Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

tư tưởng hồ chí minh về con người và giải phóng con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.93 KB, 25 trang )

1


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN TRUNG DŨNG




TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CON NGƯỜI
VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI



Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số : 62.22.80.01




TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC







TP. HỒ CHÍ MINH – 2012





1


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề giải phóng con người, giúp con người thoát khỏi mọi sự
đau khổ, đem lại cho con người một cuộc sống tự do, hạnh phúc là
khát vọng ngàn đời của nhân loại, và cũng là điều quan tâm lớn nhất
của các nhà tư tưởng ở mọi thời đại.
Hiện nay, trên thế giới diễn ra quá trình toàn cầu hóa hết sức
mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia, dân tộc ngày càng gia tăng. Bên cạnh bức tranh sinh
động của đời sống thế giới về kinh tế, chính trị, văn hóa, chúng ta vẫn
thấy nổi lên ở đây đó sự xung đột về sắc tộc, tôn giáo, chính trị,…
như những dấu hiệu không tốt trong quá trình phát triển. Vấn đề về
giải phóng con người tưởng chừng là những vấn đề cũ của quá khứ,
nhưng thực chất trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai lại
đang trở thành vấn đề nóng, mang tính thời sự với những yêu cầu cấp
thiết, cần phải giải quyết một cách khoa học và hợp đạo lý, để cùng
chung sống hòa bình, cùng hợp tác và phát triển.

Trong quá trình hơn hai mươi năm đổi mới, phát triển trên tất cả
các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng, Việt Nam đã và
đang đạt được những thành tựu to lớn cả về nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Đời sống của nhân dân đã không ngừng được nâng lên, con
người với tư cách là chủ thể xã hội, đã có nhiều cơ hội để phát huy khả
năng của mình, an ninh xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh đó
trên phương diện thực tiễn, vẫn còn rất nhiều những vấn đề lớn đặt ra
cho khoa học lý luận phải tập trung nghiên cứu, đưa ra những định
hướng giải quyết. Chẳng hạn, như vấn đề mối quan hệ giữa lợi ích và
quyền tự quyết của dân tộc với yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế; giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; vấn đề giải
phóng con người trong mối quan hệ với sự phát triển không đồng đều
giữa các vùng, khu vực và giữa các cá nhân; và v.v
Xét cho đến cùng, tất cả những vấn đề cơ bản nêu trên, về thực
chất đó là vấn đề về con người và giải phóng con người. Ở đây, chúng
ta có thể tìm thấy những nội dung mang tính lý luận và phương pháp
luận về con người và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bằng thực tiễn hoạt động cách mạng sinh động của mình, trên
cơ sở sự kế thừa và phát triển xuất sắc những tư tưởng tiến bộ về con
người và giải phóng con người trong lịch sử, đặc biệt là sự vận dụng tư
tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng con người, Hồ Chí
2


Minh đã xây dựng được hệ thống tư tưởng về vấn đề con người và giải
phóng con người một cách sâu sắc và toàn diện.
Trong những năm gần đây, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, vấn
đề về con người và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
nói riêng đã được nhiều nhà khoa học ở trong và ngoài nước nghiên
cứu. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một tác giả và công trình

khoa học nào nghiên cứu về vấn đề con người và giải phóng con người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống và hoàn chỉnh. Vì
vậy, một mặt với mong muốn làm rõ thêm, phong phú thêm tư tưởng
khoa học về vấn đề con người và giải phóng con người của Hồ Chí
Minh nói riêng, sự đóng góp của Người vào kho tàng lý luận và lịch sử
tư tưởng Việt Nam nói chung; mặt khác với mong muốn góp phần giải
đáp những vấn đề lý luận về giải phóng con người do thực tiễn hiện
nay đang đặt ra, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người và giải phóng con người” làm đề tài nghiên cứu cho luận
án tiến sĩ triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người đã
có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích dưới nhiều góc độ khác
nhau với nhiều tác phẩm, nhiều bài báo khoa học được công bố. Tác
giả Thành Duy với tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện (Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001); Lê Sỹ Thắng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
và chính sách xã hội (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); Thành
Duy: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với con
người (Tạp chí Lịch sử Đảng, tr. 24-30, số 12-2005); Tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền con người (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005) của
tác giả Phạm Ngọc Anh (chủ biên);… Trong số ít tác phẩm trình bày
vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh với tính cách là một
công trình chuyên khảo, đáng chú ý nhất là tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002) của tác giả
Lê Quang Hoan. Nội dung của công trình này đã nêu khái quát những
vấn đề lớn: con người là vốn quý nhất, con người vừa là mục tiêu vừa
là động lực của cách mạng; xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người được nghiên cứu
trong mối quan hệ với dân tộc, giai cấp được các tác giả đề cập và

phân tích trong các tác phẩm đã được công bố như: Võ Nguyên Giáp
(chủ biên) với tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); F. Motoo: Hồ
3


Chí Minh giải phóng dân tộc và đổi mới (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997); tác giả Bùi Đình Phong với tác phẩm Giải phóng dân tộc
và đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh (Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004); Nguyễn Đức Đạt: Tư tưởng biện chứng Hồ Chí
Minh (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005); Phạm Hồng Chương:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); Bùi Bá Linh: Tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và cách mạng xã hội (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005);…
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới cũng được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu như tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa và con người của các tác giả Đặng Xuân Kỳ, Vũ Khiêu,
Hoàng Chí Bảo, Đỗ Huy (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005);
Trần Quy Nhơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau (Nxb. Giáo dục, 2004); Phạm Quốc Thành: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cho cán bộ đảng viên (Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004);…
Nhìn chung, các tác phẩm trên chưa thấy được tính toàn diện
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người.
Tuy nhiên, đây là những tài liệu quý giá để tác giả luận án tổng hợp, kế
thừa và phát triển.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là tập trung nghiên cứu làm rõ một cách có
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người;

trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hướng đến giải phóng con người
ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
Một là, trình bày khái quát về vấn đề con người và giải phóng con
người trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Hai là, trình bày, phân tích làm rõ những nội dung cơ bản vấn đề
con người và giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là, rút ra bài học lịch sử của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
và giải phóng con người, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện
mục tiêu giải phóng con người ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh sâu sắc, phong phú, sinh động,
phản ánh và có sự ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng trong đời sống xã hội. Do đó,
4


trong luận án này, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu là chỉ tập
trung vào việc làm rõ vấn đề con người và giải phóng con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về vấn đề con người và giải phóng con người.
Để phù hợp với đối tượng nghiên cứu, luận án sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: lôgíc - lịch sử, quy nạp - diễn
dịch, phân tích - tổng hợp, thống kê,…
6. Cái mới của luận án

- Luận án đã trình bày khái quát những nội dung cơ bản về vấn đề
con người và giải phóng con người trong lịch sử triết học.
- Luận án đã trình bày, phân tích một cách có hệ thống và làm
sáng tỏ được những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và giải phóng con người.
- Luận án cũng đã tập trung nghiên cứu, lý giải và đề xuất được một
số giải pháp cơ bản có tính chất định hướng nhằm góp phần vào sự
nghiệp xây dựng, phát triển và giải phóng con người ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận của luận án:
Luận án góp phần nghiên cứu và hệ thống hoá tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và giải phóng con người.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở lý luận
mang tính phương pháp luận trong việc giải quyết vấn đề giải phóng
con người trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu về tư tưởng
Hồ Chí Minh và các lĩnh vực khoa học xã hội có nội dung liên quan
đến vấn đề con người và giải phóng con người.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để giáo dục truyền
thống cách mạng, trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để phát
huy tinh thần đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm ba chương, chín tiết.
5


PHẦN NỘI DUNG


Chương 1
KHÁI QUÁT VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

1.1. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
1.1.1. Vấn đề con người và giải phóng con người trong triết
học Ấn Độ
Tư tưởng triết học Ấn Độ cổ - trung đại phản ánh sâu sắc tính chất
kiên cố của chế độ công xã nông thôn với nền kinh tế tự nhiên tự cung,
tự cấp, cuộc đấu tranh lâu dài chống sự phân biệt đẳng cấp, chế độ xã
hội nô lệ mang nặng tính chất gia trưởng, chống lại uy thế của kinh
Veda và tôn giáo Bàlamôn, đề cao bản chất, giá trị con người, bảo vệ
quyền sống của con người, giải phóng con người.
Nội dung chính trong hệ thống quan niệm về con người của tất cả
các trường phái triết học Ấn Độ cổ - trung đại là lý giải bản chất đời
sống tâm linh và con đường giải thoát con người khỏi “bể khổ”, khỏi
sự ràng buộc về đời sống trần tục vật chất. Con người là điểm xuất
phát, “giải thoát” là mục đích cao nhất và cuối cùng của triết học Ấn
Độ cổ - trung đại. Các trường phái triết học cho rằng muốn giải thoát
con người thì phải dốc lòng tu luyện tri thức, chiêm nghiệm nội tâm,
thực nghiệm tâm linh, diệt trừ dục vọng, xóa bỏ vô minh, từ bỏ tham,
sân, si,… Các tư tưởng về con người và giải phóng con người ở Ấn Độ
đều mang tính nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, các trường phái triết học
không nhận thức cuộc đời con người là do chính con người tạo ra,
không thấy được căn nguyên xã hội của sự thống khổ, cho nên chưa
tìm ra được con đường và biện pháp đúng đắn để xóa bỏ tận gốc rễ
những bất công trong xã hội. Họ mới chỉ cố gắng giải thoát con người
về mặt ý thức, tinh thần chứ chưa đưa ra con đường, nhằm giải phóng

con người về mặt hiện thực.
1.1.2. Vấn đề con người và giải phóng con người trong triết
học Trung Quốc
Xã hội Trung Hoa cổ đại có những biến động lịch sử hết sức sâu
sắc. Mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ mới lên không được tham gia
chính quyền với tầng lớp quý tộc cũ đang nắm chính quyền, ngày càng
gay gắt. Sự biến động của kinh tế - xã hội đã quy định sự biến đổi của
lĩnh vực tư tưởng với nội dung cơ bản là “lấy quan hệ con người với
6


con người, con người với cộng đồng nói chung làm điểm xuất phát và
nhằm cuối cùng là ổn định, điều hòa mối quan hệ đó”
1
.
Trong triết học Trung Quốc cổ đại, các nhà triết học bằng nhiều
cách khác nhau đều quan tâm đến con người, bản tính con người, luôn
đề cao tính nhân văn và khẳng định các giá trị tích cực của con người.
Con người được xem xét trong các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội,
qua đó đề cao vai trò con người, nhưng không tuyệt đối hóa con người.
Con người được cho là sản phẩm của đạo biến hóa trong trời đất, là kết
quả của sự tương tác chuyển hóa giữa hai thế lực căn bản trong vũ trụ
như “lý” – “khí”, “âm” – “dương”, mối quan hệ giữa trời và người,…
Tuy nhiên, các triết gia Trung Hoa cổ đại khi bàn đến con người, chủ
yếu mới chỉ chú trọng đến con người cá nhân, đến phẩm chất tinh
thần, ý thức đạo đức của con người. Nhằm mục đích giáo hóa con
người và cải biến xã hội loạn lạc đương thời, nên các nhà triết học thời
kỳ này đặc biệt quan tâm đến bản tính con người, coi bản tính con
người là biểu hiện của cái thiện hoặc cái ác, của tính trời hay tính thuộc
về nhân tâm,… Sau khi xác định bản tính con người, các nhà triết học

đưa ra các nội dung để giáo hóa con người. Các trào lưu tư tưởng đã
đưa ra nhiều cách thức khác nhau để giáo hóa con người như “tu thân”,
“chính danh” của Nho gia; “kiêm ái” của Mặc gia, dùng pháp luật của
Pháp gia, Việc hoàn thiện, giáo hóa con người được thể hiện khá
phong phú nhưng đều quy vào những mẫu người lý tưởng như “quân
tử”, “đấng trượng phu”, “thánh nhân”, “chân nhân”, “trí nhân”, Do
hạn chế lịch sử và lập trường giai cấp, cho nên các nhà triết học thời kỳ
này chưa thực sự quan tâm đến người dân lao động, chưa tìm cách giải
phóng con người hiện thực một cách hữu hiệu và triệt để. Những
phương pháp hoàn thiện con người lại ràng buộc con người vào trật tự,
các chuẩn mực và thể chế xã hội đó. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, con
người luôn là trung tâm và mục tiêu nhận thức trong triết học Trung
Quốc cổ đại.
1.2. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
1.2.1. Tư tưởng về con người và giải phóng con người trong
triết học phương Tây thời kỳ Cổ - Trung đại
Ngay từ khi mới ra đời, triết học phương Tây cổ đại đã xem con
người là một trong những vấn đề trung tâm để nghiên cứu, lý giải.

1
Vũ Minh Tâm (chủ biên) (1996): Tư tưởng triết học về con người. Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, tr. 31.
7


Cùng với việc lý giải về nguồn gốc, số phận, nỗi khổ đau, hạnh phúc,
của con người, nhiều nhà tư tưởng thời kỳ này còn muốn tìm ra con
đường để giải thoát khỏi những mâu thuẫn giai cấp và chỉ ra phương
hướng, biện pháp để thực hiện những khát vọng về một cuộc sống

hạnh phúc. Các nhà triết học phương Tây cổ đại đặc biệt quan tâm đến
vấn đề con người, khẳng định con người là vốn quý nhất, là trung tâm
hoạt động của thế giới. Con người không chỉ được xem như một thành
viên của vũ trụ, mà còn luôn chứng tỏ sự hiện hữu vượt trội của mình
nhờ có năng lực nhận thức ngang tầm với thần linh. Tuy các nhà triết
học đã cố gắng dùng lý trí của con người, để giải thích những vấn đề
liên quan đến đời sống con người, nhưng sự giải thích đó đều chứa
đựng những yếu tố thần thoại nhất định.
Thời kỳ Trung cổ là thời kỳ thống trị khắc nghiệt của tôn giáo và
thần học. Nhà trường và hệ thống giáo dục đều do giáo hội kiểm soát.
Các tín điều tôn giáo trở thành cơ sở cho tất cả các tư tưởng về tự nhiên,
xã hội và con người. Mọi trường phái triết học tiến bộ đều bị cấm và
những đại biểu của các trường phái ấy đều bị đàn áp. Tư tưởng triết học
thời kỳ này phục tùng thần học, theo chủ nghĩa duy tâm. Nội dung trọng
tâm của triết học Tây Âu thời trung cổ là giải quyết mối quan hệ giữa
niềm tin và tri thức, là sự biện minh của thần học. Các kết luận của triết
học đều được rút ra từ những giáo điều chung của giáo hội, luận chứng
về mặt triết học cho các tín điều tôn giáo. Triết học thời kỳ này hoàn
toàn bất lực trong việc cứu thoát con người. Con người trở nên nhỏ bé,
yếu ớt, bất lực trước cuộc sống nhưng phải bằng lòng với cuộc sống tạm
bợ ở trần thế để đi tìm đến hạnh phúc ở “thế giới bên kia”. Con người bị
thủ tiêu ý chí đấu tranh để tự giải thoát mình. Sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất vào giai đoạn cuối của thời kỳ Trung cổ dần dần đã
giải phóng tư tưởng của con người, đưa nhân loại bước sang một thời kỳ
mới, thời kỳ Phục hưng và Cận đại.
1.2.2. Tư tưởng về con người và giải phóng con người trong
triết học phương Tây thời kỳ Phục hưng và Cận đại
Triết học phương Tây thời kỳ Phục hưng và Cận đại là ngọn cờ lý
luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh với sự thống trị của giai
cấp phong kiến và ách chuyên chế của nhà thờ Thiên Chúa giáo. Chính

vì vậy, triết học thời kì này gắn liền với các tư tưởng khoa học và các
quan niệm về nhân bản. Vấn đề con người và giải phóng con người,
quan hệ giữa con người và thế giới, trở thành trung tâm của các quan
niệm triết học. Trong thời kỳ Phục hưng, các nhà tư tưởng tư sản đã
bênh vực triết học duy vật, vận dụng nó để chống lại chủ nghĩa kinh
8


viện và thần học Trung cổ. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật
chống lại chủ nghĩa duy tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc
thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức thực nghiệm đối lập với những
lập luận kinh viện. Sang thời kỳ Cận đại, khoa học tự nhiên – thực
nghiệm phát triển là nguyên nhân chủ yếu làm cho chủ nghĩa duy vật
thời kỳ này mang nặng tính máy móc, siêu hình. Quan niệm của họ về
con người đan xen cả yếu tố duy vật và yếu tố duy tâm. Đây là thời kỳ
đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ tư tưởng về con người. Con người,
sức mạnh trí tuệ của con người được đề cao, con người được coi là sản
phẩm tối cao và là tinh túy của Thượng đế. Con người đang được giải
thoát dần khỏi gông cùm chật hẹp của tôn giáo thời Trung cổ.
1.2.3. Tư tưởng về con người và giải phóng con người trong
triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức luôn đề cao vai trò tích cực của tư duy con
người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất
phát của mọi vấn đề triết học. Con người được các nhà triết học giải
thích theo nhiều cách khác nhau nhưng đều không chứng minh được
nguồn gốc đích thực của con người, phủ nhận sự tồn tại thực tế của con
người trong hiện thực khách quan. Ngay cả đại biểu cho phái dân chủ
cấp tiến nhất của giai cấp tư sản Đức vào giữa thế kỷ XIX là Phoiơbắc,
người bàn đến những vấn đề con người và xã hội hơn cả, cũng không
thấy được vai trò của các yếu tố kinh tế - xã hội tác động lên con người

và lịch sử phát triển loài người. Một mặt, ông cho rằng, con người không
phải là sản phẩm của thượng đế như các nhà thần học quan niệm, cũng
không phải là sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối như Hêghen nói mà con
người là sản phẩm, là kết quả của sự phát triển tự nhiên. Giữa con người
và tự nhiên nằm trong thể thống nhất hữu cơ không thể tách rời. Tự
nhiên tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, không phụ thuộc vào ý thức con người.
Mặt khác, trong khi ông kịch liệt phê phán chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo thì ông lại đi tìm một thứ tôn giáo mới, tôn giáo không có Thượng
đế, mà trung tâm của nó là bản thân con người. Ông quan niệm chính
thứ tôn giáo này là động lực phát triển của lịch sử, là sự thể hiện căn bản
nhất tình cảm của con người. Như vậy, mặc dù các nhà triết học trước
Mác đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nhận thức về vấn đề
con người và giải phóng con người nhưng còn nhiều vấn đề về con
người mà các nhà triết học chưa lý giải một cách triệt để, căn bản như
nguồn gốc, bản chất xã hội, vị trí và vai trò của con người.
1.2.3. Tư tưởng về con người và giải phóng con người trong
triết học phương Tây hiện đại
9


Các nhà triết học phương Tây hiện đại, thông qua các quan điểm
triết học của mình, đã cố gắng lý giải những mâu thuẫn xã hội và
khủng hoảng kinh tế của xã hội tư bản hiện đại. Những mâu thuẫn
trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội được các nhà triết học
quy giản lại thành mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội. Theo họ, để giải
quyết những xung đột và mâu thuẫn xã hội thì phải xuất phát từ cá
nhân, lấy con người cá nhân, cá thể làm động lực biến đổi xã hội; và
cuối cùng, con người trở về với chính mình, vì mình. Các nhà triết học
phương Tây hiện đại đặc biệt quan tâm đến vai trò của các yếu tố bẩm
sinh, di truyền và bản năng. Bản chất tự nhiên của con người là tuyệt

đối, bất biến và giữ vai trò quyết định đến toàn bộ phẩm chất của con
người. Các nhà triết học thời kỳ này phủ nhận vai trò của thế giới
khách quan đối với con người. Nhận thức của con người được xác định
từ các yếu tố cảm giác, cảm xúc, suy tư của mỗi người, hoặc chỉ là
những công thức đã được mã hóa. Vì từ bỏ nguyên tắc thực tiễn của
triết học, nên vấn đề về con người và giải phóng con người trong triết
học phương Tây hiện đại đã mang nhiều nội dung mang tính phi lịch
sử, phi hiện thực, phi lôgic, thụ động, tiêu cực. Tuy nhiên, với những
kết quả nghiên cứu của các nhà triết học phương Tây đạt được, chúng
ta nhận thức sâu sắc hơn sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội hiện đại; hiểu rõ hơn bản chất khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lênin.
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ TƯ
TƯỞNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VỀ CON NGƯỜI VÀ GIẢI
PHÓNG CON NGƯỜI
1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những tiến bộ trong quan niệm về
con người của các học thuyết triết học trước đó, đặc biệt là triết học của
G.Hêghen và L.Phoiơbắc, C.Mác khẳng định con người là sản phẩm tiến
hóa lâu dài của giới tự nhiên “giới tự nhiên là thân thể của con người,
thân thể mà với nó, con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên
giao tiếp để tồn tại”
1
. Trong mối quan hệ với tự nhiên, con người là một
thực thể sinh học có tính loài, chịu sự chi phối của các quy luật sinh học
giống như tất cả các thực thể sống khác. Tuy nhiên, con người không
nằm ngoài các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Mỗi con người
sinh ra trong một điều kiện tồn tại xã hội cụ thể, từ một tầng lớp hoặc
một giai cấp, quốc gia nhất định. Thông qua hoạt động vật chất của cá


1
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995): Toàn tập, tập 42. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 135.
10


nhân, mỗi con người tiếp nhận tri thức về bản chất của các sự vật, hiện
tượng, tiếp thu văn hóa, truyền thống của cộng đồng mà họ sống. Có
thể thấy rằng, bản chất của con người do xã hội quy định và bản chất
của con người phản ánh đặc trưng của xã hội đó. Bản chất không phải
là sản phẩm của tổng số giản đơn của các mối quan hệ xã hội mà đó là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội, con người là chủ thể sáng tạo của thế
giới. Đây là sự khác biệt về chất, giữa quan điểm của C.Mác với các
nhà triết học trước đó trong lịch sử.
1.3.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng
con người
C.Mác khẳng định chính sở hữu tư nhân, nhất là sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa là nguyên nhân chủ yếu và cơ bản nhất gây ra những
tai họa khủng khiếp cho con người, làm tha hoá con người. Để giải
phóng con người, cần phải xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
C.Mác viết: “xóa bỏ chế độ tư hữu có nghĩa là giải phóng hoàn toàn
tất cả những cảm giác và thuộc tính của con người”
1
. C.Mác đã khẳng
định, chủ nghĩa cộng sản chính là sự phủ định một cách tất yếu, tự
nhiên chế độ tư hữu và đây cũng là một bước tiến lớn trong lịch sử
giải phóng con người. C.Mác nhấn mạnh đến việc xóa bỏ chế độ tư
hữu không chỉ trong tư tưởng mà phải được thực hiện trong hiện thực.
Chỉ có chủ nghĩa cộng sản thì con người mới được giải phóng khỏi
tình trạng áp bức và “con người quay trở lại với chính mình với tính
cách là con người xã hội, nghĩa là có tính chất người”

2
.
1.3.3. Vấn đề con người và giải phóng con người trong lịch sử
tư tưởng Việt Nam
Phản ánh những đặc điểm cơ bản của lịch sử phát triển dân tộc, vấn
đề con người và giải phóng con người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam
tập trung vào các nội dung cơ bản: về đạo làm người, về vị trí và vai trò
của con người, về ý thức chủ quyền dân tộc, lòng tự hào dân tộc,…
Phân tích những nội dung cơ bản về vấn đề con người và giải
phóng con người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, chúng ta nhận thấy
được rằng: tư tưởng yêu nước là nội dung nổi bật, xuyên suốt trong các
vấn đề về con người và giải phóng con người. Tư tưởng yêu nước hình
thành và phát triển gắn liền với công cuộc đấu tranh của cộng đồng dân
tộc Việt Nam chống lại sự bành trướng xâm lược của phong kiến
phương Bắc và các thế lực ngoại xâm khác. Tư tưởng yêu nước, trước

1
Sđd, tr. 173.
2
Sđd, tr. 167.
11


hết thể hiện ở ý thức về dân tộc, về dân tộc độc lập và lòng tự hào dân
tộc. Trên cơ sở đó, các nhà tư tưởng luôn có ý thức suy nghĩ để tìm ra
con đường, giải pháp, động lực để cứu nước, cứu dân, giành chủ quyền
lâu dài cho dân tộc.
Vấn đề về con người và giải phóng con người trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam, luôn được gắn kết với vận mệnh dân tộc, gắn với quá
trình dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Mặc dù chịu ảnh hưởng

chi phối của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo nhưng các nhà tư tưởng
Việt Nam trong lịch sử lại không áp dụng dập khuân, máy móc mà có
sự vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của dân tộc. Các quan điểm
về con người và giải phóng con người thời kỳ này chỉ hạn hẹp trong
phạm vi ý thức hệ phong kiến với khuynh hướng chủ yếu là chủ nghĩa
duy tâm. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, những vấn đề cơ bản về
con người và giải phóng con người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam,
đã phản ánh sâu sắc những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội; phản
ánh những giá trị bền vững, những tinh hoa của dân tộc Việt Nam
được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước là: “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã –
Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính
cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị
trong lối sống,…”
1
.
Kết luận chương 1
Các hệ thống triết học trong lịch sử tư tưởng nhân loại đều lấy vấn
đề con người làm vấn đề trung tâm của sự nghiên cứu, thậm chí đề cao
vai trò của con người trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tuy nhiên, các nhà triết học trước Mác chưa thoát khỏi tư duy siêu
hình khi xem xét về nguồn gốc, bản chất, vai trò của con người. Và do
hạn chế về lập trường giai cấp nên các nhà triết học thời kỳ này mới
chỉ dừng lại ở việc giải phóng con người ở trong tư tưởng mà chưa đưa
ra được con đường giải phóng con người trên thực tế. Với thế giới
quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nhà sáng lập ra chủ
nghĩa Mác đã luận giải khoa học cơ sở kinh tế - xã hội khi giải quyết
các vấn đề về con người và giải phóng con người. Con người chỉ được
giải phóng, con người trở về với chính mình – con người xã hội, trở về

với tự do khi xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và xây

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998): Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 56.
12


dựng thành công chủ nghĩa cộng sản.

Chương 2
ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI

2.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội đối với việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong bối cảnh thế giới có nhiều
biến động. Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) nổ ra, đã để
lại nhiều hậu quả nặng nề. Các nước tham chiến (trừ Mỹ) đều thiệt hại
nghiêm trọng về người và của. Mâu thuẫn trong xã hội diễn ra gay gắt.
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã thúc đẩy phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Sự thức tỉnh mạnh mẽ của các giai cấp, các dân tộc bị áp bức đã
đặt ra tình hình và nhiệm vụ mới cho cách mạng thế giới là việc cấp
thiết phải thành lập Quốc tế mới. Trước yêu cầu của thực tiễn, Quốc tế
Cộng sản ra đời. Các hoạt động của Quốc tế Cộng sản đã đẩy mạnh
phong trào cách mạng thế giới phát triển.

Ở trong nước, thực dân Pháp thiết lập chế độ áp bức, bóc lột hà
khắc về kinh tế, chính trị và văn hóa. Các phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp nổ ra mạnh mẽ, nhưng đều lần lượt thất bại vì thiếu tổ
chức và thiếu đường lối đúng đắn. Sau nhiều năm bôn ba khắp thế giới,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thông qua hoạt động thực tiễn và khảo
cứu lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, đã trở thành người cộng sản đáp
ứng được yêu cầu tất yếu của lịch sử và nguyện vọng của nhân dân ta.
2.1.2. Truyền thống văn hóa, dân tộc và truyền thống quê
hương, gia đình đối với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và giải phóng con người
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người,
trước hết được bắt nguồn từ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của
quê hương và gia đình. Trong những truyền thống tốt đẹp đó, thì chủ
nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc,
là tiền đề xuất phát của sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực chi phối mọi suy nghĩ,
hành động trong suốt cả cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh. Quê
13


hương của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh là mảnh đất rất giàu
truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Đó cũng là quê hương của
nhiều anh hùng hào kiệt nổi tiếng của lịch sử Việt Nam như: Mai Thúc
Loan, Nguyễn Biểu,… của các lãnh tụ yêu nước thời cận đại như: Phan
Đình Phùng, Phan Bội Châu,… Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia
đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân. Thân phụ của Hồ Chí
Minh là tấm gương lao động cần cù, tấm gương về ý chí kiên cường,
vượt qua gian khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu, đặc biệt là tư tưởng
thương dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị
– xã hội. Với tư chất thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, tính ham hiểu

biết và nhạy bén, Hồ Chí Minh đã hoà mình vào cuộc sống của quần
chúng lao khổ và tham gia các phong trào yêu nước; có hoài bão lớn, có
bản lĩnh kiên định, giàu tình cảm nhân ái và sớm có chí cứu nước, tự tin
vào bản thân mình. Tất cả nhân tố trên là tiền đề cơ bản hình thành
những luận điểm đúng đắn và sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.1.3. Tiền đề lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người và giải phóng con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và giải phóng con
người, không chỉ phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội hiện thực,
mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng tiến bộ trong lịch sử
và những tư tưởng tiến bộ đương thời. Đó là những tư tưởng tiến bộ
của các nhà Nho yêu nước như Vương Thúc Mậu, Phan Bội Châu,…
Chính qua các buổi gặp gỡ với các nhà Nho yêu nước trong thời kỳ
này mà Hồ Chí Minh học tập được tinh thần khẳng khái, không chịu
khuất phục trước kẻ thù, tinh thần yêu nước thương dân,…
Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, Hồ Chí
Minh sớm tiếp nhận được những nguyên tắc luân lý đạo đức trong tư
tưởng Nho giáo như: trung hiếu, tiết nghĩa, tam cương, ngũ thường,…
Người nhấn mạnh đến mặt tích cực về đạo đức mà con người cần phải
rèn luyện và tư tưởng nhân nghĩa của Khổng giáo. Cùng với Nho giáo,
các tư tưởng về bình đẳng, từ bi, cứu khổ, cứu nạn của Phật giáo;
những tư tưởng cách mạng tiến bộ của Tôn Trung Sơn; tư tưởng “tự
do, bình đẳng, bác ái” của các nhà tư tưởng tiến bộ phương Tây là
những tiền đề lý luận quan trọng góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và giải phóng con người. Đặc biệt, đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy kim chỉ nam cho sự nghiệp
cứu nước, giải phóng dân tộc. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã hình
thành những quan điểm biện chứng, khoa học về vấn đề con người và
giải phóng con người.
14



2.2. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
2.2.1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Trước hết, về khái niệm con người, trong hệ thống di sản tư tưởng
của mình, Hồ Chí Minh không có tác phẩm chuyên khảo bàn riêng về
con người, mà quan niệm về con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
được biểu hiện cụ thể trong từng hoàn cảnh, điều kiện và khía cạnh
khác nhau. Con người, có thể được hiểu là một con người cá thể, là
một cộng đồng, gia đình, giai cấp, xã hội, cũng có thể là con người nói
chung. Hồ Chí Minh viết: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em,
họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người”
1
.
Con người, trong quan niệm của Hồ Chí Minh còn được đề cập
đến một cách rộng hơn, bao quát hơn, đó là nhân dân Việt Nam, là dân
tộc Việt Nam. Lôgíc phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh về con
người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư
tưởng ấy, khái niệm “con người” của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái
niệm “giai cấp vô sản cách mạng”. Quan niệm về con người của Hồ
Chí Minh vừa thể hiện rõ tính chất giai cấp, tính chất lịch sử, vừa
hướng vào những giá trị chung của con người: tự do, hạnh phúc, dân
chủ để vươn tới cái chân, thiện, mỹ, đạt tới lý tưởng nhân bản, nhân
đạo của con người; hướng tới những giá trị phổ biến của con người.
Chúng ta có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trên
những nội dung cơ bản sau:
Về bản chất con người: thống nhất với quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Hồ Chí Minh thừa nhận bản chất con người mang tính lịch

sử - xã hội. Hồ Chí Minh luôn xem xét con người trong các mối quan
hệ xã hội nhất định. Cơ sở vận động của các mối quan hệ xã hội là lao
động sản xuất ra của cải vật chất. Hồ Chí Minh thừa nhận sự tồn tại
của “quy luật sinh học” trong việc hình thành và phát triển con người
“con người ta đẻ ra, ai cũng lớn lên, già đi rồi chết”
2
nhưng không
tuyệt đối hóa vai trò của các “yếu tố sinh học”. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh đến vai trò của giáo dục, của các điều kiện kinh tế - xã hội đối
với con người.
Về bản tính con người, Hồ Chí Minh cho rằng, đã là con người
đều yêu sự lành, ghét sự dữ; yêu cái thiện, cái tốt, ghét cái ác, cái xấu.

1
Hồ Chí Minh (2009): Toàn tập, tập 5. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 644.
2
Hồ Chí Minh (2009): Toàn tập, tập 10. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 469.
15


Theo Hồ Chí Minh, cái Thiện và cái Ác luôn luôn chuyển hóa tùy
thuộc vào sự đấu tranh, tu dưỡng của bản thân mỗi người và tùy thuộc
vào bối cảnh xã hội cụ thể.
Về vị trí, vai trò của con người: Trong quan niệm của Hồ Chí
Minh, vai trò của con người trước hết là được biểu hiện ở vai trò của
quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định quần chúng nhân dân
là yếu tố quyết định đến sự thành bại của mọi cuộc cách mạng: “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của cá
nhân anh hùng nào”
1

. Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn như vậy,
bởi là người sáng tạo chân chính ra lịch sử, sáng tạo ra của cải vật chất,
các giá trị văn hóa tinh thần duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Luôn hướng về con người, yêu thương, tin tưởng con người, tin và
thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và
nhân dân các nước là những đặc điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người. Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với con người,
không chỉ ở chỗ thấy được sức mạnh của nhân dân trong cách mạng,
sức mạnh sáng tạo của con người, mà còn ở chỗ thấy được những khả
năng tiềm ẩn trong con người, chia sẻ, cảm thông đối với con người.
Về đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Tư
tưởng về đạo đức của Hồ Chí Minh bao quát mọi đối tượng và lĩnh vực
hoạt động của con người. Hồ Chí Minh là quy đạo đức thành ba mối
quan hệ chủ yếu của mỗi người - đó là đối với mình, đối với người, đối
với việc. Xuyên suốt các mối quan hệ đó, quan điểm “đức là gốc” là
quan điểm cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Hướng đến sự phát triển con người toàn diện, là một nội dung
quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Con người
toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự phát triển hài hòa
về thể chất, trí tuệ, phẩm chất đạo đức, sự hiểu biết sâu sắc về cái
hay, cái đẹp và “phát triển hoàn toàn các năng lực sẵn có”
2
.
2.2.3. Thực chất vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh trải rộng trên nhiều
nội dung. Tuy nhiên, xét cho đến cùng, thực chất vấn đề con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh chính là quyền con người; hạnh phúc, tự do cho
con người; và khẳng định vai trò chủ thể của con người.
Về vấn đề quyền con người: Hồ Chí Minh vạch ra tư tưởng phổ


1
Sđd, tập 10, tr. 197.
2
Sđd, tập 4, tr. 32.
16


biến, có giá trị tiến bộ của toàn nhân loại đó là: quyền bình đẳng,
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Khát vọng
quyền được sống, quyền được hạnh phúc, công bằng, tự do, không
phải là hiện tượng tâm lý tạm thời mà là những thuộc tính bản chất,
phổ biến có tính chi phối sâu xa mọi hoạt động của con người. Từ
quyền cơ bản của con người, Hồ Chí Minh phát triển thành quyền độc
lập dân tộc.
Hạnh phúc, tự do cho con người là giá trị của độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật
chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội mang lại, có điều kiện phát triển
toàn diện cá nhân.
Về vai trò của con người, Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, vai
trò chủ thể lịch sử của con người. Đặc biệt, Hồ Chí Minh quan tâm đến
năng lực làm chủ của nhân dân thông qua học tập và rèn luyện,…
2.3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
2.3.1. Giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc là điều kiện tiên quyết, là
cơ sở để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng con người. Bởi vì, con
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại biệt lập, chung chung,
trừu tượng mà con người tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với gia
đình – làng xóm – dân tộc – đất nước. Độc lập, tự do của con người
không tách rời với độc lập, tự do của dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt

Nam đã chứng minh sự gắn kết này, là một tất yếu khách quan.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên vào thời điểm thực dân Pháp đã cơ
bản hoàn thành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thiết lập một chế
độ chính trị - xã hội thực dân ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Dưới
sự cai trị của thực dân Pháp, các quyền cơ bản của con người bị tước
đoạt một cách trắng trợn. Muốn giải phóng con người, trước tiên, là
phải giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho dân tộc. Để thực hiện
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thì phải tập hợp được lực lượng
cách mạng rộng rãi, không phân biệt giai cấp, trong đó “công nông là
người chủ cách mệnh”
1
và dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hồ
Chí Minh nhận thấy, yếu tố dân tộc có sự tác động mạnh mẽ đến thái
độ chính trị của con người Việt Nam, mạnh mẽ hơn yếu tố giai cấp.
Đối với cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc là cơ sở để giải
phóng giai cấp. Song, giải phóng dân tộc phải được giải quyết trên lập
trường của giai cấp vô sản, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

1
Sđd, tập 2, tr. 266.
17


Đối với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc không tách rời với việc thống
nhất Tổ quốc, với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.3.2. Giải phóng con người gắn liền với giải phóng giai cấp
Theo Hồ Chí Minh, muốn giải phóng con người thì phải tiến hành
cuộc cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giải
phóng dân tộc và cùng với giải phóng dân tộc thì áp bức giai cấp được
giải phóng.

Hồ Chí Minh nhận thức rõ rằng, chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung
của các dân tộc bị áp bức. Hồ Chí Minh ví hình ảnh của chủ nghĩa đế
quốc như con đỉa hai vòi và nhận thấy “cái vòi bám vào giai cấp vô sản
ở các thuộc địa” sẽ mang lại nhiều lợi ích cho chủ nghĩa đế quốc hơn
“cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc”. Dưới sự thống trị của
thực dân Pháp, áp bức dân tộc và áp bức giai cấp xâm nhập và gắn chặt
với nhau. Chủ nghĩa thực dân không chỉ tước đoạt về quyền lợi dân tộc,
mà còn tước đoạt những quyền lợi về mặt giai cấp. Trong đó, giai cấp
công nhân và nông dân là những giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất.
Ngay cả bản thân những người thực dân cũng bị tha hóa, họ đánh mất
nhân tính, lương tâm và trở nên hèn hạ. Để thực hiện cuộc cách mạng
giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh lưu ý đến công tác tập hợp sức mạnh
của nông dân bằng cách tuyên truyền, giáo dục và tổ chức; xây dựng
khối liên minh công – nông; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, kết hợp yếu tố nội lực
với sự giúp đỡ quốc tế trong đó yếu tố nội lực, sức mạnh của dân tộc là
yếu tố quyết định. Hồ Chí Minh coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới và nhận định cách mạng ở các nước thuộc địa có
thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
2.3.3. Xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa là tiền đề giải
phóng con người một cách triệt để và cách mạng
Nội dung xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là: độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là bước tất yếu của độc
lập dân tộc nhằm giải phóng con người về mặt kinh tế, giải phóng lực
lượng sản xuất, xây dựng và phát triển nền kinh tế hiện đại, tiến đến
giải phóng con người một cách triệt để và cách mạng.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội “không có chế độ người bóc lột
người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có
quyền lao động”
1

và “mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống
riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình.

1
Sđd, tập 9, tr. 23.
18


Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích
cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”
1
. Chủ nghĩa xã hội là “làm cho
mọi người dân sung sướng, ấm no”
2

Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không ảo tưởng, nóng vội, chủ quan, duy
ý chí khi xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là
công trình của “hàng triệu người”, là sự góp sức, đoàn kết của cả dân
tộc. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc đặc điểm xuất phát của nước ta khi
xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải
muốn là tức khắc có” vì “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ
là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”
3
. Do vậy,
Hồ Chí Minh coi trọng đến vấn đề phát triển công nghiệp, nông
nghiệp, “phát triển khoa học và kỹ thuật”
4
và đào tạo con người mới để

giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân.

Kết luận chương 2
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, con người không tồn tại một
cách siêu hình, trừu tượng mà tồn tại cụ thể trong các mối quan hệ xã
hội, có khát vọng vươn lên làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ
bản thân. Con người chịu sự quy định, ràng buộc của các mối quan hệ
xã hội và những điều kiện vật chất nhất định. Thực chất vấn đề con
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là quyền con người; hạnh
phúc, tự cho cho con người; và khẳng định vai trò chủ thể của con
người. Giải phóng con người về mặt chính trị là tiền đề để giải phóng
con người về mặt kinh tế. Sau khi giành được độc lập, giai cấp công
nhân phải sử dụng chính quyền của mình để giải phóng lực lượng sản
xuất, đẩy mạnh phát triển sản xuất nhằm mục đích không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội là bước đi tất yếu sau khi
đất nước giành độc lập. Chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mới giữ
vững được độc lập dân tộc; là điều kiện để giải phóng con người triệt
để; giải phóng con người từ con người dân tộc, con người chính trị
sang con người phát triển toàn diện, có điều kiện phát huy tối đa khả
năng của mình.

1
Sđd, tập 9, tr. 291.
2
Sđd, tập 10, tr. 31.
3
Sđd, tập 10, tr. 13.
4
Sđd, tập 9, tr. 586.
19



Chương 3
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ CON NGƯỜI VÀ GIẢI
PHÓNG CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Khái quát đặc điểm về kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện
nay, tác động đến việc xây dựng, phát triển và giải phóng con người
Kinh tế, xã hội ở Việt Nam, giai đoạn từ sau khi đất nước thống
nhất đến nay, có những đặc điểm cơ bản sau:
Về lĩnh vực kinh tế, đặc điểm cơ bản của nền kinh tế nước ta hiện
nay là quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
xuất phát từ một nước nghèo nàn, lực lượng sản xuất lạc hậu; sự tồn tại
và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, dựa trên sự đa
dạng về sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta không chỉ
diễn ra trong lĩnh vực công nghiệp mà bao trùm tất cả các ngành, các
lĩnh vực của đất nước; hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ.
Những đặc điểm trên của nền kinh tế nước ta đã góp phần thúc đẩy
nhanh quá trình giải phóng lực lượng sản xuất, tạo việc làm, nâng cao
không ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Về lĩnh vực xã hội: từ sau khi đất nước thống nhất, đặc biệt là từ
khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, xã hội Việt Nam có
nhiều chuyển biến tích cực: cơ cấu giai cấp, cơ cấu lao động thay đổi
theo hướng tăng tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu
tổng thu nhập quốc dân. Điều này đã có sự tác động quan trọng đến
vấn đề xây dựng, phát triển và giải phóng con người ở nước ta. Đó là:
góp phần thúc đẩy thị trường lao động và nâng cao chất lượng lao

động, đời sống người lao động được cải thiện, thúc đẩy quá trình dân
chủ hóa xã hội, tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu văn hóa,
phát triển tự do cá nhân. Tuy nhiên, xu hướng biến đổi về cơ cấu xã
hội Việt Nam hiện nay cũng có những sự tác động tiêu cực đến vấn đề
giải phóng con người như vấn đề đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo
công bằng xã hội, xu hướng phân tầng xã hội về đời sống vật chất và
văn hóa tinh thần,…
Về lĩnh vực văn hóa, tư tưởng: sau khi giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, tư tưởng chủ quan, say sưa với thắng lợi, nóng
vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn
xuất hiện, và bộc lộ ngày càng rõ. Cùng với việc nước ta bị các thế lực
20


thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây Nam (1975-1978)
và chiến tranh biên giới phía Bắc (1979) xảy ra đã làm cho tình hình
kinh tế - xã hội rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng, đời sống nhân
dân giảm sút nghiêm trọng. Đường lối đổi mới do Đại hội VI của
Đảng (1986) khởi xướng, đã mang lại những giá trị tích cực đến vấn đề
xây dựng và giải phóng con người Việt Nam trên lĩnh vực văn hóa, tư
tưởng. Bản sắc dân tộc, bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được giữ vững và
phát triển, giao lưu văn hóa được mở rộng, tự do tôn giáo, tín ngưỡng
được tôn trọng, con người có điều kiện phát huy khả năng của mình và
có điều kiện phát triển toàn diện,…Bên cạnh đó, những tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, tình trạng tham nhũng, sự suy thoái về đạo đức và lối sống
của một bộ phận không nhỏ trong cán bộ, đảng viên,… đã ảnh hưởng
tiêu cực đến vấn đề giải phóng con người Việt Nam hiện nay.
3.1.2. Thực trạng, những thành tựu và mặt còn hạn chế về vấn
đề giải phóng con người ở Việt Nam hiện nay

Những thành tựu về vấn đề giải phóng con người được thể hiện
qua các nội dung cơ bản: vấn đề bảo đảm và thực hiện quyền con
người luôn được nhà nước coi trọng; đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân không ngừng được nâng cao; khoa học và công nghệ phát
triển mạnh mẽ góp phần quan trọng vào việc giải phóng lực lượng sản
xuất, giải phóng sức lao động của con người; con người và sự phát
triển của con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội; giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, thực
hiện chính sách đối với người và gia đình có công, bước đầu thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; hình
thành thế hệ người lao động mới mang những đặc tiến bộ của thời đại;
giữ vững quyền độc lập, tự chủ.
Những mặt còn hạn chế về vấn đề giải phóng con người: quá trình
toàn cầu hóa nền kinh tế sâu rộng, đặt ra nhiều thách thức mới cho nền
kinh tế và vấn đề giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước; có sự chênh
lệch lớn trong thu nhập của các nhóm lao động tạo ra sự biến đổi cơ
cấu xã hội, và sự phân hóa giàu nghèo mới; tỷ lệ người nghèo giảm
nhanh, nhưng nhìn chung vẫn còn ở mức cao, nhất là ở các vùng đồng
bào thiểu số, vùng sâu, vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lụt, kết quả
xóa đói giảm nghèo chưa thực sự vững chắc; nền kinh tế Việt Nam còn
kém phát triển, do vậy, việc đáp ứng đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân còn nhiều hạn chế; vấn đề phát triển giáo dục, đào tạo, chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân còn nhiều bất cập; tỷ lệ thất nghiệp và thiếu
21


việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động còn cao; vấn đề
chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân còn nhiều hạn chế;
dân chủ cơ sở chưa được phát huy rộng rãi và thực hiện đúng, một số
nơi, một số lĩnh vực còn vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân

dân và xảy ra tình trạng coi thường, bất chấp luật pháp; nhiều vấn đề xã
hội tiêu cực nảy sinh, có xu hướng ngày càng gay gắt.
3.2. BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI
VỚI VIỆC XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội đối với việc giải phóng con người ở Việt Nam hiện nay
Độc lập dân tộc là cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, chủ
nghĩa xã hội là điều kiện để giữ vững độc lập, tự do cho dân tộc, đi đến
giải phóng con người một cách triệt để. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội không tách rời nhau trong sự nghiệp giải phóng con người. Độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng, và cũng
là lợi ích căn bản của quốc gia; nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc luôn
luôn gắn liền với bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và là bài học lịch sử
đối với vấn đề giải phóng con người ở Việt Nam hiện nay.
3.2.2. Đảm bảo và phát huy dân chủ, là cơ sở và nền tảng, để
giải phóng con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Theo Hồ Chí Minh, đảm bảo và phát huy dân chủ là cơ sở để
“nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân
ta đưa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ của người chủ nước nhà để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta giàu”
1
. Quyền
làm chủ của nhân dân được thể chế hóa thành các chuẩn mực, các
nguyên tắc tổ chức và vận hành của nhà nước. Thực chất của việc phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò chủ thể của Đảng,
Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, nhằm huy động
mọi nguồn lực đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là
củng cố và tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong

nhân dân; giữ vững ổn định chính trị; phát huy vai trò tích cực, tự giác,
sáng tạo của con người.
3.2.3. Nâng cao đời sống của nhân dân là biểu hiện cụ thể
nhất, trực tiếp nhất của việc xây dựng, phát triển và giải phóng
con người Việt Nam hiện nay

1
Sđd, tập 9, tr. 593.
22


Hồ Chí Minh chỉ rõ, dân chỉ biết đến giá trị của độc lập tự do khi
họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nên “phải luôn luôn nhớ rằng: điều
quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là
nhằm cải thiện dần đời sống của nhân dân”
1
. Nâng cao đời sống nhân
dân là nhiệm vụ tất yếu sau khi đất nước giành độc lập; là điều kiện
củng cố và giữ vững độc lập dân tộc.
3.3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN MỤC TIÊU GIẢI
PHÓNG CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.3.1. Định hướng và mục tiêu cơ bản về sự nghiệp giải phóng
con người của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay
Định hướng về vấn đề giải phóng con người Việt Nam của Đảng
ta hiện nay: coi con người là nhân tố quan trọng nhất bảo đảm cho sự
phát triển bền vững; phát triển con người toàn diện; phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội.
Mục tiêu cơ bản về xây dựng, phát triển và giải phóng con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: Một là, có tinh thần yêu nước, tự

cường dân tộc. Hai là, có ý thức tập thể, đoàn kết, có lối sống lành
mạnh, vǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, lao động chǎm chỉ,
có kỹ thuật, sáng tạo, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình
độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực. Ba là, xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc. Bốn là, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng,
trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Năm là, giáo dục,
bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ
tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc Sáu
là, coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ
chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ
khoa học, công nghệ đầu đàn. Bảy là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có
năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân.
3.3.2. Một số giải pháp cơ bản thực hiện mục tiêu giải phóng
con người trong điều kiện Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, giải pháp về kinh tế - xã hội: hoàn thiện các cơ chế,
chính sách kinh tế - xã hội nhằm xóa đói nghèo, lạc hậu và không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân: đẩy nhanh quá trình công

1
Sđd, tập 8, tr. 157.
23


nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển kinh tế gắn liền với đảm
bảo công bằng xã hội; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
gắn với việc nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế nhằm
giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

cho nhân dân, giải phóng con người.
Thứ hai, giải pháp về chính trị: dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã
hội, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân: xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thực hiện tốt
nguyên tắc: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; phát huy dân chủ
cơ sở; nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân.
Thứ ba, giải pháp ưu tiên phát triển hệ thống giáo dục và y tế
nhằm hướng đến mục tiêu công bằng xã hội: tăng cường đầu tư cho
giáo dục và y tế; tạo điều kiện cho mọi người dân có điều kiện học tập
và chăm sóc sức khỏe, chú ý đến những người nghèo, người dân tộc,
người có công với cách mạng,…
Thứ tư, giải pháp về sự phát triển văn hóa, tư tưởng, góp phần
nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân: mở các cuộc vận động toàn
dân xây dựng đời sống văn hóa mới; xây dựng và hoàn thiện hệ thống
luật pháp và các chính sách văn hóa; tăng cường nguồn lực và phương
tiện cho hoạt động văn hóa; nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên
lĩnh vực văn hóa; tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh.

Kết luận chương 3
Vì con người, do con người, đặt con người vào vị trí trung tâm
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khơi dậy mọi tiềm năng
của mỗi cá nhân là những bài học lịch sử của tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và giải phóng con người trong giai đoạn phát triển hiện nay
ở nước ta. Tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, giữ vững độc lập tự
do cho dân tộc là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện giải phóng
con người. Để thực hiện mục tiêu giải phóng con người cần có các hệ
thống các giải pháp, trong đó có thể kể đến các nhóm giải pháp như:
hoàn thiện các chính sách kinh tế - xã hội nhằm xóa đói nghèo, lạc hâu,

không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân; dân chủ hóa toàn bộ đời
sống xã hội, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; ưu tiên
phát triển hệ thống giáo dục và y tế hướng đến mục tiêu công bằng xã
hội; và giải pháp phát triển văn hóa, tư tưởng, góp phần nâng cao đời
sống tinh thần cho nhân dân. Các nhóm giải pháp có mối liên hệ biện
24


chứng với nhau và cần được thực hiện đồng bộ để đi đến mục tiêu giải
phóng con người một cách toàn diện và triệt để.

KẾT LUẬN CHUNG
Xuyên suốt hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh, chúng ta nhận
thấy vấn đề con người luôn là điểm xuất phát tư tưởng và là định
hướng cho mọi hoạt động cách mạng của Người.
Trên cơ sở phản ánh con người hiện thực, Hồ Chí Minh hình thành
hệ thống tư tưởng phong phú về vấn đề con người và giải phóng con
người. Con người tồn tại ràng buộc trong các mối quan hệ xã hội, chịu
tính quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Con người là chủ
thể và là động lực của lịch sử. Trong mỗi cá nhân, cái tốt – cái xấu, cái
thiện – cái ác tồn tại đan xen, chuyển hóa lẫn nhau tùy thuộc vào sự đấu
tranh, tu dưỡng của bản thân và môi trường xã hội cụ thể. Hồ Chí Minh
đề cao vai trò của giáo dục và tự rèn luyện đối với việc giáo hóa con
người để đi đến mẫu người vừa “hồng”, vừa “chuyên”; vừa có “đức”,
vừa có “tài”; con người phát triển toàn diện. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người toát lên tình yêu thương, quý trọng đối với con
người. Tình yêu thương không chỉ dừng lại ở đồng bào mình, mà còn là
tình yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Xuất
phát từ sự tin yêu con người, Hồ Chí Minh đã chia sẻ, cảm thông đối với
con người, độ lượng, bao dung với những con người lầm lỡ. Hồ Chí

Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề quyền con người và thực hiện quyền
con người. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giải cấp tiến
lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất để thực hiện quyền con
người, giải phóng con người. Trong các cuộc cách mạng trên, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh đến việc xây dựng khối liên minh công – nông, do giai
cấp công nhân và Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hiện nay, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, chính trị mà nước
ta đã đạt được, chúng ta thấy vẫn còn nhiều thách thức đối với sự nghiệp
giải phóng con người. Sự nghiệp giải phóng con người là một cuộc cách
mạng lâu dài, khó khăn, đòi hỏi sự thống nhất, đoàn kết của cả dân tộc.
Trong sự nghiệp đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người
luôn là cơ sở lý luận, là niềm tin khoa học để chúng ta vững bước trên
con đường giải phóng triệt để con người. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh, các Văn kiện Đảng luôn khẳng định kiên định con đường độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã
lựa chọn, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

×