng
đồng đã từng sống trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa trước đây, hay ở một số nhà hoạt
động xã hội cực đoan, thì vẫn tồn tại khá
mạnh một xu hướng khác dường như ngày
càng đánh giá Marx cao hơn, cả về phương
diện là nhà tư tưởng, nhà khoa học và là
một con người.
Năm 1999, trong một cuộc thăm dò
ý kiến bầu chọn vào tháng 9 của BBC về
những nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong thiên
niên kỷ trước, Karl Marx đã khá bất ngờ
được bầu chọn là người giữ vị trí đầu tiên;
Albert Einstein chỉ đứng thứ hai (Xem:
stm).
Những năm 2008-2009, khi thế giới bắt
đầu rơi vào khủng hoảng tài chính, Marx và
bộ Tư bản của ông đã đột nhiên nổi tiếng
trở lại trong những mối quan tâm sâu sắc ở
hầu hết các nước phương Tây. Nhiều tạp chí
có tiếng trên thế giới như Time, Newsweek,
Forbes, Financial Times và thậm chí là cả
Der Spiegel đã đưa hình Marx lên trang bìa.
Năm 2013, theo đề xuất chung của Đức
và Hà Lan, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
và tập đầu tiên của bộ Tư bản của Marx
được đưa vào Danh mục “Ký ức thế giới”
(Memory of the World - MOW)(*) của
UNESCO. Việc đề xuất dựa trên quan điểm
cho rằng, những tác phẩm này có tác động
lớn tới các phong trào xã hội trên toàn thế
giới, ngay từ thời điểm được viết.
Năm 2014, cuốn Capital in the Twentyfirst Century nói về giá trị của Marx và bộ
Tư bản trong thế kỷ XXI của nhà kinh tế
học người Pháp Thomas Piketty(**) khi xuất
bản tại Đại học Harvard bằng tiếng Anh đã
bán được gần nửa triệu bản. Piketty chỉ là
“Ký ức thế giới” là chương trình do UNESCO
đề xướng và thực hiện từ năm 1992 nhằm bảo tồn
và tiếp cận những di sản tài liệu quý hiếm có nguy
cơ bị xâm hại và mai một ở nhiều nước và khu vực
trên thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đang có 6 di
sản nhận danh hiệu này, bao gồm “Mộc bản triều
Nguyễn”, “Châu bản triều Nguyễn”, “Mộc bản kinh
Phật thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc
Giang”, “Bia đá Văn Miếu - Quốc Tử Giám”, “Thơ
văn trên kiến trúc cung đình Huế” và “Mộc bản
Trường Phúc Giang, Hà Tĩnh”.
(**)
Bản tiếng Pháp: Thomas Piketty (2014), Le Capital au XXI siècle, Pub. Éditions du Seuil, Paris; Bản
tiếng Anh: Thomas Piketty (2014), Capital in the
Twenty-First Century, Translated by Authur Gold
Hammer, The Belknap Press of Harvard University
Press, London.
(*)
Marx trong thế kỷ XXI...
một trong số nhiều tác giả phương Tây đã
cho ra mắt những cuốn sách nổi tiếng, trong
đó có những đánh giá sâu sắc về giá trị
của Marx; chẳng hạn như: Terry Eagleton
(Why Marx Was Right - Tại sao Marx
đúng, Yale University Press, 2011), Michel
Vadee (Marx, penseur du possible - Marx
nhà tư tưởng của cái có thể, Méridiens
Klincksieck, Paris, 1992)…
Năm 2016, trong khảo sát hơn một
triệu tài liệu mà sinh viên Mỹ bắt buộc
phải đọc, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
đã bỏ xa các cuốn sách khác để trở thành
một trong ba tài liệu được đọc và sử dụng
nhiều nhất trong chương trình giáo dục về
lý thuyết xã hội ở Mỹ, cả về số lượng bài
giảng lẫn tần suất được giảng dạy (Xem:
Susan Berry, 2016).
Giữa tháng 4/2018, tại Trier, nơi Marx
đã sinh ra và học trung học trước khi rời
thành phố này để vào Đại học Bonn, Phòng
du lịch thành phố đã bán hàng nghìn tờ
EUR có hình chân dung Karl Marx để vinh
danh ông nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh
của ông. Điều đáng chú ý là 5.000 tờ bạc
đầu tiên đã được bán hết ngay sau khi ra
mắt. Thành phố phải in thêm 20.000 tờ
để đáp ứng nhu cầu của người mua từ các
nước Australia, Brazil, Mỹ và các nước
khác trên khắp thế giới (Xem: Alanna
Petroff, 2018).
Những hiện tượng trên dĩ nhiên chỉ là
biểu hiện bề ngoài. Điều quan trọng là, sau
200 năm Marx xuất hiện trong đời sống
nhân loại, đặc biệt trong so sánh với các
vĩ nhân khác, những hiện tượng như vậy
chắc chắn sẽ là những chỉ báo đầy ý nghĩa
về một con người, khiến cho các thế hệ sau
phải suy ngẫm nhiều hơn, sâu hơn về Marx
và học thuyết Marx.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản chẳng
những vẫn đang tồn tại mà còn có những
5
bước phát triển đáng kinh ngạc. Sự điều
chỉnh của bản thân cơ chế tư bản chủ nghĩa
là một hiện tượng đáng được chú ý nghiên
cứu. Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội hiện
thực dù đã tồn tại hơn 70 năm nhưng lại bị
tan rã và sụp đổ ở Liên Xô và nhiều nước
Đông Âu. Con người và xã hội loài người ở
đầu thế kỷ XXI vẫn còn bị tha hóa và mang
đầy khuyết tật mà Marx đã cảnh báo. Sự
thật này làm cho phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế rơi vào thoái trào, niềm
tin vào chủ nghĩa xã hội ít nhiều rơi rụng.
Mặc dù vậy, lý tưởng của Marx và của chủ
nghĩa Marx, đặc biệt về xóa bỏ áp bức bóc
lột và giải phóng con người, về tự do của
con người… vẫn không phải là cái có thể
đem đồng nhất với sự tồn tại của các xã hội
thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây.
Terry Eagleton là một trong số các tác giả
đã có những lý lẽ tương đối thuyết phục cho
vấn đề này (Xem: Terry Eagleton, 2012).
Để lý giải sức thu hút đáng ngạc nhiên
của Marx và của học thuyết Marx trong thế
kỷ XXI, chúng tôi xin góp thêm một số ý
kiến sau:
Thứ nhất, với chủ nghĩa Marx, đời
sống xã hội cùng những biểu hiện phức
tạp muôn vẻ của nó, bao gồm cả những
hiện tượng may rủi bất ngờ, hay các cuộc
cách mạng rung chuyển lịch sử… bao giờ
cũng là quá trình có cơ sở và điều kiện nhất
định, có động lực thực tế và có xu hướng
vận động không hề ngẫu nhiên, không
nằm ngoài sự quy định và quyết định của
những quy luật khách quan của lịch sử loài
người. Đó là quá trình vận động theo chiều
tiến bộ, dù vẫn không hiếm khi phải trải
qua những bước quanh co hoặc thụt lùi
tương đối.
Từ xã hội tiền sử đến xã hội mai sau,
mọi sự biến xã hội - tất cả đều không thần
bí. Các nhà kinh điển thậm chí còn chỉ
6
ra rằng “Nếu như không có Napoleon thì
người khác sẽ đóng vai trò của ông ta.
Điều đó được chứng minh bởi một sự thật
là bất cứ khi nào cần có một người như
vậy thì đều có một người như vậy: Cesar,
Augustuts, Cromwell, v.v…” (K. Marx, F.
Engels Toàn tập, tập 39, 1999: 273).
Nhìn xã hội loài người trong một trật tự
có logic, có quy luật và có thể lường trước
được là ước mơ của mọi tư duy duy lý,
của mọi nhận thức khoa học, đặc biệt của
các nhà hoạt động xã hội ở tầm vĩ mô. Thế
giới hiện đại càng phức tạp và hỗn độn thì
con người lại càng muốn sắp xếp nó trong
tư duy sao cho buộc nó phải lộ ra những
khuynh hướng tất nhiên nhằm tìm kiếm
giải pháp khống chế, tác động. Hơn ai hết,
Marx và học thuyết Marx là địa chỉ hợp lý
nhất để thỏa mãn nhu cầu này.
Thứ hai, trong so sánh với các học
thuyết xã hội khác, học thuyết Marx là
một trong số hiếm hoi các học thuyết có
thiện cảm với người nghèo, bênh vực người
nghèo, đấu tranh không khoan nhượng cho
lợi ích của người nghèo. Không phải là
“liều thuốc giảm đau”, không “ban phát
lòng nhân đạo của kẻ bề trên”, học thuyết
Marx đã chỉ ra vị thế xã hội của người
nghèo, giai cấp nghèo, tầng lớp nghèo
trong việc tạo ra của cải xã hội, thúc đẩy sự
phát triển xã hội. Ngày nay, mặc dù thái độ
của các chính phủ và của các tổ chức quốc
tế đối với việc xóa bỏ nghèo đói ở các quốc
gia đã tích cực hơn và sâu sắc hơn nhiều
so với trước đây, tuy thế thái độ đó vẫn rất
khác với quan điểm của học thuyết Marx về
nghèo đói và giai cấp vô sản. Bước vào thế
kỷ XXI, vẫn chẳng có học thuyết nào khả
dĩ thay thế được chủ nghĩa Marx trong thái
độ đối với người nghèo.
Thứ ba, đối với các phong trào xã hội,
bên cạnh những quan điểm dẫn đường hợp
Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2018
lý, những phương pháp hoạt động xã hội
hữu hiệu, bao giờ cũng là một lý tưởng có
sức thu hút và lay động trái tim của đông
đảo những người tham gia. Gần 200 năm
qua, như Mark Skousen nhận xét, không có
nhà tư tưởng nào hay triết gia nào đem lại
sự say mê cuồng nhiệt đến như Marx. Ngày
nay, Marx vẫn là một thần tượng cách mạng
chứ không chỉ là nhà khoa học (Xem: Mark
Skousen, 2007: 64-104). Hiện thời, giới trẻ
và những người lao động, các phong trào
xã hội, các nhà hoạt động xã hội… vẫn khó
tìm được một học thuyết nào có thể thay thế
chủ nghĩa Marx trong việc nhen lên ngọn
lửa đấu tranh cho lý tưởng giải phóng con
người, hay cho việc giải quyết các vấn đề
xã hội và phấn đấu vì sự tiến bộ và công
bằng xã hội.
Đó là những lý do khách quan khiến
cho Marx và học thuyết Marx vẫn tồn tại và
có sức thu hút không kém phần mãnh liệt
trong thế kỷ XXI.
II. Những tư tưởng lớn của Marx về con
người
Kể từ khi Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844 được công bố lần đầu vào năm
1932, việc phê phán “Marx bỏ quên con
người” ở phương Tây có phần giảm bớt
(Xem: Erich Fromm, 1961; David Leopold,
2009; Steven Lukes, 1982; Justine Lacroix,
2012). Tuy nhiên từ đó, trong xu hướng tìm
tòi những tư tưởng của Marx về con người,
việc khai thác, suy diễn của hậu thế đôi khi
lại đi quá xa. Những nội dung tư tưởng của
Marx về con người, như có thể thấy trong
nhiều tài liệu đã xuất bản, thường được trình
bày theo những cách mà người ta không
biết có đúng Marx quan niệm như thế hay
không (Xem: Философия. Oсновные идеи
и принципы, 1985; П.С. Гуревич, 2001;
Философия. Учебник для вузов, 2005;
А.Г. Спиркин, 2006).
Marx trong thế kỷ XXI...
Trong bài viết này, “Marx về con
người” được lựa chọn và trình bày với 5 tư
tưởng lớn mà chính Marx đã viết. Chúng
tôi muốn bám thật sát kinh điển, không
thêm vào Marx những điều ông không nói.
Gọi là “những tư tưởng lớn” vì trước hết
đó là những tư tưởng thực sự có chiều kích
vĩ đại, đã từng đóng vai trò dẫn dắt nhiều
hoạt động chính trị - xã hội trong hơn một
thế kỷ qua. Hơn thế nữa, những tư tưởng
đó còn là những tiền đề lý luận và phương
pháp luận cơ bản, có ảnh hưởng khá rõ đến
sự tiến triển của khoa học. Hiện thời những
tư tưởng này vẫn đang là tiền đề thực sự cốt
lõi trong một số lý thuyết xã hội hiện đại và
một số khoa học về con người.
1. Con người là một thực thể tự nhiên
có tính người
Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844, Marx khẳng định: Con
người “là thực thể tự nhiên có tính chất
người” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập
42, 2000: 234).
Thực ra, quan niệm xem con người là
một thực thể tự nhiên là tư tưởng của L.
Feuerbach, người được Marx đánh giá là
đã có công “làm cho quan hệ xã hội của con
người với con người trở thành nguyên tắc
cơ bản của lý luận”. Feuerbach cho rằng,
con người là một thực thể đặc biệt của tự
nhiên. Đặc biệt vì nó là thực thể duy nhất
có ý thức. Tuy vậy, việc xác định bản chất
của nó cũng phải được tiến hành tương tự
như đối với mọi sinh vật khác, tức là phải
xác định bằng tính chất của các “đối tượng
bên ngoài” như không khí, nước, ánh
sáng, thức ăn, vật liệu hoạt động… - cái
đảm bảo cho con người tồn tại một cách
tất yếu và hiện thực. Tiếp thu quan niệm
này, Marx nhấn mạnh: “Con người trực
tiếp là thực thể tự nhiên” (Man is directly
a natural being). Marx giải thích: với tính
7
cách là thực thể tự nhiên, hơn nữa, lại là
“thực thể tự nhiên sống”, con người, một
mặt, được phú cho sức mạnh tự nhiên
dưới hình thức các “năng lực” “thiên
bẩm”, “năng khiếu”, nhưng mặt khác, con
người còn “bị quy định và bị hạn chế” bởi
những “đối tượng” tự nhiên bên ngoài nó,
“những đối tượng không phụ thuộc vào
nó” nhưng lại “cần thiết” và “căn bản” để
nó thể hiện và khẳng định mình. Cho nên
về phương diện này, con người là “thực
thể đau khổ” (“Suffering Being”- Marx
dùng lại thuật ngữ của Feuerbach, với
hàm nghĩa là con người buộc phải chịu sự
quy định của tự nhiên). Marx nói rõ thêm:
“Thực thể không có tự nhiên ở bên ngoài
nó thì không phải là thực thể tự nhiên,
nó không tham gia vào đời sống của tự
nhiên” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập
42, 2000: 232-233).
Có thể thấy đây là quan niệm rất sâu
sắc và có lẽ hơi khác với quan niệm hiện
đại về mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Hiện thời, ngay cả quan niệm phát
triển bền vững, một quan niệm chủ trương
coi việc bảo vệ môi trường như một thành
tố đầu vào của sự phát triển xã hội và phát
triển con người, cũng không xem tự nhiên
là một cái gì đó lớn đến mức như Feuerbach
và Marx đã luận giải (Dĩ nhiên, các quan
niệm hiện đại không hề xem thường sức
mạnh tự nhiên ngự trị trong và ngoài con
người. Chính vì thế mới cần suy ngẫm: Tại
sao hơn một trăm năm trước, Feuerbach và
Marx lại đề cao yếu tố tự nhiên trong sự tồn
tại của con người đến thế, và ngày nay, liệu
có cần một lần nữa nhấn mạnh cái tự nhiên
như thế hay không?).
Mặc dù tiếp thu quan điểm đề cao
yếu tố tự nhiên trong sự tồn tại người của
Feuerbach, song Marx không dừng lại ở tư
tưởng của Feuerbach, mà đi xa hơn và hoàn
8
chỉnh khái niệm con người của mình. Marx
viết: “Nhưng con người không chỉ là thực
thể tự nhiên, nó là thực thể tự nhiên có tính
chất người, nghĩa là thực thể tồn tại cho bản
thân mình và do đó là thực thể loài. Nó phải
biểu hiện và tự khẳng định như là thực thể
loài trong tồn tại của nó cũng như trong tri
thức của nó”(*) (K. Marx, F. Engels Toàn
tập, tập 42, 2000: 234).
Con người là thực thể tự nhiên có tính
chất người - Có thể coi đây là định nghĩa
khái niệm con người của Marx. Theo chúng
tôi, cả về mặt hình thức trình bày cũng như
mặt nội dung và tầm vóc của tư tưởng được
diễn đạt, mệnh đề này đều đáp ứng những
yêu cầu khắt khe của một định nghĩa.
2. Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của
con người
Trong chủ đề về mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên, tư tưởng độc đáo nhất
của Marx là tư tưởng cho rằng giới tự nhiên
là thân thể vô cơ của con người.
Khi phân tích sự tha hóa của giới tự
nhiên, một hậu quả của lao động bị tha
hóa, Marx cho rằng, “giới tự nhiên là một
bộ phận của đời sống con người”. Vì hai lý
do: “thứ nhất, giới tự nhiên là tư liệu sinh
sống trực tiếp đối với con người, và thứ
hai giới tự nhiên là vật liệu, đối tượng và
công cụ của hoạt động sinh sống của con
người”. Theo nghĩa ấy, giới tự nhiên cũng
là thân thể - thân thể vô cơ - của con người.
Marx viết: “Giới tự nhiên - cụ thể là giới tự
nhiên trong chừng mực nó không phải là
thân thể của con người - là thân thể vô cơ
(*)
“But man is not merely a natural being: he is a
human natural being. That is to say, he is a being
for himself. Therefore he is a species-being, and has
to confirm and manifest himself as such both in his
being and in his knowing” (Trong phần Critique of
Hegel’s Philosophy in General).
Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2018
của con người. Con người sống bằng giới
tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là
thân thể của con người, thân thể mà với nó
con người phải ở lại trong quá trình thường
xuyên giao tiếp để tồn tại” (K. Marx, F.
Engels Toàn tập, tập 42, 2000: 135). Ở một
đoạn khác, Marx còn nêu một ý tưởng rất
hay có thể dùng để giải thích cho điều này.
Marx cho rằng, đời sống của con người
không những được duy trì nhờ dựa vào giới
tự nhiên mà hơn thế nữa, giới tự nhiên còn
là nguồn gốc của đời sống con người. Nếu
con người không tự nó sáng tạo ra bản thân
nó, thì tất nhiên kẻ sáng tạo ra nó phải ở bên
ngoài nó. Kẻ đó chính là giới tự nhiên. Đó
là lý do giải thích tại sao trong ý thức thông
thường, sự sáng tạo của con người lại là
biểu tượng rất khó từ bỏ. Nói chung, quần
chúng không thể hiểu được “sự-tồn-tạithông-qua-mình của tự nhiên” (K. Marx, F.
Engels Toàn tập, tập 42, 2000: 180).
Chúng tôi xem quan điểm “giới tự
nhiên là thân thể của con người” là tư tưởng
độc đáo, vì trong chừng mực mà chúng tôi
được biết, từ thời cổ đại cho đến ngày nay,
ngoài Marx, không có ai coi giới tự nhiên là
thân thể của con người. Hầu hết các trường
phái triết học phương Đông cổ đại tuy đề
cao triết lý con người hòa hợp với tự nhiên,
coi con người với giới tự nhiên là một, chủ
trương “thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân
tương giao”, song cũng không đến mức coi
tự nhiên là thân thể của con người.
Sự tinh tế và sâu sắc của Marx thể hiện
ở chỗ, vào thời của Marx, các vấn đề môi
sinh chưa đặt ra một cách gay gắt đối với
cuộc sống con người như ngày nay. Và dĩ
nhiên, thời đó, Marx chưa thể biết tới lỗ
thủng tầng Ozone, hiệu ứng nhà kính và
các hiện tượng sinh thái phức tạp khác mà
ngày nay chúng ta hay gọi là nguy cơ khủng
hoảng sinh thái. Thế mà giới tự nhiên lại
Marx trong thế kỷ XXI...
được Marx coi là thân thể - thân thể vô cơ
của con người. Marx muốn nói rằng, mọi
tác động của con người đến giới tự nhiên,
đều có nghĩa là tác động đến thân thể con
người. Làm tổn hại giới tự nhiên nghĩa là
làm tổn hại chính con người. Đây không
phải là điều suy diễn, mà chính Marx nói
thế. Ông viết: “Nói rằng đời sống thể xác
và tinh thần của con người gắn liền với
giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có
nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với giới tự
nhiên, vì con người là một bộ phận của giới
tự nhiên” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập
42, 2000: 135).
3. Con người là những cá nhân hiện
thực, là hoạt động của họ và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của họ
Trong Hệ tư tưởng Đức, Marx và
Engels viết: “Những tiền đề xuất phát của
chúng tôi không phải là những tiền đề tùy
tiện, không phải là giáo điều; đó là những
tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ
qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những
cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ,
những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng
như những điều kiện do hoạt động của
chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề
ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con
đường kinh nghiệm thuần túy” (K. Marx,
F. Engels Toàn tập, tập 3, 1995: 29). “Hoạt
động sống của họ như thế nào thì họ như
thế ấy. Do đó, họ là như thế nào, điều đó ăn
khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản
xuất ra cũng như với cách mà họ sản xuất.
Do đó, những cá nhân là thế nào, điều đó
phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của
sản xuất của họ” (K. Marx, F. Engels Toàn
tập, tập 3, 1995: 30).
Vấn đề là ở chỗ, khi nói tới con người,
nếu chỉ chú ý đến con người sinh học thì
con người ở các thời đại chẳng khác nhau
9
là bao. Vậy sự khác nhau giữa những con
người, trên thực tế, là khác nhau về cái gì?
Marx cho rằng chỉ có thể hiểu được con
người khi xuất phát từ những tiền đề hiện
thực trong nghiên cứu con người. Đó là
hoạt động và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của con người. Nói chính xác hơn
đó là con người trong hoạt động và trong
điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những
điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như
những điều kiện do hoạt động của chính
họ tạo ra.
Đây là những tư tưởng rất căn bản đặt
nền móng cho sự ra đời của lý thuyết hoạt
động mà các nhà khoa học Xô viết đầu thế
kỷ XX như A.R. Luria, L.S. Vưgosky, N.A.
Leonchiev, X.L. Rubenstein… cùng với
nhiều nhà tâm lý học Đức, Pháp, Bungari
đã phát triển thành một trường phái học
thuật nghiên cứu tâm lý người. Trường
phái này chủ trương giải thích mọi hiện
tượng tâm lý, kể cả những hiện tượng phức
tạp nhất, bằng hoạt động, bằng giao tiếp
và trong các mối quan hệ xã hội. Tâm lý
người, vì thế, mang bản chất xã hội, là sản
phẩm của hoạt động và giao tiếp. Trường
phái này đã đạt được nhiều thành tựu và có
ảnh hưởng đáng kể trong tâm lý học, giáo
dục học… đến tận ngày nay (Xem: Steven
J. Haggbloom, 2002: 139-152).
4. Bản chất con người là tổng hòa các
quan hệ xã hội
Trong Luận cương thứ VI về Feuerbach,
Marx viết: “Feuerbach hòa tan bản chất tôn
giáo và bản chất con người. Nhưng bản
chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội” (K. Marx,
F. Engels Toàn tập, tập 3, 1995: 11).
Trong suốt nhiều thập niên ở thế kỷ
XX, luận cương này đã trở thành tiền đề
10
phương pháp luận cho nhiều nghiên cứu,
khám phá khoa học và hoạch định những
kế hoạch cải tạo xã hội.
Trên thực tế, luận cương này đã ghi
nhận mâu thuẫn thực tế của bản chất con
người và loài người. Bản chất con người
quy định và định hình mỗi cá nhân, mỗi
cộng đồng, là phẩm chất không nằm ngoài
từng cá nhân riêng rẽ, song bản chất ấy
lại không phải là cái gì đó cô lập, trừu
tượng, tách biệt với lịch sử và với thế giới
xung quanh như Feuerbach và người đời
vẫn hình dung. Bản chất ấy hóa ra lại là
kết quả tổng hợp (tổng hòa) của tất cả các
quan hệ xã hội mà mỗi chủ thể phải giao
tiếp - các quan hệ xã hội thực tế, từ thiêng
liêng, cao cả tới bình thường, hàng ngày trong tính hiện thực của nó. I.T. Frolov coi
luận cương này là một trong những điểm
sâu sắc và sáng chói nhất của tư tưởng
Marx, là phát kiến có tầm rộng nhất về
con người, đạt tới tầm công thức tìm tòi
vĩ đại. Frolov cho rằng, trong lịch sử nhận
thức khoa học, khó mà tìm thấy một chân
lý nào mà thoạt nhìn thì rất đơn giản và
hiển nhiên, nhưng thực ra lại rất sâu sắc
mà phải qua nhiều thế kỷ, với những tìm
tòi khó khăn trong những cuộc đấu tranh
tư tưởng khốc liệt mới có thể tìm ra và
khẳng định được.
Những năm 1980, luận cương này đã ít
nhiều chịu sự phê phán là xem nhẹ yếu tố
cá nhân, cá thể và sinh học. Các nhà khoa
học đã tiến hành những kiểm chứng bằng
nhiều cách thức khác nhau. Cuối cùng, mặc
dù vẫn còn tranh cãi song người ta đã ghi
nhận rằng, bản chất con người dẫu sao vẫn
là trên cá nhân (phi cá nhân), “nó không
định hình dưới hình thức cá nhân” (не
имеет персо-нифицированной формы)
và nó buộc phải thể hiện ra như là tổng hòa
(tổng thể hòa đồng) của toàn bộ các quan
Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2018
hệ xã hội (Xem: V.E. Davidovich, 2003:
341-342).
Về phương diện khoa học, nhận định
này cho phép lý luận phân loại các loại bản
chất người và điều đó có ý nghĩa đáng kể
trong hoạt động thực tiễn.
5. Sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả
mọi người
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
Marx và Engels viết: “Sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người” (K. Marx, F.
Engels Toàn tập, tập 4, 1995: 628).
Marx và Engels giải thích, sau khi các
quan hệ tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ trong
xã hội loài người, giai cấp vô sản và chế độ
của họ sẽ không thể tồn tại mãi. Khi hoàn
thành sứ mệnh của mình, chế độ đó phải
nhường chỗ cho “một liên hiệp của các cá
nhân”, tức là một kiểu tổ chức xã hội hoàn
toàn mới trong lịch sử, xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Ở đó, sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người.
Cần thiết phải nói rằng, trong đời
sống tinh thần nhân loại, tự do xưa nay
luôn là lý tưởng cao cả của tất cả các giai
tầng, dù là thượng lưu hay chỉ là bình dân.
Tôn giáo nào cũng răn dạy con người phải
tôn trọng tự do của người khác bằng cách
tiết chế tự do cá nhân. Triết học Hegel
cũng đề cao “ý thức về tự do” nhưng
trong tương quan với sự nhận thức về cái
tất yếu. Nghĩa là về thực chất, tự do mỗi
cá nhân không thể tránh khỏi làm hạn chế
tự do của người khác và của toàn xã hội.
Mỗi triết thuyết, mỗi tôn giáo đều đưa ra
những cách thức, những phương án của
riêng mình để giải quyết mâu thuẫn này.
Nhưng điều đáng chú ý là, không có học
thuyết nào, tôn giáo nào nhận thấy giữa
Marx trong thế kỷ XXI...
tự do cá nhân và tự do của kẻ khác lại có
thể tương dung với nhau, thậm chí là điều
kiện cho nhau, như Marx.
Đây rõ ràng là quan niệm độc đáo và
hấp dẫn của Marx. Xã hội tương lai sẽ là
một “liên hợp của các cá nhân”, ở đó, sự
phát triển tự do của người này có vai trò tạo
điều kiện để người khác được phát triển tự
do hơn. Quan niệm mới nhất về phát triển
con người của các tổ chức quốc tế ngày nay
cũng khó đạt tới trình độ như vậy.
Thay lời kết
Mặc dù chủ nghĩa Marx vẫn đang bị
hoài nghi ở mức độ không nhỏ và chủ nghĩa
xã hội vẫn đang phải đối mặt với thái độ
không mấy tin tưởng, nhưng với Marx - với
tính cách là nhà tư tưởng, là nhà khoa học
và là một con người… - thì thái độ của hậu
thế lại gần như hoàn toàn khác. Thời gian
càng trôi đi, tầm vóc của ông càng trở nên
vĩ đại, dù đây đó vẫn có người nhìn nhận và
đánh giá ông với thái độ tiêu cực.
Với tính cách là một con người,
Marx tự thừa nhận tất cả những gì thuộc
về con người đều không xa lạ đối với
tôi (Nihil humani a me alienum puto)
( />works/1865/04/01.htm). Thái độ này cho
thấy Marx hiểu sâu sắc gốc rễ của con
người là chính bản thân con người (K.
Marx, F. Engels Toàn tập, tập 1, 1995:
580)(*). Con người là thực thể tự nhiên
có tính người, tức là những cá nhân hiện
thực, là sản phẩm của hoạt động của chính
con người. Marx vĩ đại và được ngưỡng
mộ, vì trước hết, ông không phải là thần
thánh - tư tưởng của ông là tư tưởng của
một con người.
“Triệt để có nghĩa là hiểu được sự vật đến tận gốc
rễ của nó. Nhưng gốc rễ của con người là chính bản
thân con người”.
(*)
11
Với tính cách là nhà khoa học, Marx
tự thừa nhận là người hoài nghi tất cả (De
Omnibus Dubitandum). Trên lập trường
khách quan này, ông đã cống hiến cho nhân
loại nhiều phát minh có ý nghĩa “vạch thời
đại”, trong đó có những phát minh về Giá
trị thăng dư, về Chủ nghĩa duy vật lịch sử,
về Hình thái kinh tế - xã hội… Từ những
phát minh rất cơ bản đó, lịch sử xã hội loài
người hiện ra trong sự vận động không hề
ngẫu nhiên, mà có những nền tảng và những
động lực thực sự, tuân theo những quy luật
khách quan, tất yếu của tiến bộ xã hội.
Với tính cách là nhà tư tưởng, Marx
được đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất
trong lịch sử loài người hơn 1.000 năm qua
- nhà tư tưởng của các giải pháp trần thế
thực hiện khát vọng xóa bỏ mọi áp bức, bóc
lột, bất công, chủ trương xây dựng một xã
hội mà ở đó, tự do của mỗi người là điều
kiện cho tự do của tất cả mọi người.
Ngày nay, những người lao động, các
phong trào xã hội, các nhà hoạt động xã hội
và nhân loại tiến bộ vẫn chưa tìm thấy một
nhà tư tưởng nào khác có thể thay thế Marx
trong việc nhóm lên ngọn lửa đấu tranh cho
việc giải quyết các vấn đề xã hội và phấn
đấu cho lý tưởng cao đẹp về tiến bộ xã hội
và giải phóng con người
Tài liệu tham khảo
1. Alanna Petroff (2018), Karl Marx €0
bills are red hot, .
com/2018/04/19/news/zero-0-eurobills-bank-notes-germany-karl-marx/
index.html
2. David Leopold (2009), The Young Karl
Marx. German Philosophy, Modern
Politics and Human Flourishing,
Cambridge University Press.
3. Erich Fromm (1961), Marx’s Concept
of Man. With a Translation of
Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2018
12
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Marx’s Economic and Philosophical
Manuscripts by T. B. Bottomore,
Frederick Ungar, New York.
Justine Lacroix (2012), “Was Karl
Marx truly against human rights?
Individual emancipation and human
rights theory”, Revue française de
science politique, 2012/3 (Vol. 62), pp
433-451,
o/
article-E_RFSP_623_0433--was-karlmarx-truly-against-human-rights.htm.
K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 1 (1995);
tập 3 (1995); tập 4 (1995); tập 39 (1999);
tập 42 (2000); Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
Mark Skousen (2007), The Big Three
in Economics: Adam Smith, Karl
Marx and John Maynard Keynes, M.E.
Sharpe, New York.
Marx’s K. “Confession”. Zalt-Bommel,
1 April 1865, />archive/marx/works/1865/04/01.htm
Susan Berry (2016), Karl Marx’s
‘Communist
Manifesto’
Ranked
Among Top Three Assigned College
Texts,
/>Steven J. Haggbloom (2002), “The
100 Most Eminent Psychologists of
the 20th Century”, Review of General
Psychology, Vol. 6, No. 2, 139-152.
10. Steven Lukes (1982), “Can a Marxist
believe in human rights?”, Praxis
International, Issue: 1(4).
11. Terry Eagleton (2012), Tại sao Marx
đúng, Nxb. Chính trị - Hành chính,
Hà Nội.
12. Thomas Piketty (2014), Le Capital au
XXI siècle, Pub. Éditions du Seuil,
Paris; Thomas Piketty (2014), Capital
in the Twenty-First Century, Translated
by Authur Gold Hammer, The Belknap
Press of Harvard University Press,
London.
13. V.E. Davidovich (2003), Dưới lăng
kính triết học, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
14. World Marx the millennium’s ‘greatest
thinker’, />1545.stm
15. А.Г. Спиркин (2006), Философия,
Гардарики, Москва.
16. П.С. Гуревич (2001), Философская
антропология, Nota Bene, Москва.
17. Философия. основные идеи и
принципы
(1985),
Политиздат,
Москва.
18. Философия. Учебник для вузов
(2005), Под общ. ред. док. проф. В.
В. Миронова, Москва.