Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh lữ hành tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.78 KB, 6 trang )

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN TRONG KINH DOANH LỮ HÀNH TẠI VIỆT NAM
TO ENHANCE THE USE OF INFORMATION
TECHNOLOGY ON TOURISM BUSINESS TECHNOLOGY
ON TOURISM BUSINESS IN VIETNAM
Vũ Thị Hường, Nguyễn Thị Huế
Email:
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 25/12/2017
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 26/3/2018
Ngày chấp nhận đăng: 28/3/2018
Tóm tắt
Du lịch là ngành công nghiệp không khói đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế. Để phát triển du lịch thì
việc ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, là điều
kiện tiên quyết quyết định thành công. Với sự phát triển của mạng xã hội và công nghệ đã thâm nhập
vào ngành du lịch sâu rộng hơn bao giờ hết. Một số công nghệ làm gia tăng trải nghiệm cho cả doanh
nghiệp kinh doanh du lịch và du khách, song đi kèm với nó là thách thức. Vì vậy, bất cứ doanh nghiệp
nào có thể đương đầu với thử thách này và tận dụng được lợi ích của nó sẽ đạt được thành công.
Bài viết sẽ đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức khi ứng dụng công nghệ thông tin vào kinh
doanh lữ hành tại Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp.
Từ khóa: Du lịch; ứng dụng công nghệ; Cách mạng Công nghiệp 4.0.
Abstract
Tourism is a non-smoke industry that plays an important role in the economy. For the development of
tourism, the application of information technology, especially in the context of the Industrial Revolution
4.0, is a prerequisite for success.
With the arrival of mobile devices, social networking, online bookings and new payment methods,
technology has entered the travel industry far more than ever. Some technologies add to the experience
- both for the business traveler and for the traveler, but it’s a challenge. The tourism industry is unlikely
to catch up with the rapid growth of technology. So any business that can cope with this challenge and


take advantage of it will achieve success.
The article will analyze the opportunities and challenges when applying information technology to the
tourism business in Vietnam, and suggest some suitable solutions.
Keywords: Tourism; technology; application; Industrial Revolution 4.0.
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Công nghệ thông tin là gì?
Theo Daintith, John (2009), công nghệ thông tin
(IT - Information Technology) là một thuật ngữ bao
gồm phần mềm, mạng lưới internet, hệ thống máy
tính sử dụng cho việc phân phối và xử lý dữ liệu,
trao đổi, lưu trữ và sử dụng thông tin.
Một cách dễ hiểu hơn, công nghệ thông tin là việc
sử dụng công nghệ hiện đại vào việc tạo ra, xử
lý, truyền dẫn thông tin, lưu trữ, khai thác thông
tin. Hiện nay, ngành Công nghệ thông tin thường

phân chia thành năm chuyên ngành phổ biến:
khoa học máy tính, kỹ thuật máy tính, hệ thống
thông tin, mạng máy tính truyền thông, kỹ thuật
phần mềm.
Du lịch là gì?
Theo  Tổ chức Du lịch thế giới  (World Tourist
Organization, 1995), du lịch bao gồm tất cả mọi
hoạt động của những người du hành, tạm trú,
trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu,
trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí,
thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những

72 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018



NGÀNH KINH TẾ
mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng
không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống
định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục
đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng
nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác
hẳn nơi định cư.
Lữ hành là gì?
Hoạt động lữ hành là hoạt động nhằm thực hiện
một chuyến đi từ nơi này đến nơi khác bằng nhiều
loại phương tiện khác nhau với nhiều lý do và mục
đích khác nhau và không nhất thiết phải quay trở
lại điểm xuất phát.
Hoạt động lữ hành có thể tiếp cận bằng hai cách:
- Theo nghĩa rộng
Hoạt động lữ hành bao gồm tất cả những hoạt
động di chuyển của con người cũng như những
hoạt động liên quan đến sự di chuyển đó. Với
cách tiếp cận này thì trong hoạt động du lịch có
bao gồm yếu tố lữ hành nhưng không phải tất cả
các hoạt động lữ hành là hoạt động du lịch.
- Theo nghĩa hẹp
Đề cập đến lữ hành ở phạm vi hẹp hơn để phân
biệt hoạt động kinh doanh du lịch trọn gói với các
hoạt động động du lịch khác như khách sạn, vui
chơi giải trí, ăn uống… người ta giới hạn hoạt
động lữ hành chỉ bao gồm những hoạt động tổ
chức hoạt động du lịch trọn gói. Điểm xuất phát
của cách tiếp cận này là người ta cho rằng hoạt

động lữ hành chủ yếu là các hoạt động kinh doanh
du lịch trọn gói.
Tiêu biểu cho cách tiếp cận này là định nghĩa trong
Pháp lệnh Du lịch và của Tổng cục Du lịch Việt
Nam:  Lữ hành là thực hiện một chuyến đi du lịch
theo kế hoạch, lộ trình và chương trình định trước.
Theo báo cáo của Vụ Lữ hành, Tổng cục Du lịch
(TCDL), trong 9 tháng đầu năm 2017, tốc độ tăng
trưởng lượng khách du lịch quốc tế vẫn duy trì ở
mức cao so với cùng kỳ năm 2016 với 9,45 triệu
lượt, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm 2016. Hầu
hết các thị trường trọng điểm đều có lượng khách
tăng, như Hàn Quốc tăng 51,2%; Trung Quốc tăng
47,7%; Nga tăng 40,6%... Tính đến tháng 9/2017,
cả nước có 1.780 doanh nghiệp lữ hành quốc tế.
Hoạt động kinh doanh lữ hành góp phần quan
trọng vào việc đón 9,45 triệu khách quốc tế của
toàn ngành du lịch. Tuy nhiên, ngành du lịch vẫn
còn phải nỗ lực rất nhiều để cùng với các ngành
kinh tế khác đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng
GDP 6,7% trong năm nay mà Chính phủ đã đề ra.

Những năm qua, ngành du lịch tiếp tục đà tăng
trưởng bền vững, khẳng định vai trò quan trọng
đối với phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm,
thúc đẩy thương mại và đầu tư, phát triển cơ sở
hạ tầng. Hoạt động của ngành du lịch từ đầu năm
đến nay của các tỉnh, thành đã có những bước
phát triển ấn tượng, nhiều sản phẩm du lịch chất
lượng được đưa vào phục vụ, đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của du khách.
Vai trò của công nghệ thông tin trong kinh doanh
lữ hành
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào ngành du
lịch nói chung và kinh doanh lữ hành là yêu cầu
tất yếu trong quá trình hội nhập, phát triển, không
chỉ gia tăng các tiện ích cho du khách và nhà
quản lý mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh với
các nước.
Cụ thể, công nghệ thông tin ảnh hưởng đến việc
quản lý và tiếp thị chiến lược của các tổ chức hiện
đại như là một sự thay đổi mô hình, có thể chuyển
đổi thực tiễn kinh doanh “tốt nhất” trên toàn cầu.
Công nghệ thông tin biến đổi vị trí chiến lược của
các tổ chức bằng cách thay đổi hiệu quả, sự khác
biệt, chi phí hoạt động và thời gian phản ứng.
Với những thách thức của sự phát triển không
ngừng của xã hội, khi các phương tiện quảng cáo
truyền thống như sách báo, tạp chí, tivi… không
còn giữ được vai trò chủ đạo như trước nữa thì
nhu cầu về một phương tiện quảng cáo mới là tất
yếu. Thay vào đó, trong những năm gần đây, sự
phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và
đặc biệt là internet và những công cụ của nó đã
giải quyết được những vấn đề bức xúc của các
phương tiện quảng cáo truyền thống là thời gian
ngắn và không gian rộng, hiệu quả cao và chi phí
thấp, từ đó mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam
đặc biệt là các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ có
cơ hội khai thác một hình thức quảng cáo tiếp thị mới

đầy hiệu quả với chi phí thấp.
Đặc biệt, công nghệ thông tin đã kích thích những
thay đổi cơ bản trong hoạt động và phân phối của
ngành du lịch. Ví dụ rõ ràng nhất là ứng dụng công
nghệ thông tin trong quá trình đặt chỗ cho phép cả
người tiêu dùng và ngành công nghiệp tiết kiệm
thời gian đáng kể trong việc xác định, hợp nhất, đặt và
mua các sản phẩm du lịch.
Khi việc ứng dụng công nghệ thông tin được triển
khai mạnh mẽ, khách du lịch có thể duyệt qua
internet và xác định một loạt các đề nghị phong
phú để đưa ra lựa chọn đi du lịch phù hợp với
yêu cầu cá nhân của họ. Do đó, trọng tâm chuyển

Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 73


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
hướng sang các chuyến du lịch riêng lẻ và các gói
năng động. Điều này sẽ cải thiện dịch vụ và cung
cấp trải nghiệm du lịch liền mạch, trong khi nó sẽ
cho phép các tổ chức du lịch nâng cao năng lực
cạnh tranh trong môi trường phát triển hiện đại.
Vì tất cả những lý do đã trình bày ở trên, việc
nghiên cứu, ứng dụng công nghệ vào kinh doanh
lữ hành ở Việt Nam là hết sức cần thiết.
2. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
TRONG KINH DOANH LỮ HÀNH TẠI VIỆT NAM
Theo số liệu của Tổng cục Du lịch, năm 2016,
du lịch Việt Nam đón 10 triệu lượt khách quốc tế,

tăng 26% so với năm 2015; phục vụ 62 triệu lượt
khách nội địa, tăng 8,8% so với năm trước đó;
tổng thu từ khách du lịch ước đạt trên 400.000 tỷ
đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2017, tổng lượng
khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 6.206.336
lượt, tăng 30,2% so với cùng kỳ năm 2016. Trong
khi đó, khách du lịch nội địa 6 tháng đầu năm cũng
đạt 40,7 triệu lượt. Tổng thu từ khách du lịch ước
đạt 254.700 tỷ đồng, tăng 27,1% so với cùng kỳ
năm 2016. Du lịch ngày càng khẳng định vai trò là
ngành kinh tế quan trọng của đất nước.
Có nhiều nguyên nhân để lượng khách du lịch đến
Việt Nam tăng, song có một nguyên nhân không
thể phủ nhận được, đó là những đóng góp của
công nghệ thông tin.
Hiện nay, 100% doanh nghiệp trong ngành du
lịch Việt Nam sử dụng máy tính và đường truyền
internet, ứng dụng những phần mềm chuyên
dụng, như: quản trị văn phòng, tài chính, mua bán
tour, thông tin điểm đến..., mang lại nhiều lợi ích
thiết thực cho doanh nghiệp du lịch, nhất là sự
liên thông mang tính toàn cầu trên internet hiện
nay đã giải quyết nhiều khó khăn tồn tại đối với
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh và tìm
kiếm thị trường.
Sự gắn kết bằng công nghệ thông tin tạo điều kiện
cho tất cả các doanh nghiệp phát triển, nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đủ lực để vươn
lên tiếp cận với thị trường và các hoạt động quảng
bá quy mô và tốn kém... Liên tục trong nhiều năm

trở lại đây, các công ty du lịch lữ hành, khách sạn,
cơ sở lưu trú trong cả nước đã tổ chức ứng dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động sản xuất kinh
doanh thông qua việc xây dựng và duy trì hoạt
động của các website, tổ chức mua bán tour, đặt
phòng trực tuyến cho du khách trong và ngoài
nước. Có thể thấy hoạt động của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch qua trang web ở địa chỉ: cinet.vn
bằng hai ngôn ngữ Anh, Việt, Tổng cục Du lịch

với trang vietnamtourism.gov.vn được thiết kế với
năm ngôn ngữ Việt, Anh, Pháp, Nhật, Trung đáp
ứng nhu cầu của cộng đồng và là kênh quảng bá
quan trọng hình ảnh Việt Nam ra thế giới. 
Trang điện tử baodulich.net.vn của Báo Du lịch là
cơ quan ngôn luận của Tổng cục Du lịch - Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch cập nhật các thông tin
về hoạt động của ngành trên địa bàn toàn quốc,
cũng như giới thiệu các điểm đến, văn hóa di sản,
món ăn độc đáo, quảng bá hình ảnh đất nước con
người Việt Nam một cách chính xác, cụ thể, thu
hút sự quan tâm chú ý của đông đảo độc giả trong
nước và quốc tế.
Cùng với các hoạt động công nghệ thông tin tại
các cơ quản quản lý và sự nghiệp của ngành du
lịch, hoạt động công nghệ thông tin của các doanh
nghiệp cũng phát triển khá mạnh, điển hình như
các công ty Vietravel, Saigontourist, Bến Thành
Tourist, Fiditour, dulichviet… đã triệt để ứng dụng
công nghệ và các hoạt động quảng bá, sản xuất

kinh doanh, góp phần đáng kể vào hiệu quả trong
hoạt động của doanh nghiệp và thành tích chung
của toàn ngành, cũng như thay đổi diện mạo du
lịch Việt Nam. Có thể thấy rõ nét ở trang điện tử
bán tour trực tuyến của Công ty TNHH Một thành
viên Du lịch & Tiếp thị GTVT Việt Nam (Vietravel)
tại địa chỉ travel.com.vn ra đời từ năm 2007, được
khách hàng và các tổ chức du lịch thế giới đánh
giá cao về sự tiện dụng, tính hiệu quả, tiện ích
đối với người tiêu dùng và dễ quản lý với doanh
nghiệp trong hoạt động kinh doanh theo mô
hình này. 
Tổ chức Du lịch thế giới nhận định, sự thay đổi đời
sống xã hội cùng với cuộc cách mạng công nghệ
là yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển nhanh
chóng của ngành du lịch trong những năm gần
đây. Sự gia tăng mạnh mẽ của tầng lớp khách lẻ
và khách thế hệ trẻ (những người sinh trong giai
đoạn 1980-2000) sử dụng dịch vụ của các đại lý
du lịch trực tuyến (Online Travel Agents - OTAs)
đã làm thay đổi đáng kể thị trường du lịch. Hãng
Google và Tập đoàn Temasek Holdings Singapore
dự đoán quy mô của du lịch trực tuyến tại khu vực
Đông Nam Á sẽ tăng mạnh từ 21,6 tỷ USD năm
2015 lên 89,6 tỷ USD vào năm 2025. Trong đó,
du lịch trực tuyến tại Việt Nam chiếm 10%, tương
đương 9 tỷ USD. Theo tập đoàn nghiên cứu thị
trường Euromonitor International, doanh thu bán
hàng du lịch trực tuyến tại Việt Nam sẽ duy trì mức
độ tăng trưởng 12% trong giai đoạn 2015-2020

(Lâm Minh, 2017).

74 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018


NGÀNH KINH TẾ
Thêm vào đó, Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin
và Truyền thông) cho biết, hiện nay có trên 50 triệu
người Việt Nam sử dụng internet, chiếm 53% dân
số và cao hơn mức bình quân của khu vực châu
Á - Thái Bình Dương (46,64%) và trên thế giới
(48,2%). Trong số đó có tới 78% thường xuyên sử
dụng internet hàng ngày (Lâm Minh, 2017). Đây
là thuận lợi lớn cho doanh nghiệp tham gia du lịch
trực tuyến. Rất nhiều người trẻ trước khi quyết
định đi du lịch đều tìm hiểu thông tin về nơi đến
trên mạng, sau đó đặt vé, phòng và các dịch vụ
khác trực tuyến. Đặc biệt, xu hướng của giới trẻ
trong nước hiện nay thích du lịch trải nghiệm đến
những nơi xảy ra các sự kiện lớn được quảng bá
trên phim ảnh.
Những con số nói trên đã cho thấy tiềm năng lớn
của thị trường du lịch trực tuyến tại Việt Nam. Đây
là cơ sở thúc đẩy các công ty du lịch, các hãng
vận chuyển khách, các cơ sở lưu trú sử dụng các
công cụ trực tuyến nhằm nâng cao thương hiệu
và gia tăng doanh số. Facebook, Zalo, Zing.me là
ba trong số các trang mạng xã hội phổ biến nhất
mà các công ty Việt Nam tận dụng cho các hoạt
động tiếp thị và quảng bá.

Nhận thức vai trò của công nghệ thông tin trong
kinh doanh du lịch, ngày 04/5/2017, Thủ tướng
Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg
về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách
mạng Công nghiệp 4.0, trong đó nêu rõ yêu cầu
đẩy mạnh phát triển du lịch thông minh. Theo đó,
tới năm 2020 Việt Nam sẽ thu hút được từ 17
đến 20 triệu lượt khách quốc tế (so với 10 triệu
năm 2016), phục vụ 82 triệu lượt khách nội địa
(so với 62 triệu năm 2016), đóng góp trên 10%
GDP, tổng thu từ khách du lịch đạt 35 tỷ USD và
tạo ra khoảng 4 triệu việc làm gồm 1,6 triệu việc
làm trực tiếp.
Thực tiễn hơn 10 năm triển khai Luật Du lịch 2005
rút ra nhiều bài học quý, có những yếu tố tích
cực có tính chất mở đường cho du lịch phát triển
nhưng đồng thời cũng nảy sinh không ít những
vấn đề gây trở ngại tạo ra những rào cản. Điều đó
cho thấy khuôn khổ thể chế đã không đáp ứng kịp
nhu cầu và xu thế phát triển du lịch. Vì vậy, những
tư tưởng đổi mới trong Nghị quyết số 92/NQ-CP,
ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải
pháp đẩy mạnh phát triển du lịch trong thời kỳ mới
và Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 16/01/2017 của
Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn đã được tiếp thu và thể chế hóa
trong Luật Du lịch sửa đổi mà Quốc hội đã thông
qua ngày 19/6/2017. Những yếu tố mới có độ cởi

mở cao được hướng dẫn triển khai đồng bộ với

sự cam kết mạnh mẽ của chính quyền từ trung
ương đến địa phương, doanh nghiệp và người
dân sẽ khơi dậy tiềm lực, tạo đà kích thích du lịch
phát triển bứt phá trong giai đoạn tới.
Tổng cục Du lịch cũng xác định việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong ngành du lịch là một
trong những giải pháp đột phá để nâng cao tính
cạnh tranh của du lịch Việt Nam. Giải pháp ứng
dụng công nghệ thông tin sẽ là công cụ hữu hiệu
phục vụ ba nhóm đối tượng chính là người quản
lý, nhà cung cấp dịch vụ và khách du lịch.
3. NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC
Như đã nói ở trên, hiện nay 100% các doanh
nghiệp du lịch đều quan tâm sử dụng internet
trong hoạt động quảng cáo và kinh doanh. Mặc
dù vậy, ứng dụng công nghệ thông tin trong đại đa
số các doanh nghiệp du lịch mới dừng ở mức cơ
bản, chưa khai thác được tối ưu các lợi thế của
công nghệ trong cạnh tranh, thu hút khách hàng
cũng như trong quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Theo khảo sát của Hiệp hội Du lịch Việt Nam, hiện
nay, ngoài hệ thống khách sạn, đặc biệt là khách
sạn cao cấp, thương hiệu quốc tế và các hãng
hàng không ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động kinh doanh khá thành công thì hầu hết
các đối tượng khác liên quan đến hoạt động du
lịch như: doanh nghiệp lữ hành, điểm tham quan
và các đơn vị vận chuyển đều còn nhiều hạn chế
trong việc ứng dụng công nghệ số.
Ví dụ từ việc nhỏ nhất như bảo vệ tên miền

thương hiệu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy,
hàng loạt thương hiệu du lịch uy tín của Việt Nam
đã bị mất tên miền ".com" như: Sài Gòn Tourist
(mất tên miền Saigontourist.com), Hà Nội Tourist
(mất tên miền Hanoitourist.com), Vitour (mất tên
miền Vitours.com), Du lịch Chợ Lớn (mất tên miền
Cholontourist.com)...
Ngoài ra, trong khi các hãng du lịch quốc tế đang
ngày càng đổi mới phương thức tiếp thị và bán
hàng thông qua các ứng dụng như đặt tour/đặt
phòng qua app, quản lý hoạt động kinh doanh
và chăm sóc khách hàng bằng hệ thống CRM
(Customer Relationship Management), thanh
toán trực tuyến… thì rất nhiều doanh nghiệp du
lịch Việt Nam vẫn vận hành theo hình thức cũ, vừa
chậm chạp vừa tốn kém.
Do không ý thức được tầm quan trọng của bảo
mật thông tin, ứng dụng công nghệ vào quản trị,
chậm chân so với các đối thủ cạnh tranh khác nên
doanh thu của nhiều doanh nghiệp sụt giảm, mất

Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 75


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
khách, chưa kể gánh thêm những rủi ro không
đáng có khi không bám sát được thị trường và
năng động trong công tác điều hành quản lý.
* Đối với các doanh nghiệp lữ hành, một số
công ty lữ hành lớn như Saigontourist, Vietravel,

Vietrantour, Viet Media Travel, Vietnamtourism…
đều tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động kinh doanh du lịch với khối lượng sản
phẩm phong phú, có thông tin cụ thể về thời điểm,
giá cả, các dịch vụ. Website của các công ty này
đã giới thiệu và cung cấp nhiều sản phẩm sẵn có
của công ty cho khách hàng. Trong khi đó, hầu hết
các công ty lữ hành khác chỉ đơn thuần giới thiệu
sản phẩm và đề nghị khách hàng đăng ký, công ty
sẽ liên hệ lại và thông báo chi tiết.
* Đối với các điểm tham quan và các đơn vị vận
chuyển khác (ngoài hàng không), việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh du
lịch chiếm tỷ lệ rất thấp. Cụ thể, theo Euromonitor
International, tỉ lệ ứng dụng thương mại điện tử tại
các điểm tham quan tại Việt Nam là hầu như chưa
có. Tỉ lệ thanh toán trực tuyến của các loại hình
vận chuyển du lịch (thuyền, tàu hỏa, xe khách...)
tại Việt Nam (trong giai đoạn 2012-2016) chỉ đạt
mức 2-3% và dự đoán mức tăng trưởng trong giai
đoạn 2017-2022 ở mức 5%.
Điều đáng tiếc hơn cả là thị trường du lịch trực tuyến
tại Việt Nam dường như đang là mảnh đất màu mỡ
cho các thương hiệu quốc tế khai thác. Theo số liệu
của Hiệp hội Thương mại điện tử, các OTAs thương
hiệu toàn cầu như Agoda.com, booking.com,
Traveloka.com, Expedia.com (bao gồm Trivago.
com, hotel.com) đang độc chiếm thị trường Việt
Nam, với 80% thị phần. Trong khi đó, hiện chỉ có
trên 10 công ty Việt Nam có kinh doanh du lịch trực

tuyến như: Ivivu.com, chudu24.com, mytour.vn, tripi.
vn, mytour.vn, gotadi.com, vntrip.vn… Tuy nhiên,
các công ty này cũng chỉ phục vụ thị trường khách
trong nước và số lượng giao dịch còn thấp.
4. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
Có thể nói, trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công
nghiệp 4.0 đã tác động và lan tỏa trên phạm vi
rất rộng như hiện nay, ngành du lịch vừa được
hưởng lợi, đồng thời cũng phải đối mặt với áp lực
lớn bởi sự cạnh tranh của các quốc gia đi trước và
đạt được nhiều thành tựu cả về nghiên cứu chuyên
sâu cũng như hoạt động thực tiễn. Điều này đòi hỏi
tất cả các thành phần trong ngành du lịch, từ các
cơ quan quản lý nhà nước cho đến các công ty cấp
sản phẩm - dịch vụ du lịch, phải hành động kịp thời,
đẩy mạnh áp dụng công nghệ, thực hiện quá trình

chuyển đổi số càng sớm càng tốt nếu không muốn
bị chậm chân so với các nước trong khu vực.
Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 6 tháng năm
2017 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt trên
6 triệu lượt khách, tăng 30% so với cùng kỳ năm
2016. Tuy nhiên, năm 2016 Việt Nam chỉ đứng thứ
5 trong các nước ASEAN về số lượng khách quốc
tế với hơn 10 triệu lượt và chỉ bằng một phần ba
so với Thái Lan.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề xuất Chính
phủ các giải pháp để đạt mức tăng trưởng 30%
trong năm 2017, phấn đấu đưa du lịch nước ta trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, bao gồm đẩy mạnh

hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch và mở rộng
danh sách các nước được thí điểm áp dụng cấp
thị thực điện tử (e-visa).
Để làm được điều này, cần chú ý những giải
pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức
khoa học và công nghệ trong lĩnh vực du lịch.
Đẩy mạnh việc đào tạo trong và ngoài nước đối
với đội ngũ cán bộ nghiên cứu có năng lực và
trình độ cao, các nhóm nghiên cứu mạnh trong
các lĩnh vực ưu tiên về ứng dụng công nghệ trong
du lịch nhằm tăng nhanh chất lượng nghiên cứu,
sản phẩm khoa học, công nghệ đạt trình độ và
chuẩn mực quốc tế; chuyển giao và ứng dụng
nhanh các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn
nhằm góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm du lịch Việt Nam.
Thứ hai, phát triển, đổi mới hệ thống các cơ quan
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong lĩnh
vực du lịch
Đầu tư nâng cao năng lực khoa học, công nghệ
nội sinh cho các đơn vị, cơ quan KH&CN hiện có;
đầu tư củng cố nâng cao năng lực nghiên cứu
ứng dụng của Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch,
chú trọng đầu tư chiều sâu (cả về nhân lực và
trang thiết bị nghiên cứu) để hình thành tổ chức
nghiên cứu có năng lực và chuyên môn cao trong
lĩnh vực du lịch ngang tầm các nước trong khu
vực. Tăng cường sự phối hợp giữa các viện
nghiên cứu, các trường đại học trong cả nước và

quốc tế về lĩnh vực du lịch để giải quyết các nhiệm
vụ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển du
lịch. Đổi mới tổ chức và quản lý khoa học và công
nghệ theo hướng đề cao tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân.

76 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018


NGÀNH KINH TẾ
Thứ ba, xây dựng chương trình ứng dụng và phát
triển công nghệ trong lĩnh vực du lịch,  tập trung
vào một số hướng như: 
• Đối với hoạt động quản lý:  
Xây dựng có trọng điểm một số hướng ứng dụng
công nghệ nhằm thay đổi mạnh về mức độ ứng
dụng công nghệ trong quản lý du lịch, bao gồm:
- Đẩy mạnh số hóa công tác quản lý ngành du lịch,
phát triển chính quyền điện tử hướng tới du lịch bền
vững, trong đó lấy nhu cầu của khách du lịch, người
dân và doanh nghiệp làm trung tâm.
- Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
(internet, xây dựng kênh truyền hình riêng cho
du lịch, quảng bá trên các kênh truyền hình nổi
tiếng…) trong hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch
chung của ngành.
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ hệ thống thông
tin địa lý (GIS) và công nghệ viễn thám trong quản
lý tài nguyên, môi trường du lịch và thực hiện các
quy hoạch du lịch ở Việt Nam.

- Nghiên cứu xây dựng và từng bước ứng dụng hệ
thống thông tin quản lý điểm đến.
• Đối với hoạt động kinh doanh du lịch:  
Tập trung vào một số hướng ứng dụng trọng yếu sau:
- Đầu tư cho công nghệ thông tin bao gồm cả
phần cứng và phần mềm, trong đó xây dựng,
hoàn thiện kế hoạch ứng dụng công nghệ thông
tin trong kinh doanh và marketing, bao gồm tăng
cường nguồn lực đội ngũ nhân sự công nghệ
thông tin tại chỗ, tăng cường thực thi các công cụ
online marketing và e-commerce; kiểm soát spam
email. Song song với đó, các doanh nghiệp cần
xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo, mới lạ,
đảm bảo độ chính xác, tin cậy về thông tin, các
sản phẩm và dịch vụ.
Ngoài ra, cần tăng cường quản lý và khai thác
hiệu quả mạng xã hội và sức mạnh của quảng
cáo truyền miệng; Đầu tư xây dựng website có
giao diện thân thiện với smart phone, tăng cường
tích hợp các công cụ thanh toán trực tuyến nhằm
đẩy mạnh kênh bán lẻ trên nền tảng di động; Số

hóa dữ liệu, tăng cường khai thác kho dữ liệu
lớn - Big Data…
-  Ứng dụng các  mô hình kinh doanh du lịch  trực
tuyến (mua bán phòng khách sạn, tour du lịch trên
mạng…) để  từng bước chuyển dần sang mô hình
thương mại điện tử trong du lịch (e-tourism) khi
các điều kiện về hạ tầng công nghệ và hành lang
pháp lý đầy đủ. Phấn đấu đến năm 2020 xây dựng

và vận hành hoàn chỉnh hệ thống thương mại điện
tử trong du lịch theo các mô hình G2B, B2B, B2C.
5. KẾT LUẬN
Ứng dụng công nghệ vào hoạt động du lịch đã mang
lại những kết quả đáng kể như đã trình bày ở trên.
Với tốc độ tăng trưởng du lịch khá ấn tượng hiện
nay và những năm tiếp theo cùng với sự phát triển
nhanh, ưu việt của công nghệ, thì ứng dụng công
nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp trong hoạt động lữ hành, nhà hàng,
khách sạn, cũng như việc quảng bá hình ảnh du lịch
Việt Nam sẽ càng có hiệu quả hơn, góp phần đáng
kể để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013). Quyết
định số 4227/QĐ-BVHTTDL, ngày 29/11/2013
phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công
nghệ ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn
2013-2020, tầm nhìn 2030.
[2]. Tổng cục Du lịch (2017). Báo cáo du lịch thường
niên Việt Nam năm 2016.
[3]. Tổng cục Du lịch (2017). Thông tin về tình hình du
lịch Việt Nam 6 tháng đầu năm 2017.
[4]. Lâm Minh (2017). Doanh nghiệp du lịch Việt vẫn
“loay hoay” với ứng dụng CNTT. Truy cập từ http://
toquoc.vn/du-lich/doanh-nghiep-du-lich-viet-vanloay-hoay-voi-ung-dung-cntt-259319.html
[5]. Daintith, John, ed. (2009). IT, a Dictionary of
Physics. Oxford University Press, retrieved 1
August 2012.

[6]. World Tourism Organization (1995). UNWTO
technical manual: Collection of Tourism Expenditure
Statistics. p.10.

Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 77



×