Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Suy ngẫm về “vinh” và “nhục” trong cuộc đời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.14 KB, 3 trang )

Đề bài: Suy ngẫm về “vinh” và “nhục” trong cuộc đời
Bài làm
Trong cuộc sống đã mấy ai thoát khỏi lợi và danh “Lợi, danh là cái nợ  đời” (Cổ  ngữ).  
Phải kiếm sống, phải dấn thân, phải đua tranh,... mới có lợi, có danh.
Cũng vì lợi và danh mà ít nhiều người phải trải qua vinh và nhục. Vinh và nhục là hai khái  
niệm đối lập nhau, gắn liền với số phận của mỗi người trong xã hội trong cuộc sống.
Vinh nghĩa là được xã hội, được cộng đồng đánh giá cao và rất kính trọng. Vinh thường 
nằm trong trường ngôn ngữ, như: vinh dự, vinh hạnh, vinh hiển, vinh hoa, vinh quang. Có 
nhiều thành ngữ, tục ngữ  mang hàm nghĩa “vinh ” được nói tới, như: vinh hoa phú quý,  
vinh quy bái tổ, bá vinh hoa, tham mồi phú quý, chết vinh còn hơn sống nhục,...
Trái nghĩa với vinh là nhục... Nhục nghĩa là xấu hổ  đến mức khó chịu đựng nổi, vì cảm  
thấy mình bị khinh bỉ hoặc đáng khinh bỉ, danh dự bị xúc phạm nặng nề. Nhục thường đi  
liền với nhục nhã, ô nhục, sỉ nhục,...
Làm ăn giỏi giang, gặp thời mà trở nên giàu có, góp phần làm phát triển kinh tế  của quê  
hương đất nước, được xã hội ngợi ca, thế  là vinh. Đi học, đi thi mà đỗ  đạt cao, giành 
được giải cao, thế  là vinh, làm cho bố  mẹ, bạn bè, thầy cô giáo được vinh hạnh, được 
thơm lây. Làm công tác khoa học có phát minh, sáng chế, ra trận mà lập được chiến công  
lớn, được tặng thưởng Huân chương cao quý, được phong tặng anh hùng thế  là vinh, là 
vẻ vang.
Vinh dự, vinh hoa, vinh quang... đều do tài năng, đức độ  lỗi lạc mà có. Vượt Vũ Môn, 
chiếm vàng, được vinh quy bái tổ,... là do tài học, do thông minh mà vẻ  vang. Các chiến  
công như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên,... gắn liền với tên tuổi các vị  anh 
hùng dân tộc như Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung, Võ Nguyên Giáp,...  
được sử sách khắc ghi, được dân tộc lưu truyền, mãi mãi là niềm vinh quang chói lọi bất 
hủ.
Hiểu thế nào là vinh còn phải suy ngẫm thế nào là nhục. Nguyễn Công Trứ (1778 ­ 1858),  
nhà thơ lỗi lạc, vị đại quan của triều Nguyễn, có tài kinh bang tế thế, có lúc đỗ Thủ khoa, 
có lúc làm Tổng đốc, làm Đại tướng, làm Dinh điền sứ  di dân khai hoang lập  ấp,... công 
danh lừng lẫy một thời. Nhưng có lúc lại bị  giáng cấp làm lính thứ. Công danh ba chìm 



bảy nổi, nếm trải đủ  mùi mặn ngọt, đắng cay. Với bản lĩnh kẻ  sĩ quân tử, ông đã nói: 
"Lúc làm Đại tướng, ta không lấy thế làm vinh, thì khi làm lính thú, ta cũng không lấy thế 
làm nhục”. Ông có vần thơ được nhiều người truyền tụng:
"Ra trường danh lợi, vinh liền nhục,
Vào cuộc trần ai, khóc trước cười".
Nghèo đói thì trở  thành khổ  nhục. Vì đói rét, vì mang công mắc nợ: "Van nợ  có khi tràn 
nước mắt! Kiếm ăn từng bữa mướt mồ hôi!”. Học dốt, thi hỏng là nhục. Vi phạm trường  
quy, mang tài liệu, điện thoại di động vào phòng thi,... rồi bị đuổi, bị đình chỉ thi là nhục,  
làm ô danh mẹ cha, thầy cô giáo.
Nhục đi liền với vinh nên mới có câu tục ngữ: "Lên voi, xuống chó”. Sống là phải biết  
giữ  mình, luôn luôn tự  rèn luyện. Làm quan, làm cán bộ, làm ông nọ  bà kia mà trở  thành  
sâu mọt hại nước hại dân, sống buông thả tha hoá thì có vinh chăng. Làm Chủ tịch tỉnh là  
vinh, nhưng quan hệ với gái điếm, ăn chơi trác táng, bị vạch mặt, bị cách chức, bị dư luận  
phỉ  nhổ  là nhục, nhục nhã ê chề! Đảng bị  tai tiếng, gia đình vợ  con bị  ô nhục! Làm cán  
bộ, leo lên đến chức Phó bí thư  tỉnh uỷ  mà xài và khoe bằng rởm Tiến sĩ (học trong sáu  
tháng), bị báo chí vạch mặt là nhục, là kẻ vô liêm sỉ, đáng khinh. Có vị Chủ tịch, có vị Bí  
thư bị tố giác là được tặng "phong bì”, được tặng quà vài trăm triệu đồng, hàng tỉ đồng,...  
thế  là nhem nhuốc, ô nhục. Buồn cười là những kẻ   ấy, những tên  ấy, vô cùng nhem 
nhuốc, tham ô nhưng lại lên lớp mọi người về  việc học tập đạo đức Hồ  Chí Minh. Kẻ 
đạo đức giả đáng khinh bỉ, ghê tởm là vậy!
Vinh và nhục luôn luôn biến đổi, biến hoá. Chỉ có lịch sử, dân tộc và thời gian là xác định  
rõ vinh, nhục. Dưới thời Pháp thuộc, những kẻ làm tay sai cho giặc, được gắn "mề đay”, 
được gắn "Bắc đẩu bội tinh” thì coi đó là vinh, vinh hiển, ngựa xe võng lọng nghênh  
ngang! Sau Cách mạng tháng Tám, những kẻ đó bị quốc dân đồng bào coi khinh.
Cái nhục lớn nhất của một dân tộc là phải làm ngựa trâu cho ngoại bang. Dân tộc Việt  
Nam từng trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, từng bị thực dân Pháp thống trị 80 năm trời, 
nên mới thấm thía cái nhục mất nước, cái giá "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Sống  ở đời, ai đã thoát khỏi vinh, nhục? Phải rèn trí, đức tài, phải tu thân để  được sống  
hạnh phúc trong vinh hoa, vinh quang, để khỏi sa vào vòng ô nhục.



Câu "Chết vinh còn hơn sống nhục” là bài học vô cùng to lớn, sâu sắc. Bàn về  vinh và 
nhục, tôi lại nhớ đến hai câu thơ của cụ Thượng Trứ:
"Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Danh mà tiên sinh nói đến là danh thơm, là tài danh, là vinh danh. Chỉ có bển bỉ  học tập,  
rèn luyện tài trí, thế hệ trẻ mới có danh, tài danh, mới trở thành người có ích cho gia đình  
và đất nước.



×