Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Vấn đề dịch thơ Maiakovski ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.69 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 9 - Tháng 4/2012

VẤN ĐỀ DỊCH THƠ MAIAKOVSKI Ở VIỆT NAM
HỒNG KIM THANH(*)

TĨM TẮT
Thơng qua việc so sánh các bản dịch thơ Maiakovski của một số dịch giả Việt Nam,
bài viết góp phần khẳng định một mệnh đề của lí thuyết Tiếp nhận văn học: Người dịch là
một kiểu độc giả đặc biệt, bản dịch là một cách đọc, có vai trò định hướng và định giá
ngun tác.
Từ khố: bản dịch, dịch giả, cách đọc, ngun tác, Maiakovski, thơ
ABSTRACT
Through the comparison of the translations of Maiakovski’s poems by some
Vietnamese translators, the article affirms the statement of the theory of literary reception:
a translator is a special type of readers whose translated text shows how he has read the
original text, and role is to orient and evaluate it.
Key words: translation(s), translator, how to read, original text, Maiakovski, poem
Dịch là một cách đọc – nhận định này
khơng mới, thậm chí đã thành cách ngơn.
Đối với Lí thuyết Tiếp nhận văn học, nó là
một mệnh đề quen thuộc khi đề cập đến
người biên dịch trong vai trò người đọc lí
tưởng.
Sau khi được cơng bố, tác phẩm văn
học bắt đầu bước vào hành trình đi tìm số
phận của mình trong cơng chúng độc giả.
Tuy nhiên, đối với tác phẩm nước ngồi,
còn cần thêm một khâu trung gian nữa – đó
là dịch thuật. Và dịch giả, trong trường hợp


này, là người đọc đầu tiên, có vai trò quan
trọng trong việc định hướng, định giá
ngun tác.
Trong bài viết nhỏ này, chúng tơi
muốn bàn về chính cái tính cách định
hướng và định giá này của người đọc - dịch
giả. Khi tiếp cận tác phẩm văn chương
thơng qua bản dịch, thường xun xảy ra
trường hợp cùng là một ngun tác nhưng
có những cách dịch, cách đọc khác nhau.
(*)

Chúng tơi xin nêu trường hợp các bản dịch
thơ V. Maiakovski (1893-1930) của Trần
Dần (1926-1997), Hồng Ngọc Hiến
(1930-2011) và Thế Phong (1932) để thấy
những cách hình dung khơng hồn tồn
giống nhau về nhà thơ Nga vĩ đại.
Ở Việt Nam, tên tuổi Maiakovski được
biết đến như một trong những lá cờ đầu của
văn học xã hội chủ nghĩa, được trân trọng
đưa vào giáo trình đại học. Tuy nhiên,
những người dịch thơ ơng khá thưa thớt, so
với đội ngũ đơng đảo dịch thơ A. Pushkin,
S. Esenin, A. Blok,… Có thể lí giải điều
này như sau: Thơ Maiakovski khơng quen
thuộc lắm với “gu” thẩm thơ của cơng
chúng Việt Nam; cú pháp thơ ơng khá trúc
trắc, thường xun xuất hiện từ vựng mới
(do nhà thơ sáng tạo), cách ngắt nhịp điệu

khơng theo thơng lệ... Nghĩa là, xơng vào
địa hạt dịch thuật thơ ơng phải là những
người có bản lĩnh nghệ thuật và tất nhiên
phải hiểu, u thơ ơng.
Dịch giả của Maiakovski ở Việt Nam

ThS, Học viện Kĩ thuật Qn sự

29


không nhiều, nhưng khá thú vị khi bàn về
cách dịch của họ như những cách đọc khác
nhau, trong đó không hiếm khi bị chi phối
bởi ý thức hệ.
Dịch giả Việt Nam nổi tiếng nhất của
Maiakovski là Hoàng Ngọc Hiến. Ông
được mệnh danh là “nhà Maiakovski học”.
Danh hiệu này của ông, cho đến nay vẫn là
duy nhất ở nước ta. Ông viết: “Tôi đã viết
nhiều tiểu luận, đã dịch hàng ngàn trang
thơ và kịch Maiakovski. Đối với tôi,
Maiakovski là một sự ám ảnh, một ám ảnh
lớn”1. Về tiêu chí tín và đạt, có thể trông
đợi ở những trang dịch của Hoàng Ngọc
Hiến. Luận án tiến sĩ của ông là viết về
Maiakovski. Những người hướng dẫn ông
tiếp cận nghệ thuật nhà thơ Nga vĩ đại là
những chuyên viên có hạng, trong đó có cả
Lili Brick – người phụ nữ nổi tiếng của

Maiakovski.
Nếu Hoàng Ngọc Hiến là người am
tường tiếng Nga, có khả năng dịch
Maiakovski từ nguyên tác một cách thoải
mái và khá nhuần nhuyễn, thì Trần Dần
không có được lợi thế này. Bù lại, ông là
một nhà thơ, say mê một nhà thơ, một thời
coi Maiakovski là thần tượng thi ca của
mình, thậm chí chịu ảnh hưởng rõ rệt xu
hướng nghệ thuật đó. Hoàng Ngọc Hiến
ghi nhận: “Đến nay, tôi đã dịch xong hầu
hết những tác phẩm chính của Maiakovski.
Còn lại một tác phẩm quan trọng chưa dịch
được, đó là bản trường ca Cây sáo - cột
sống. Đây không phải là một tác phẩm khó
dịch. Nhưng trước mắt tôi có bản dịch của
Trần Dần là một bản dịch tuyệt vời. Tôi đã
dịch đi dịch lại nhiều lần bản trường ca này
nhưng cho đến nay chưa có bản nào sánh
được với bản dịch của Trần Dần”2.

Người thứ ba chúng tôi muốn nói đến
trong tư cách dịch giả của Maiakovski là
nhà văn Thế Phong. Sự nghiệp văn chương
của ông được tính bằng nhiều thể loại:
Thơ, truyện, phê bình văn học, khảo luận
và dịch thuật. Thực ra, mục đích của Thế
Phong không phải là dịch thơ Maiakovski,
ông chỉ thực hiện việc này khi dịch cuốn
hồi kí văn chương Poète Russe của Elsa

Triolet (mà ông đặt là Maiakovski và mối
tình câm), trong đó có nhiều đoạn dài các
thi phẩm của nhà thơ Nga. Trong tổng số
113 trang dịch của cuốn Poète Russe, ước
tính có khoảng 50 trang là thơ.
Về nguồn dịch, ta thấy chỉ có Hoàng
Ngọc Hiến dịch từ nguyên tác tiếng Nga,
hai người còn lại dịch thông qua bản tiếng
Pháp (nghĩa là văn bản bị dịch hai lần), có
lúc họ cùng dùng chung bản của Elsa
Triolet và Luis Aragon. Chúng tôi chưa có
cơ hội tiếp xúc với các bản dịch của hai
nhà thơ Pháp này, nhưng thông qua cách
Trần Dần chuyển ngữ từ bản của họ, đối
chiếu lại với nguyên tác tiếng Nga, chúng
tôi thấy nguyên tắc tín và đạt hoàn toàn
được đảm bảo. Cũng cần nói thêm, Elsa
Triolet là nhà thơ Pháp gốc Nga, có quan
hệ mật thiết với Maiakovski, khó có khả
năng bà không hiểu ngôn từ thi ca
Maiakovski, và khó có khả năng bà không
chuyển tải nổi ý tưởng hàm ẩn của ông
sang tiếng Pháp.
Để xem cách các dịch giả đọc, tiếp
nhận Maiakovski, chúng ta thử đối chiếu
họ dịch như thế nào cùng một văn bản.
Chúng tôi chọn vài đoạn trong bốn trường
ca tiêu biểu của thi sĩ Nga là Đám mây mặc
quần, Cây sáo - cột sống, Vladimir Ilitch
Lénine và Lớn tiếng.


30


Đoạn đối chiếu 1: Облако в штанах
Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến
Я,
воспевающий
машину и Англию,
может
быть,
просто,
в
самом
обыкновенном
Евангелии
тринадцатый
апостол.
И когда мой голос
похабно ухает от часа к часу,
целые сутки,
может быть, Иисус
Христос
нюхает
моей души незабудки.

Tôi ca ngợi nước Anh và máy móc
rất có thể, tôi chẳng là gì hết, chỉ
là vị thánh đồ thứ mười ba trong
cuốn Phúc Âm thông thường nhất

Và trong lúc
tôi bô bô bậy bạ –
biết đâu, ngày đêm
hết giờ này giờ nọ
Chúa Kitô cứ ngửi mãi không thôi
những đoá lưu li của tâm hồn tôi
(Đám mây mặc quần, 1915)

Bản dịch của Thế Phong
Tôi tụng ca nhà máy ở Anh
quốc
có lẽ chỉ có mình tôi
trong số những kẻ thờ ơ với
Chúa
là con chiên thứ mười ba Và
trong tiếng nói của tôi vang
lên như tiếng chim kêu đêm
ô uế giờ này đến giờ khác
này là đêm đã về
có lẽ Jésus Christ
hít hương thơm mysotis từ
tâm hồn ta.
(Mây quần hội, 1915)

Đoạn đối chiếu 2: Флейта-позвоночник
Nguyên tác tiếng Nga

Bản dịch của Trần Dần

Будешь за море отдана,

спрячешься у ночи в норе я в тебя вцелую сквозь
туманы
Лондона
огненные губы фонарей.

Bản dịch của Thế Phong

Dù em đã thề nguyền bên kia Mà
mây nước
anh hứa hẹn
dù em ẩn mình trong ổ kín
ở bên kia bờ,
ban đêm
tôi sẽ hôn anh
anh sẽ hôn em qua sương
ở bên kia
đục Luân Đôn
bờ sương mù
Luân Đôn
В зное пустыни вытянешь cặp môi lửa đèn lồng héo hắt
караваны,
Đôi môi lửa
dưới
где
львы
начеку,- Dù trong bãi bình sa cát
chảy
ánh đèn đêm.
тебе
под

пылью,
ветром em đi, dằng dặc đoàn người trong sa mạc
dù ở nơi đây sư tử đứng
nóng cháy
рваной,
da thịt
положу Сахарой горящую canh
anh vẫn áp lên em
người
щеку.
nóng bỏng
như
má Sahara anh
căng nứt
và sư tử
gió quật bụi lầm
31


(Ống sáo đốt xương sống,
1916)

Đoạn đối chiếu 3: Владимир Ильич Ленин
Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến
Время.
Thời gian
Начинаю
Tôi bắt đầu
про Ленина
kể chuyện Lênin

рассказ.
Nhưng phải đâu
Но не потому,
đã nguôi
что горя
niềm đau xót,
нету более - Vì chưng
время
nỗi nhớ thương
потому,
da diết
что резкая đã sáng lòng tôi,
ý thức rọi tâm tình
тоска
стала ясною
осознанною
болью.
[...]
[…]
Tôi
tắm mình
Я
dưới ánh sáng Lênin
себя
để rẽ sóng
под Лениным
bơi xa
чищу,
trên
dòng

чтобы плыть
cách mạng
в революцию (Vlađimir Ilits Lênin, 1925)
дальше,
32

thay
người gìn giữ –
và tôi
thử
giả dụ
là anh
đã nằm
dưới bụi, xương
tan tành
vì gió
má tôi
cháy bỏng
Sahara.
(Tiếng sáo của người, 1916)

Bản dịch của Thế Phong
Vào thời kỳ này
tôi bắt đầu
viết
lịch
sử đời Lénine
nhưng không phải vậy
mà người ta
không thấm cảm

nỗi đớn đau
bây giờ
là lúc niềm đớn đau
chia lìa,
trở thành
sự xấu xa lương tâm
trong
sáng
[…]
Tôi, tôi tự lau chùi
sự sáng chói
Lénine
để đào sâu hơn nữa


cuộc
mạng
(Vladimir
1925)
Đoạn đối chiếu 4: Во весь голос
Nguyên tác tiếng Nga
Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến
И все
Và mọi quân đoàn
поверх зубов
вооруженные войска,
vũ trang đầy đủ nhất,
hai mươi năm nay trong chiến
что двадцать лет в
thắng

победах
пролетали,
tung hoành
xin hiến dâng người, vô sản của
до самого
hành tinh,
последнего листка
hiến dâng toàn bộ,
я отдаю тебе,
tận trang cùng, dòng cuối
планеты пролетарий.
kẻ thù của công nhân,
Рабочего
giai cấp đông ức triệu
громады
là thù của tôi
класса враг vốn rõ mặt tỏng tong.
он враг и мой,
отъявленный и Những năm lam lũ
давний.
và những ngày ăn đói
thôi thúc chúng tôi đi
Велели нам
dưới ngọn cờ hồng
идти
под
красный флаг
[…]
года труда
Đến trước

и дни недоеданий.
Trung ương
[…]
Đảng
Явившись
những năm sáng sủa,
в Це Ка Ка
идущих đạp lên đầu
lũ nhà thơ
bịp bợm, giỏi
светлых
лет,
над
бандой xoay
tôi giơ cao lên
поэтических
tấm thẻ Đảng tôi
рвачей
и
выжиг я đây,
подыму, trăm tập
sách thơ tôi,
как
33

Ilitch

cách
Lénine,


Bản dịch của Thế Phong
Và tất cả
đoàn quân trang bị khí
giới tới cằm
mà hai mươi năm
trong thành công rải
rác
tôi sẽ tặng cho họ
đến trang cuối
cho mi,
vô sản địa cầu
Tất cả vô địch
của giới thợ thuyền
luôn luôn là
thù địch tôi thề hận
Chúng nó bảo ta
đi phục vụ
dưới màu cờ đỏ
năm khốn khó
những ngày không có
ăn
[…]
Trước
đám C.C.C.
những năm trong
sáng
ở trên
là bọn can đảm
và bọn ăn
cắp thi ca,

tôi đứng dậy
như con bài của
Đảng
toàn tập


большевистский
партбилет,
все
сто
томов
моих

sách Đảng.
(Lớn tiếng, 1930)

tác phẩm của tôi:
Bolchéviks…
(Giọng nói lớn, 1930)

партийных книжек
buộc phải bảo đảm tiêu chí này: Nguyên
tác có nhã thì bản dịch mới cần nhã. Còn
như chuyển một nguyên tác không nhã
thành một bản dịch nhã tức là không tuân
thủ nguyên tắc tín. Điều này cần đặc biệt
lưu ý khi dịch thơ của các nhà Vị lai4. Các
tác phẩm của V. Maiakovski là trường hợp
như vậy. Thơ ông là một hình thức mới
trong việc cắt đứt mọi vần điệu, hoà trộn

văn ngôn với khẩu ngữ, nhịp điệu biến hoá
khôn lường.
Ba dịch giả trên đây cố gắng chuyển tải
nội dung và hình thức câu thơ của nhà thơ chiến sĩ cộng sản Nga, nhưng không phải
ai cũng thành công. Qua bản dịch của từng
người, ta nhìn thấy người nghệ sĩ trong cá
nhân họ, đồng thời nhìn thấy họ nhìn nhà
nghệ sĩ Vị lai Maiakovski như thế nào. Ở
bản dịch của Trần Dần, ta thấy nổi bật
trước hết là phẩm tính của một thi sĩ. Ngoài
ví dụ mà chúng tôi đưa ra đối chiếu trong
bài viết này, Trần Dần còn dịch nhiều thi
phẩm khác của Maiakovski với một sự tinh
tế, tài hoa đặc biệt. Tuy nhiên, chất trữ tình
lai láng trong bản dịch của ông dường như
hơi nhiều so với nguyên tác, cho nên chưa
thật sự làm nổi bật tính nguyên sơ và sự
thô nhám rất đặc trưng của “quặng lời”
Maiakovski. Đặc điểm này được khắc phục
trong các bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến.
Bên cạnh đó, Hoàng Ngọc Hiến còn khá
thành công trong việc chuyển tải hình thức
thơ bậc thang, với cách ngắt nhịp để tạo ý
và thay cho vần điệu. Ông ý thức được việc
cần phải tạo nên những từ ngữ tương

Nói đến dịch thuật, người ta thường
lưu ý ba nguyên tắc là tín, đạt, nhã. Một
bản dịch cần vừa đảm bảo độ tin cậy, vừa
diễn đạt đủ ý, vừa phải tao nhã. Thực ra,

việc diễn đạt đủ/đạt ý cũng nằm trong tiêu
chí tín. Chữ tín/đạt này được hiểu không
phải là lối chuyển dịch từ sang từ (word by
word), mà là chuyển lại nội dung ngữ
nghĩa, văn phong, thậm chí cả nhịp điệu
của nguyên tác sang một ngôn ngữ khác.
Giữa dịch ngôn ngữ (language translation)
và dịch ý nghĩa (interpretative translation)
giới dịch thuật đánh giá cách dịch sau hơn
cách dịch trước. Đọc một số đoạn trích
dịch của Thế Phong trên đây, ta dễ có ấn
tượng là dịch ở cấp độ từ và câu, trong khi
ấy dịch ý nghĩa phải là dịch ở cấp độ văn
bản. Dịch thuật cũng là một công việc sáng
tạo, đòi hỏi mỗi dịch giả là một nhà nghệ
sĩ; dịch phẩm hay/dở phụ thuộc rất nhiều
vào điều này. Tuy nhiên, dù có sáng tạo
như thế nào, người dịch vẫn phải trung
thành với nguyên tác về nội dung, văn
phong. Anh ta không có quyền áp đặt nội
dung, tư tưởng hay giọng điệu khác cho
nhà văn. Dịch giả buộc phải dạo cùng một
cung đàn mà tác giả biểu diễn. Albert
Karenski khuyến cáo: “Tôi xin nhắc lại
một điều tâm niệm: Trong lao động dịch
thuật, phải giới hạn một cách có ý thức cá
tính sáng tạo của mình theo hướng có lợi
cho tác giả mình dịch”3. Còn chữ nhã, theo
kinh nghiệm của nhiều dịch giả, không nên
coi là nguyên tắc chung của dịch thuật, bởi

không phải bất cứ dịch phẩm nào cũng
34


đương trong tiếng Việt khi chuyển tải các
hình ảnh phóng đại có khả năng đập vào thị
giác người đọc, các từ ngữ có hiệu lực âm
thanh tối đa dội vào tai người nghe – đặc
trưng của thơ Vị lai. Bản dịch của Thế
Phong thiếu vắng khá nhiều điều căn bản
trên, bên cạnh đó có thể quan sát nhiều chỗ
dịch còn sai, thậm chí trái nghĩa, cho nên
khó chuyển tải đến người đọc chân dung
chân thực về con người cũng như phong
cách nhà thơ hàng đầu của nền thi ca xã hội
chủ nghĩa. Maiakovski trong nguyên tác
cao lớn, chói sáng, hào sảng hơn rất nhiều,
thật sự là một tháp đài sững sững, biểu
tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp một thời
lãng mạn cách mạng.
Hai dịch giả miền Bắc, dù thông qua
nguyên tác Nga ngữ hay thông qua bản
dịch trung gian Pháp ngữ, đều nhìn thấy
trong Maiakovski một nhà thơ trung thành
với lí tưởng cộng sản đến từng con chữ,
từng dấu phẩy, đến hơi thở cuối cùng,
nguyện hiến dâng trọn vẹn mình cho “vô
sản của hành tinh”. Ở bản dịch của Thế
Phong, ta thấy không phải hoàn toàn như
vậy. Ông dịch Poète Russe lần đầu vào

năm 1963, trong hoàn cảnh Sài Gòn tiếp
nhận văn học Nga nhiều điều cơ bản khác
với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Phạm Thị
Phương nhận xét: “Thế Phong có một cách
“đọc” khác so với cách “đọc” của Hoàng
Ngọc Hiến. Cách đọc đó hình như phù hợp
với một tinh thần muốn nhìn thấy sự phản
kháng của người nghệ sĩ đang sống “sau
bức màn sắt”5. Đọc từng đoạn cũng như
toàn bộ văn bản thơ dịch trong Maiakovski
– thi sĩ Nga hay mối tình câm của nàng,

độc giả lĩnh hội được một tinh thần phản
kháng nào đó của Maiakovski đối với
chính quyền – điều mà thực ra không thấy
ở nguyên tác của ông nói chung và trong
bài thơ được Thế Phong dịch nói riêng.
Càng về cuối đời, Maiakovski càng thất
vọng vì “vấp đời phàm tục” trong lí tưởng
phục vụ xã hội cũng như trong nhiều mối
quan hệ cá nhân, tinh thần phê phán của
ông đối với những bất cập của đời sống
càng trở nên sâu sắc, chua chát hơn, nhưng
bảo đó là sự phản kháng chế độ Xô-viết thì
không phải. Khác với S. Esenin “Sẵn sàng
dâng hết lòng mình cho tháng Mười tháng
Năm/ Nhưng riêng thơ mình tôi xin giữ
lại”, Maiakovski từ ngày đầu đến với cách
mạng xã hội chủ nghĩa cho đến phút cuối
nghiệt ngã của cuộc đời, vẫn thề nguyện

dành toàn vẹn con người và thơ ca cho Xôviết”6.
Dịch thuật được coi là sự mở đầu đọc
văn bản của người dịch và là sự nối tiếp
đọc của độc giả sau đó, góp phần quan
trọng định hướng tiếp nhận cũng như xác
định giá trị tác phẩm nghệ thuật. Việc
chuyển tải trung thành và có tính nghệ
thuật một nguyên tác sang ngôn ngữ khác
đòi hỏi lòng say mê, kiên trì, lao động
nghiêm túc. Maiakovski là một hiện tượng
đặc biệt của văn hoá đọc. Để tiếp cận được
với ông, cần phải có những bản dịch thật
sự biết “đọc” ông, “nghe” được ông. Làm
được điều ấy, thì dù cho ý thức hệ, cảm
quan thẩm mĩ của người đọc thế hệ sau có
chuyển hướng cơ bản so với thời đại ông,
nghệ thuật của ông vẫn mãi trường tồn.

Chú thích:
1
Hoàng Ngọc Hiến (2005), Từ Maiakovski đến Evtusenko, Nxb Đà Nẵng, tr. 5.
2
Hoàng Ngọc Hiến (2005), Sđd, tr. 7.
35


3

Karenski, A. (1996), “Cá tính sáng tạo của dịch giả và “thính giác tu từ”, Văn học nước
ngoài, số 3, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội, tr. 221.

4
Chủ nghĩa Vị lai (Futurism, Футуризм): tên gọi chung của một trong những trào lưu
tiên phong chủ nghĩa trong nghệ thuật thập niên 1910 - 1920, thịnh hành chủ yếu ở Ý và
Nga. Các nhà Vị lai tuyên truyền phá hủy các hình thức và quy ước của nghệ thuật cũ, vì
lợi ích của việc sáp nhập nghệ thuật với quá trình tăng tốc cuộc sống thế kỉ XX. Đặc trưng
của xu hướng này là nghiêng về hành động, chuyển động, sức mạnh, tốc độ, sự phong đại;
đề cao dấu hiệu thị giác; từ ngữ được giải phóng khỏi khuôn khổ cứng nhắc của thứ tự cú
pháp, của kết nối logic; từ bỏ lối viết tuyến tính; xây dựng văn bản trên sự tương đồng giữa
nhiều hình thức.
5
Phạm Thị Phương (2010), Văn học Nga tại đô thị miền Nam 1954-1975, Nxb Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 86.
6
Phạm Thị Phương (2010), Sđd, tr. 86.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Hoàng Ngọc Hiến (2005), Từ Maiakovski đến Evtusenko, Nxb Đà Nẵng.
Karenski, A. (1996), “Cá tính sáng tạo của dịch giả và “thính giác tu từ”, Văn học
nước ngoài, số 3, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
Маяковский Владимир Владимирович (1978), Полное собрание сочинений.
Москва, Издательство “Правда”.
Maiakovski, V. (1987), Trường ca, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, Hà Nội, Nxb

Văn học.
Maiakovski, V, Trường ca Ống sáo đốt xương sống, Trần Dần dịch, Nguồn:
cập nhật ngày 30.12.2011.
Phạm Thị Phương (2010), Văn học Nga tại đô thị miền Nam 1954-1975, Nxb Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Triolet, Elsa (1963), (1968), (2004), Maiakovski và mối tình câm, Thế Phong dịch,
Nxb Tổng hợp Đồng Nai.

* Nhận bài ngày 13/3/2011. Sửa chữa xong 31/3/2012. Duyệt đăng 5/4/2012.

36



×