Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những điểm khác biệt cơ bản về cái nhìn đời sống trong những truyện viết về nông thôn của Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn Huy Thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.13 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 21 - Tháng 6/2014

NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN VỀ CÁI NHÌN ĐỜI SỐNG
TRONG NHỮNG TRUYỆN VIẾT VỀ NƠNG THƠN
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ NGUYỄN HUY THIỆP
LÊ VIỆT ĐỒN(*)
TĨM TẮT
Bài viết nói về những điểm khác biệt cơ bản trong các truyện ngắn viết về nơng thơn
của Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn Huy Thiệp. Người viết nhận thấy rằng, có thể nhìn nhận
sự khác biệt trên ba điểm lớn. Thứ nhất, đó là sự khác biệt trên sự miêu tả có tính chất
khái qt về các chiều kích khơng gian hiện thực, với các sáng tác phẩm của Nguyễn Ngọc
Tư, khơng gian chủ yếu là khơng gian sơng rạch Nam Bộ với những con người có tâm hồn
phóng khống, rộng mở. Ở tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, đó là khơng gian khá đa
dạng với những con người sống trong những lề luật ngặt nghèo của tinh thần gia trưởng,
bảo thủ. Người đọc cũng có thể thấy sự khác biệt trong đời sống tinh thần, trong lối hành
xử của con người, trong chất thơ thẫm đẫm ở tác phẩm của cả hai tác giả. Tất cả những
điểm khác biệt đó được/ bị quy định bởi sự phân biệt mang tính chất địa - văn hóa.
Từ khóa: truyện ngắn, khơng gian hiện thực, tinh thần gia trưởng, bảo thủ, tâm hồn
phóng khống.

ABSTRACT
The article is about the basic differences among short stories about the countryside
written by Nguyen Ngoc Tu and Nguyen Huy Thiep. The writer shows that we can
acknowledge the differences based on three main viewpoints. Firstly, that is the difference
on the description which has generalized property about real space . In Nguyen Ngoc Tu’s
composition, the main space is the southern rivers with open minded people. In Nguyen
huy Thiep’s composition, that is the various space with paternalistic and conservative
people. Readers can also see the difference in mantal life, people’s behaviour, poeticalness
which have in both writers. All those differences are decided by the geographic and


cultural distinction.
Keywords: short stories, real space, paternalism, conservative, opened minded
(*)

Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn Huy
Thiệp có thể coi là hai gương mặt tiêu biểu
viết về nơng thơn và nơng dân trong thể
loại truyện ngắn. Khi nghiên cứu tác phẩm
của hai nhà văn này, người đọc có thể thấy
những điểm gặp gỡ, cũng như những khác

biệt lí thú. Những điểm khác biệt trong cái
nhìn về nơng dân và nơng thơn giữa hai tác
giả được tạo nên bởi nhiều yếu tố, nhưng
bao trùm tất cả là khoảng cách thế hệ và
yếu tố địa dư văn hóa. Một tác giả miền
Bắc - nơi kết tinh truyền thống văn hóa lâu
đời, có chiều sâu, nơi con người bị đè nén,
áp bức bởi bao định kiến với tính bảo thủ
tất yếu của những vùng văn hóa giàu

(*)

ThS, Trường THPT Khánh Hưng - Huyện Trần
Văn Thời - Tỉnh Cà Mau

92


LÊ VIỆT ĐOÀN


truyền thống; một ở miền Nam, miền đất
được khai phá muộn màng của Tổ quốc,
với đời sống phóng khoáng, hồn nhiên,
rộng mở.
1. SỰ KHÁC BIỆT TRONG MIÊU TẢ
NHỮNG CHIỀU KÍCH KHÔNG GIAN
HIỆN THỰC
Hiện ra trong trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư là những vùng nông thôn
thật nghèo nàn, nhiều khi u tối, với những
người nông dân khổ cực, man mác buồn.
Viết về đề tài nông thôn nhưng Nguyễn
Ngọc Tư không chỉ chú tâm miêu tả nông
dân bên bờ kinh ruộng lúa mà tác giả còn
đặt họ vào môi trường xa lạ và rộng lớn
hơn. Trên sông nước Nam Bộ có nghề
buôn bán lặt vặt các sản vật như hàng
bông, trái cây, đồ ăn, thức uống, tạp hóa...
Họ chính là những con người làm nghề
“thương hồ”, sống trên ghe và coi đó là
nghề của mình. Có người cũng có nhà trên
bờ, còn lại là những người nghèo phần lớn
không có miếng đất cắm dùi, gia tài chỉ có
chiếc ghe nhỏ vừa là nơi che mưa che
nắng, vừa là phương tiện để mưu sinh. Cực
khổ, rày đây mai đó, dãi nắng dầm mưa
nhưng những khách thương hồ không mấy
khi cảm thấy mình thiệt thòi, họ vẫn vui
sống và tự hào về nghề nghiệp của mình:

“Đạo nào bằng đạo đi buôn
Xuống biển lên nguồn, gạo chợ nước sông”
Chỉ trong hai câu thơ mà gói gọn được
hết cái thú vui hải hồ của những con người
thuộc về sông nước này. Họ yêu sống bằng
mối tình đằm thắm kì lạ, tựa như sông
không chỉ là thiên nhiên, là môi trường
sống của mình mà nó như là một sinh thể
có linh hồn. Vì lẽ đó mà nhân vật Giang
trong Nhớ sông dù đã có chồng và ở hẳn
trên bờ nhưng vẫn không sao quên được
những năm tháng sống cùng cha và em trên
ghe, tuy cực khổ, nhưng ấm áp và vui vẻ.

Vì vậy nên dứt khỏi sông rồi thì Giang như
người mất hồn, sống với chồng mà “lòng
dạ nó ở đâu đó”, hở ra giờ nào đó lại hối hả
chèo đi, chèo khơi khơi vậy rồi tấp vào một
bụi lá nào đó, ngồi ở đó một chút rồi chèo
về. Nhưng cuối cùng phải vì cha mà bỏ
sông, ông Chín vì con cháu mà bỏ sông, vì
yêu thương nhau mà họ tự nguyện từ bỏ
điều mình yêu thương. Cuộc sống “thương
hồ” lênh đênh rày đây mai đó, chịu nhiều
thiệt thòi so với những người trên bờ
nhưng cũng có thú vị riêng, những tâm tình
riêng mà chỉ những người trong cuộc mới
thấu hiểu được. Bằng khả năng quan sát
tinh tế và tấm lòng nhân hậu, Nguyễn Ngọc
Tư đã vẽ nên những chân dung tâm hồn

sâu sắc và giàu cảm xúc của các nhân vật
“thương hồ”. Đa phần họ đều nghèo khó,
thiệt thòi về những điều kiện sống so với
những con người trên bờ nhưng họ vẫn
sống và yêu tha thiết dòng sông của mình
như ông Chín, Giang.... Bởi vì họ biết
thương, biết nhớ, nên những dòng sông
tưởng như vô tình ấy lúc nào cũng trôi
chảy tràn trề, ăm ắp tình thương để vỗ về
và cưu mang những phận người trót mang
kiếp lưu lạc hải hồ.
Những truyện ngắn mang đậm chất
đồng quê của Nguyễn Ngọc Tư thường
bàng bạc một không gian văn hóa Nam Bộ
với đời sống phóng khoáng: những buổi
đờn ca tài tử, những buổi biểu diễn khắp
hang cùng ngõ vắng vào những mùa khô,
hay những người hát rong lang thang với
những bản vọng cổ buồn não ruột... Cuộc
sống của những người chăn vịt chạy đồng
lần đầu tiên được Nguyễn Ngọc Tư phơi
bày một cách trần trụi và đậm đặc. Ngòi
bút của chị đã vẽ ra những bức tranh tăm
tối chưa từng thấy của nông thôn Nam Bộ,
khắc họa những con người hình như chỉ
sống bằng bản năng nguyên thủy của mình
93


NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN VỀ CÁI NHÌN ĐỜI SỐNG TRONG NHỮNG…


ngay giữa đồng loại trong thời hiện đại.
Tóm lại, thế giới nhân vật của Nguyễn
Ngọc Tư là những con người sống bằng
xương bằng thịt sống xung quanh chị,
những con người dù sinh sống nơi đồng
ruộng hay giữa chốn thị thành, dù làm bất
cứ nghề nghiệp nào nhưng dưới ngòi bút
sống động của tác giả chúng ta lại cảm
nhận được nhiều điều về đời sống, và tính
cách của con người Nam Bộ với đầy đủ
những nét vốn có đặc trưng.
Nguyễn Huy Thiệp khi viết về nông
thôn đã cố gắng khái quát hiện thực đói
nghèo, sự tù đọng, quẫn bách của đời sống
nơi đây, mặt khác, ông cũng rất có ý thức
mang đến cho người đọc cảm nhận về tính
chất khép kín, bảo thủ của đời sống ấy, trên
tinh thần gia trưởng được tác giả nhắc đi
nhắc lại nhiều lần trong các sáng tác của
mình. Trong bữa cơm gia đình Lâm cái thứ
trật tự trước sau đã được những người phụ
nữ trao đổi trong những câu đối thoại buồn
não ruột:
“Chị Hiên mời: “Các cụ xơi tự nhiên”.
Thằng Tiến đòi: “Cho em làm các cụ với!”.
Mẹ Lâm gạt đi: “Hỗn nào, chim bằng quả
ớt thế thì làm các cụ ra sao?” Cái Khanh
bụm miệng cười, tôi đỏ mặt. Bà Lâm thở
dài: “Các cụ toàn chim to...”. Mọi người

cười lăn. Chỉ có bố Lâm không cười.
Khuôn mặt ông sạm đen, vất vả, nhưng
không buồn tí nào, bình thản, vô sự.”
[1;187]. Từ đây người đọc dễ có cảm giác
chua xót bởi sự chà đạp nhân phẩm của con
người ở một xã hội đầy rẫy những hủ tục
lạc hậu, bất công. Và với Con gái thủy thần
bộ mặt của một miền quê mà nhân vật
Chương đã đi qua thật khủng khiếp tạo nên
những nỗi ám ảnh đáng sợ: “Những định
kiến, những tập tục thật nặng nề. Tôi thấy
tinh thần gia trưởng hủy hoại bao nhiêu số
phận con người. Tôi cũng đã thấy những

ngộ nhận giới tính và đạo đức giết chết vẻ
diễm lệ trên các gương mặt thiếu nữ...”
[1;122]. Cuối cùng Chương đã ra đi, cuộc
đi thấm đẫm tinh thần lãng mạn, nhưng
cũng thật chua xót, não nề với tâm trạng
hoang mang, sợ hãi. Đó chính là một bi
kịch ở đời, trong cảm quan thống thiết của
Nguyễn Huy Thiệp.
Rồi đi tìm sự thật về huyền thoại trâu
đen, chàng thanh niên trong Chảy đi sông
ơi bị những người đánh cá đêm đột ngột,
vô lý ném xuống dòng sông cuộn xoáy,
không thể bấu víu vào đâu. Không ai cả.
May mà có một người tốt bằng xương bằng
thịt đến cứu, nhưng người này về sau lại
chết đuối không một ai đến cứu chị. Với

nhân vật tôi - người bị đồng loại, những kẻ
đánh cá đêm độc ác, lạnh lùng dìm xuống
nước, sống chết mặc kệ - lúc đó chỉ còn
một điều này là có thực: “Nước chảy rất
xiết, nước chảy bao giờ cũng xiết. Có điều
phải cố mà bơi cho đến được bờ…”. Mấy
chục năm sau, con sông vẫn chảy, bến Cốc
vẫn còn, nhưng người tốt - vị ân nhân, nữ
anh hùng đã cứu sống “tôi” - thì không
còn. Câu hỏi “Con trâu đen, con trâu đen
trong thời thơ ấu của tôi nay ở đâu rồi?”
xoáy vào tâm can nhân vật chính trong
âm điệu của bài hát ngày nào - “Chảy đi
sông ơi” - nghe thật ngọt ngào mà biết bao
bi thiết.
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn tô
đậm bi kịch bị kết án giữa cuộc đời bằng
cách miêu tả con người trong thực tại như
là những chủ thể sống cô độc, bị bỏ rơi.
Nhân vật Chương trong Con gái thủy thần,
sau khi đã sống, đã ao ước sống, đã dấn
thân trong thế giới hiện sinh non nửa đời
người, than thở: “Tôi vui một mình, buồn
bã một mình, mơ mộng một mình…Tôi chỉ
con gái thủy thần chờ đợi”. Chương là ai?
Liệu có ai biết đến sự hiện hữu của chàng
94


LÊ VIỆT ĐOÀN


trai này không? Nhân vật này hơn ai và
hơn bao giờ hết ý thức được sự cô đơn hay
tình trạng “bị bỏ rơi” của mình. Và thật sự
con người càng ra sức đi kiếm tìm cái khát
vọng, đời sống tự do lại càng hoài nghi dù
tâm nguyện bao giờ cũng muốn dâng hiến,
hưởng thụ, được hòa nhập, được thừa nhận
là người với đầy đủ những cái vốn có.
2. SỰ KHÁC BIỆT TRONG ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA CON NGƯỜI
Nguyễn Ngọc Tư đi sâu khám phá
từng ngõ ngách trong tâm hồn của nhân vật
để thấy được những tấn bi kịch tồn tại
trong mỗi con người giữa cuộc sống đời
thường trong những mối quan hệ gần gũi
như quan hệ gia đình, làng xóm, tình yêu
đôi lứa… Các nhân vật trong các sáng tác
của nhà văn thường là những con người ít
bộc lộ, sống khép kín, lặng lẽ như dòng
chảy của những con sông, ẩn chứa những
đợt sóng ngầm tạo nên những tấn bi kịch
nội tâm.
Đó là những day dứt, trở trăn, những
sám hối của một người cha có con gái bỏ
nhà ra đi (vì lỡ làm mất đôi trâu); là hoàn
cảnh bất hạnh của Diễm Thương, sự bất
hạnh đó tạo cho cô cái vẻ ngoài “lạnh trơ,
vui buồn không ra” đối lập hẳn với một
con người bên trong đầy nhạy cảm và luôn

khao khát tình cảm; đó là anh Hết, cô Hảo,
chị Hoài, ba con người đó có chung một
hoàn cảnh là duyên nợ dở dang; bi kịch của
Út Nhỏ, Tứ Hải, Tứ Phương trong Nhà
cổ… Tất cả những nhân vật ấy luôn luôn
ôm trong mình những nỗi niềm, đôi khi
như là mối hận không thể giải tỏa.
Viết về nỗi đau của những con người
trải qua chiến tranh, Nguyễn Ngọc Tư
không nhấn mạnh những đau thương mất
mát trong quá khứ, lại càng không thể hiện
sự tự vấn lương tâm của những con người
sau chiến tranh soi rọi giữa quá khứ và

những sự đổi thay cùng những mặt bất toàn
ở hiện tại. Nhà văn chủ yếu tập trung thể
hiện những tâm tư tình cảm đời thường
để thấy được những vẻ đẹp giản dị gần
gũi, những nỗi trăn trở nhẹ nhàng nhưng
sâu sắc.
Nương và Điền trong Cánh đồng bất
tận phải đối mặt với bi kịch gia đình, đối
mặt với sự thiếu thốn triền miên cả về vật
chất và tinh thần. Hầu như lúc nào hai đứa
trẻ đó cũng luôn khát khao tình thương,
khát khao được đối đãi như những con
người thật sự. Bi kịch đó bắt đầu từ sự lầm
lạc của người mẹ cạn nghĩ, nhẹ dạ, đã đánh
đổi thân xác để lấy vật chất phù phiếm làm
tan nát một gia đình và một người cha trượt

dài trong thù hận. Hai đứa trẻ cô đơn đến
cùng cực. Sự thiếu thốn tình thương khiến
chúng khát khao được chính người cha của
mình đánh đập vì còn đánh là còn quan tâm
và chúng nghĩ mình vẫn còn có cha.
Những bi kịch của những con người
trong những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
xét cho cùng đều xuất phát từ bi kịch của
tình thương. Và nhà văn viết về họ không
phải để chỉ thấy họ đau khổ bất hạnh, mà
quan trọng hơn từ trong sự bất hạnh đó để
thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn họ.
Nguyễn Ngọc Tư không nhấn mạnh về cái
đẹp của sự chiến thắng giữa cái ác và cái
thiện trong tâm hồn con người, cũng không
phải là những sự đấu tranh giằng xé giữa
phần con và phần người trong mỗi nhân
vật. Nhà văn chủ yếu thông qua ngôn ngữ,
sự miêu tả hành động và nội tâm nhân vật
để phát hiện những tình cảm bình dị mà
đẹp lạ lùng của những con người nơi miền
sông nước.
Những con người trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư đều là những con
người bình dị, phóng khoáng, trọng nhân
nghĩa, giàu lòng vị tha. Những con người
95


NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN VỀ CÁI NHÌN ĐỜI SỐNG TRONG NHỮNG…


đó yêu hết thảy từng mảnh vườn, bờ ruộng,
dòng sông, yêu từng gương mặt thân quen
cùng tiếng nói hàng ngày. Họ gắn bó với
đất đai, sông nước, với con người. Đó là
tấm lòng của ông Tư Mốt với mảnh đất
Mút Cà Tha, cái tình mà ông giành cho đất
cũng bởi đất và người cần ông (Thương
quá rau răm). Hay hình ảnh của những con
người trong Dòng nhớ, Nhớ sông, họ gắn
bó với con thuyền, dòng sông cùng câu hát
nặng nợ cuộc đời. Đó còn là anh Hết hiếu
thảo, yêu chung thủy chân thành, gắn bó
cùng bà con làng xóm. “Anh Hết lớn lên,
yêu hết thảy từng con người, từng tấc đất ở
cái xóm Giồng Mới. Cái xóm nhỏ ngoại ô
biết bao thương nhớ, những bờ rào râm bụt
xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh.
Những người đàn ông chuyền tay nhau dỗ
giành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những
người đàn bà cho con bú thép, khóc ngoe
trên giường”. [2;31]. Hay là những dòng
tâm sự của Xuyến khi không nỡ xa mũi đất
So Le: “ Đáng lẽ phải nói như vầy, em
thấy yêu mến, gắn bó mảnh đất này quá đi,
anh à...”(Duyên phận so le). Một điều dễ
nhận thấy là những con người đó không
phải là những nhân vật chóng yêu mau
quên, mà yêu âm thầm lặng lẽ không đòi
hỏi, không so sánh thiệt hơn lại càng không

có những sự trả thù hằn học mà chỉ âm
thầm đau đớn và âm thầm tha thứ.
Văn của Nguyễn Ngọc Tư vốn rất
dung dị, ta thấy nhiều những con người
giàu tình yêu, giàu lòng chung thủy, tuy
thầm lặng sống khép kín nhưng có nghị lực
và giàu niềm tin. Dẫu có bi kịch nhưng xét
cho cùng những ngang trái đó cũng do bởi
quá yêu thương. Niềm yêu thương cùng sự
tin tưởng đó của nhân vật luôn tồn tại trong
nỗi day dứt, nỗi day dứt không ồn ào mà
hoá thành những giọt nước mắt trong trẻo.
Những gì ta lưu giữ lại được là giá trị của

tình người cùng những vẻ đẹp lung linh
ngời sáng tuy bàng bạc một nỗi buồn .
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn
đi sâu vào phần tự nhiên, phần bản thể, bản
năngtrong mỗi con người. Họ là những con
người cô đơn, cô độc trong cuộc sống trần
thế. Nguyễn Huy Thiệp đã khai thác nhiều
về kiểu người này để phản ánh một sự thật
khi kinh tế thị trường, văn minh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa mở ra. Lối sống
thực dụng như một cơn lốc tràn vào từng
ngõ ngách của cuộc sống. Rất nhiều người
trở nên bơ vơ lạc loài, không thể thích
ứng được trong xã hội đó. Điều này trong
văn học các giai đoạn trước dường như
vắng bóng.

Thầy giáo Triệu trong Những bài học
nông thôn, là người thành phố nhưng “bao
giờ cũng nói rằng mẹ tôi là nông dân, còn
tôi sinh ở nông thôn! Anh Triệu sống trong
cô đơn vì phải xa gia đình, anh sống độc
thân ở làng đã chín năm và bố mẹ đã từ
anh. Cuối cùng thầy giáo Triệu chết khi lao
vào ngăn con trâu điên để cứu một em nhỏ.
Chỉ có dân làng tiễn anh. Cùng với nỗi cô
đơn của anh giáo Triệu, trong các sáng tác
về nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp,
người đọc có thể thấy mỗi nhân vật thường
hiện lên như một khối u buồn, khép kín
trong những suy nghĩ, những tâm tư của
mình mà không tìm được bất kì sẻ chia
nào. Đó là Nhâm (Thương nhớ đồng quê),
Năng (Chăn trâu cắt cỏ), Lâm (Những bài
học nông thôn), Chương (Con gái thủy
thần), là chị Thắm (Chảy đi sông ơi), và
Trùm Thịnh, ông Nhiêu, lão Ba Đình,
Bường, Ngọc… Trong truyện của Nguyễn
Huy Thiệp, một mặt ta thấy đời sống hiện
lên với bao lề luật khắc nghiệt với tinh thần
gia trưởng, với sự áp bức, đè nén của
phong tục, tập tục, trách nhiệm đè nặng lên
đôi vai nhân vật. Nhưng cuộc sống còn là
96


LÊ VIỆT ĐOÀN


một cõi hoang sơ, trì đọng, một thế giới
hỗn tạp xô bồ. Ở đó có những con người
tàn ác, xấu xa, đê tiện. Ở đó có những con
người vụ lợi, dối trá, lừa lọc. Với dung
lượng lớn các tác phẩm viết về kiểu người
này, độc giả đã cảm nhận được cái tột cùng
của phần “con” ghê sợ tồn tại trong tâm
hồn con người. Đây là kiểu nhân vật bị tha
hóa về nhân cách, bị vấy bẩn về tâm hồn,
sống độc ác và tàn nhẫn. Họ lấy đồng tiền,
lấy quan hệ vật chất làm thước đo cho mọi
giá trị. Họ tham lam, ích kỷ, thực dụng một
cách tỉnh táo và vụ lợi một cách bỉ ổi.
Với những trang viết chân thực chưa
từng thấy trong văn học Việt Nam những
năm trước đó. Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn
con người không chỉ qua lăng kính của
người nghệ sĩ mà ông soi chiếu chúng từ
góc nhìn rất đời tư và đời thường. Nguyễn
Huy Thiệp đã kéo con người về gần sát với
cuộc sống đời thường chân thực và sống
động. Cuộc sống không đơn giản như nó
vốn có mà rất phức tạp, xô bồ.
Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa
tạo nên những làn sóng di dân từ nông thôn
đến thành thị. Thậm chí lịch sử cũng đã tạo
ra những cuộc di dân xuyên biên giới như
ở Việt Nam và các nước khác. Trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người

Việt Nam dù đi đâu, ở đâu cũng nặng trĩu
tâm thức “thương nhớ đồng quê”, được
hiểu như là một tâm thức cộng đồng.
Đối tượng mà Nguyễn Huy Thiệp gửi
tới bạn đọc là những con người rất gần với
đời sống thường nhật. Ông cũng có những
trang viết rất đẹp về những tâm hồn thiên
lương, thánh thiện thể hiện niềm tin đối với
con người. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp cũng
đã tập trung ngòi bút của mình vào việc
bóc trần hiện thực thuộc về những mảng
tối, góc khuất trong đời sống con người..

3. NHỮNG KIỂU CHẤT THƠ KHÁC NHAU
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thấm
đẫm bi kịch của mọi kiếp người, thế nhưng
độc giả không thấy bế tắc, trái lại đằng sau
mỗi số phận hiện lên niềm hy vọng, cuộc
sống sẽ đổi khác. Đây chính là chất ngọc
mà chị tạo ra từ những trang viết của mình.
Chị chạm vào những mảng tối của xã hội
để hướng tới chân trời mơ ước, nơi mọi
khổ đau dừng lại và hạnh phúc cứ thế trải
rộng thênh thang. Con người sẽ giàu có
hơn về tình yêu để con người xứng đáng
với danh hiệu con- người. Dẫu số phận con
người có tủi cực đến đâu thì cái khát vọng
hướng thiện vẫn không bị tuyệt diệt, nó chỉ
khuất lặn đâu đấy nơi đáy sâu tâm hồn đã
bị cái xấu và cái ác đày đoạ đến hoang

lạnh, điều đó thể hiện tài năng và tấm lòng
của nhà văn. Bên cạnh đó, Ngọc Tư rung
chuông báo động vấn đề gia đình, vấn đề
trẻ em trong toàn xã hội. Ngày càng nhiều
gia đình vỡ tan, trẻ em không được nuôi
dạy trong môi trường tốt nhất, tạo nên mối
đe dọa và gánh nặng cho toàn xã hội. Gia
đình là tế bào của xã hội, muốn xây dựng
một môi trường đạo đức xã hội lành mạnh,
trước hết điều kiện cần và đủ phải xây
dựng môi trường đạo đức ngay trong chính
mỗi gia đình. Chị chuyền thông điệp đi,
một thông điệp rất dung dị, tự nhiên nhưng
không kém phần nhiệt thành, day dứt và
trăn trở. Chị mất ăn mất ngủ vì những điều,
làm sao thực thi được “dân giàu nước
mạnh”, cái đói, cái nghèo và sự dốt nát
được xoá sổ một cách triệt để trong tương
lai gần. Vì tất cả những vấn đề đó khởi
nguồn của cái xấu và cái ác, nó có thể làm
cho con người biến chất, tha hóa.
Nguyễn Ngọc Tư đặt cược hết niềm tin
vào con người và biết tìm trong họ những
đốm lửa tinh thần để thắp sáng lên tình
yêu. Nhà văn, nhà báo, người tận diệt mọi

97


NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN VỀ CÁI NHÌN ĐỜI SỐNG TRONG NHỮNG…


thói hư tật xấu có trong xã hội, nhằm mở ra
chân trời mơ ước, nơi cõi nhân sinh mọi
đau khổ của con người đứng lại và yêu
thương cứ thế nhân lên. Sau những căn
bệnh trầm kha của thời đại, những tấn bi
kịch của kiếp nạn con người. Cuộc sống
vẫn phát triển theo quy luật của riêng nó.
Ngay cả khi nhân vật không ngủ được vì
bao điều đau khổ, phiền muộn. Dẫu thế,
nhưng chị tin tưởng bình minh sẽ hé rạng
trên cõi nhân sinh. Cuộc sống hạnh phúc
đến với mỗi người và mỗi nhà. Đấy là khát
vọng dựng xây, khát vọng thay đổi mà
chính nhà văn trở trăn, mơ ước.
Chất thơ trong truyện của Nguyễn
Ngọc Tư về nông thôn, trải dài trên miên
man sông nước, với những cù, tràm có
phần hoang dã mà thơ mộng. Chất thơ da
diết trong những câu hò xuôi ngược trên
từng chuyến ghe khắc khoải kiếp thương
hồ (bản thân hai chữ thương hồ, với hình
ảnh những con người trải đời mình với
mênh mông gió, nắng đã gợi nên bao tứ
thơ). Chất thơ rào rạt trong tiếng đập cánh
của từng đàn vịt, trong những mảnh đời tối
sáng khác nhau nhưng đều một tấm lòng
phóng khoáng. Chất thơ trong truyện của
Nguyễn Ngọc Tư, vì vậy, thấm đẫm trong
hồn người Nam bộ, trong không gian Nam

bộ, và đặc biệt, trong những đoạn văn tả
cảnh sông nước, trong những dòng trữ tình
ngoại đề. Những tứ thơ phóng khoáng, sôi
nổi và hồn hậu.
Khác với sáng tác về nông thôn của
Nguyễn Ngọc Tư, chất thơ trong truyện
viết về nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp
lại bắt đầu nơi những con người luôn trĩu
nặng suy tư về những triết lí nhân sinh
trước một tồn tại ngổn ngang, nham nhở
nhưng cũng đầy tính thơ. Chất thơ thể hiện
trong một niềm hoài vọng quá khứ, cũng
có thể là niềm thất vọng nơi ngón chân

giao chỉ tõe ra của ông Nhiêu; chất thơ tồn
tại trong khát vọng bứt phá của nhân vật,
trong hành trình tìm kiếm con gái Thủy
thần của Chương, trong cánh diều vút lên
giữa lửng lơ tiếng sáo trong buổi chiều
mộng mị trên cánh đồng với dáng lão Ba
Đình kẻ một nét gân guốc lên nền trời thăm
thẳm. Chất thơ âm ỉ trong kiếp sống quẩn
quanh mà thanh bình trên từng bờ ruộng
yên hòa, trong những nỗi niềm của Năng,
Nhâm; chất thơ trên cái bí ẩn của dòng
công đoạn qua bến Cốc với người phụ nữ
bịt khăn đen kín mặt mà ẩn dấu trong đó
một tấm lòng khắc khoải hướng thiện.
Trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp,
chất thơ còn thể hiện nơi bắt đầu những

quan niệm văn hóa, nghĩa là nơi bắt đầu
những cứu cánh cho đời sông tinh thần
hàng nghìn năm với những thuyền thuyết
dân gian sẽ ám ảnh nhân vật suốt cuộc đời
mình, nơi dòng sông có con trâu đen như
một bí mật không bao giờ được giải mã,
nơi có câu chuyện có thể nhiều phần thêu
dệt về mẹ Cả, về con gái Thủy Thần, chất
thơ rộn rã trong những lễ hội mang đậm
bản sắc văn hóa của mảnh đất đã có lịch sử
lâu đời…
Chất thơ trong truyện của Nguyễn Huy
Thiệp không trải dài trên miên man kênh
rạch với những điệu hò mang trong mình
nó nỗi niềm và khát vọng thương hồ. Chất
thơ ở đây hiện lên trên những cánh đồng
quê thương nhớ, trên những buổi chiều vần
vụ như một bức tranh thủy mặc với những
ráng chiều rợn ngợp, với những ánh chớp
chói lòa từ cao rộng, trong những dòng
sông thao thiết chảy mang trên mình nó
nặng những phù sa và trầm tích văn hóa,
cùng những bài đồng dao được hát lên từ
những bờ môi xinh xắn của con trẻ.
Và chúng ta cũng có thể thấy chất thơ
bang bạc trong phần lớn các tác phẩm này
98


LÊ VIỆT ĐOÀN


của ông bằng những đoạn miêu tả thiên
nhiên, bằng những trữ tình ngoại đề, bằng
độc thoại nội tâm nhân vật: “Bởi cái tình
chi? Mà tôi mượn màu son phấn ra đi”
(Con gái Thủy thần); “Tôi mơ thấy chúng

tôi đi trên con đường lung linh bảy sắc cầu
vồng. Hai bên bạt ngàn là hoa ban trắng.
Này, hoa ban, một nghìn năm nữa mày có
trắng thế không?” (Những người thợ xẻ)
[1;185].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Huy Thiệp (2001), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ Hà Nội.
2. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ.
* Nhận bài ngày: 8/5/2014. Biên tập xong : 5/6/2014. Duyệt bài: 12/6/2014.

99



×