Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thử đề xuất hướng giải quyết các tranh luận về một số nội dung của truyện cổ dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.47 KB, 5 trang )

Nghiên cứu - Trao đổi

THỬ ĐỀ XUẤT HƯỚNG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH LUẬN
VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA TRUYỆN CỔ DÂN GIAN
? TRIỀU NGUN

*

1. Đặt vấn đề
Sở dĩ phải quan tâm đến việc đề xuất hướng giải
quyết các tranh luận về một số nội dung của truyện
cổ dân gian1, vì đã có các nhìn nhận, bình giá liên
quan đến tác phẩm của loại truyện này khơng giống
nhau, xuất hiện trên sách báo trong thời gian gần đây.
Vẻ như những phê phán, chỉ trích ngày càng gay gắt
và tỏ ra áp đảo so với các ý kiến nhằm bảo vệ sự đúng
đắn và hợp lẽ của các thể loại truyện cổ.
Để có thể đề xuất cách giải quyết vấn đề đặt ra
một cách xác đáng, cần trình bày ở đây hai khía cạnh:
sự khơng phù hợp với quan niệm hiện nay của một
số loại hình văn hóa dân gian; và một số nhận thức
về văn hóa dân gian, trong đó có truyện cổ tích (một
bộ phận quan trọng của truyện cổ), cùng việc lĩnh
hội, tiếp nhận thể loại truyện này.2 Nội dung đầu là
ngun nhân chính của các phê phán, chỉ trích truyện
cổ, nội dung sau là các nhìn nhận được cho là hợp lẽ
của các nhà nghiên cứu về vấn đề (mà việc trích dẫn
chúng như một cơ sở, làm tiền đề về mặt lý luận cho
việc đề xuất của bài viết).
1.1. Sự khơng phù hợp với quan niệm hiện nay
của một số loại hình văn hóa dân gian


Khơng ít các loại hình, sản phẩm văn hóa dân gian
còn lưu truyền đến ngày nay, có những khía cạnh
khơng mấy phù hợp với quan niệm của con người
hiện tại. Điều này có thể tìm thấy rất nhiều từ phong
tục, tập qn, tín ngưỡng, lễ hội; các tri thức dân gian
về phòng, chữa bệnh; các sáng tác về văn học, nghệ
thuật,... Ở đây, chỉ nêu một vài trường hợp thuộc văn
học, có liên quan đến vấn đề.
Khi tìm hiểu truyện cổ tích thế tục, người viết bắt
gặp hiện tượng những nhân vật là con người ranh
mãnh, đã đem cái tinh ranh ra tranh giành trong thiên
*

ThS., Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam.

64

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

hạ (như tranh người đẹp, tranh của cải, chức quyền,...),
và đa số họ đều thắng lợi. Có phải người xưa muốn cổ
vũ cho những kẻ tinh qi này? Thật khó để có câu trả
lời phù hợp. Biết đâu, vì muốn hướng người nghe vào
điều khơn3, mà người thời trước đã đánh đồng giữa
khơn ngoan và ma mãnh; hay do khơng hiểu được sự
ra đời của ranh ma, quỷ quyệt là từ cái khơn đã bước
qua lằn ranh của lẽ phải và điều thiện mà thành?4

Khi tìm hiểu truyện trạng, lại nhận ra, phần lớn lập
luận của các nhân vật trạng quen thuộc như Trạng
Quỳnh, Men Chây Prạt (người Khơ Me), Xiển Bột,
Xiêng Miêng (người Thái), Thủ Thiệm,... đã sử dụng lối
nguỵ biện hay có tính chất nguỵ biện. Có ba nội dung
liên quan được tìm thấy, đó là: lấy cái lý làm trọng, kể
cả lý gian; vận dụng các quan niệm có phần cực đoan
hay thiếu tính vị tha: “vi phú bất nhân”, “khơn sống
mống chết”, “ăn miếng trả miếng”, “dĩ độc trị độc”,...;
và về mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện: lấy
mục đích biện minh cho phương tiện.
Quan niệm “lấy mục đích biện minh cho phương
tiện” được xem là phương châm hành động của nhân
vật trạng. Vì mục đích tốt đẹp là sự cơng bằng xã hội
và cái lý được tơn trọng, nhân vật trạng có thể sử
dụng các phương tiện thiếu tử tế, khơng được quang
minh chính đại, như tạo hiện trường giả hòng chiến
thắng đối phương. Chẳng hạn, với nhóm truyện các
trạng Ba Giai, Phủ Tuấn, Thủ Thiệm,... trị thói nanh
nọc, chanh chua của các ả bán hàng; có thể thấy rằng:
để mọi người khơng bị xúc phạm, việc mua bán được
cơng bằng (mục đích), các trạng đã khơng từ phải làm
những việc thơ lỗ ngay giữa chốn đơng người (phố
phường, chợ búa,...), như chửi rủa, tuột quần mình,
bóp vú người (phương tiện). Nhờ cái mục đích tốt
đẹp, cao q kia, mà các phương tiện xấu xa, bỉ ổi nọ
khơng bị cho là sai bậy (được biện minh).


Nghiên cứu - Trao đổi


Con người hiện nay đều biết, ranh mãnh là sai trái,
nguỵ biện là khơng hợp lẽ, “lấy mục đích biện minh
cho phương tiện” là thiếu đúng đắn (bởi kẻ đã làm
điều bất cơng, mờ ám thì khó thể nói kẻ ấy sẽ đem lại
sự cơng bằng, minh bạch).5 Trong lúc những điều vừa
nêu từng tồn tại trong tác phẩm văn học dân gian,
phù hợp với tâm lý, quan niệm và thị hiếu thẩm mỹ
của cộng đồng một thời gian dài, có thể đến cả nghìn
năm. Vì vậy, cần phải tìm cách phù hợp để giải quyết.
1.2. Nhận thức về văn hóa dân gian, trong đó
có truyện cổ tích, và việc lĩnh hội, tiếp nhận thể loại
truyện này
Dưới đây là việc trình bày ba nội dung chủ chốt
(theo cách thật ngắn, gọn) liên quan, làm cơ sở cho các
nhìn nhận, có tác dụng như sự đề xuất, ở mục tiếp sau:
1/ Một số nhà nghiên cứu ở Anh, Pháp ln nhấn
mạnh đến bình diện “truyền thống” (và chú ý đối lập
nó với hiện đại), của các loại hình, sản phẩm folklore.6
Chẳng hạn (hai trích dẫn đầu của người Anh, hai trích
dẫn sau của người Pháp): “(Đối tượng nghiên cứu của
folklore) là những tàn dư về tinh thần của nhân dân
(dân chúng) thuộc các dân tộc cổ đại và những thiên
kiến cổ hủ, những huyền thoại vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay mà khơng phải là hiện tượng hiện đại” (Lang
A.); “Folklore học nghiên cứu sức mạnh của truyền
thống trong quan niệm của nhân dân về tâm hồn, trong
những quan niệm về tổ tiên và các quan niệm thần bí,
trong hình ảnh của linh hồn và thần linh, trong niềm tin
vào thế giới bên kia, trong ma thuật, thần thoại, truyện

cổ tích,...” (Cox M. R.); “(Folklore là) truyền thống dân
gian theo quan niệm rộng rãi của từ này, bao gồm tất cả
những cái được lưu truyền trong nhân dân từ thế kỷ này
sang thế kỷ khác. Truyền thống đó được phản ánh dưới
những hình thức khác nhau: dân ca, tục ngữ, cổ tích,
tín ngưỡng hoặc mê tín” (Gittee A.); “Folklore là những
tri thức tập thể phi học thuyết và thực hành tập thể phi
lý luận. Phạm trù quan trọng nhất của folklore là tính
truyền thống và tính tập thể” (Varagnac A.)...7

đã có trước đó; và cuối cùng, bị quy định bởi nhu cầu
đời sống, họ chờ đợi ở tác phẩm những vấn đề, những
hiện tượng, hiện thực mà họ quan tâm”.8 Điều vừa nêu
được xem là cơ bản trong việc tiếp nhận và nâng lên
thành lý thuyết tiếp nhận. Lý thuyết tiếp nhận ấy có
thể dùng chung cho cả văn học dân gian lẫn văn học
viết. Riêng với văn học dân gian, trường hợp truyện
cổ tích, có lẽ cần bổ sung theo kiểu nhấn mạnh, rằng
phải chú ý nhiều hơn đến: a) Những quy phạm về việc
lĩnh hội, bao gồm sự cần thiết phải nắm bắt các “mã
ngơn ngữ, mã nghệ thuật, mã văn hố” được biểu đạt
ở văn bản tác phẩm; b) Những sự việc, vấn đề được
đặt ra trong truyện khơng do cá tính sáng tạo của nhà
văn, mà đây là quan niệm, cảm nhận thẩm mỹ của
một cộng đồng, một dân tộc, thuộc truyền thống của
cộng đồng, dân tộc hay đất nước liên quan.
2. Đề xuất hướng giải quyết các tranh luận về
một số nội dung của truyện cổ dân gian
2.1. Sự nhìn nhận nói chung về nội dung của
truyện cổ dân gian

2.1.1. Để nắm bắt ý nghĩa của truyện ngụ ngơn
dân gian Việt Nam, người viết có nêu “định hướng”,
rằng tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung, nhằm
phục vụ con người, nên ý nghĩa (nội dung tư tưởng,
tác dụng thẩm mỹ) rút ra phải nhắm vào con người.9
Trước đó, Gulaiep N. A. đã có ý tương tự: “Hình tượng
nghệ thuật trở thành có giá trị về mặt thẩm mỹ khi nào
nó bao hàm được một đối tượng có tính người, khi nó
được tư tưởng soi sáng, phơi bày hiện thực trong mối
quan hệ của nó đối với con người”.10

2/ Riêng truyện cổ tích, một sản phẩm của folklore,
theo Nguyễn Đổng Chi, có ba đặc điểm: a) Tính chất
cổ của sự việc; b) Trong sự việc được kể, đừng có yếu
tố gì q xa lạ với bản sắc dân tộc; và c) Truyện cổ
tích ít nhiều phải thể hiện tính tư tưởng và tính nghệ
thuật [4, 66 - 72]. Có thể thấy, hai nội dung đầu thuộc
truyền thống, nội dung thứ ba là điều tất yếu của một
tác phẩm văn học, ở đây là văn học dân gian.

Từ xa xưa, Aesop (Êdốp) cũng hình tượng hóa điều
vừa nêu bằng mẩu truyện “Người và Sư Tử”. Truyện
rằng: Hơm nọ, Người và Sư Tử đi cùng đường, cả hai ra
sức hunh hoang, tự ca ngợi mình. Nhân cạnh đường
đi có tảng đá, trên có chạm hình người đang bóp cổ
sư tử, Người mới chỉ hình chạm ấy cho bạn đồng hành
của mình thấy, và nói: “Thấy chưa, con người khỏe
hơn sư tử”. Sư Tử thống mỉm cười, nói rằng: “Nếu Sư
Tử cũng biết chạm thì Người sẽ thấy hình chạm sư tử
cưỡi trên lưng người!”.11 Sẽ khơng có một bức chạm

như nhân vật Sư Tử trong truyện nói. Vì sư tử thì vĩnh
viễn khơng biết chạm, mà người biết chạm thì khơng
muốn bị nó cưỡi. Bức tượng (chạm hình người đang
bóp cổ sư tử) có thể lãng mạn, viễn tưởng, nhưng
đó là mong muốn dùng sức mạnh để chế ngự thế
giới tự nhiên của người, nhằm đề cao con người.

3/ Để tiếp nhận một tác phẩm văn học, người tiếp
nhận “trước hết, bị quy định bởi văn bản tác phẩm, với
các mã ngơn ngữ, mã nghệ thuật, mã văn hóa kết tinh
trong đó; thứ đến, bị quy định bởi kinh nghiệm tiếp nhận
do truyền thống văn học và sự tiếp nhận các tác phẩm

Thật ra, với truyện ngụ ngơn và truyện cổ tích lồi
vật, là cần đặt ra việc “định hướng” này hơn cả. Bởi ở
đó, cả con vật, đồ vật, và con người đều là nhân vật
truyện; và ở nhóm truyện có nhân vật là con vật và
con người, hai bên lại có tác động trực tiếp đến nhau

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

65


Nghiên cứu - Trao đổi

(như người có lúc thắng, cũng có lúc thua vật).

Chẳng hạn, truyện cổ tích lồi vật “Thỏ xử kiện tài
tình” (truyện người Kinh), có bộ phận “Xử con u tinh
chiếm đoạt vợ người”, được biểu đạt theo mơ hình
của truyện ngụ ngơn. Bộ phận truyện này kể về con
thỏ thơng minh, sáng suốt, trước hai kẻ giống hệt
nhau về hình dáng, nhưng bản chất thì một bên là
người một bên là u tinh, thỏ đã xác định một thuộc
tính của bản chất, cái có thể phân biệt được hai đằng,
đó là “biến hóa được” (u tinh) và “khơng biến hóa
được” (người), rồi chỉ dùng một câu nói bẫy là bắt
được u tinh. Vậy đây là truyện nhằm ca ngợi thỏ tài
năng, phê phán quan kém cỏi? Hồn tồn khơng phải
như vậy. Con người sáng tạo nên nó, chủ yếu và trên
hết là để phục vụ cho mình. Cho nên, ý nghĩa được
suy ra chỉ có thể là: Người thơng minh có khả năng
lý giải tường tận, suy xét thấu đáo, và đưa ra kết luận
phù hợp về vấn đề mà họ quan tâm. Nghĩa này khơng
chỉ là một nhìn nhận thực tiễn khách quan mà còn
hàm ý cả việc cần ưu đãi, tơn trọng bậc tài năng đang
sống đâu đó trong nhân dân.
Tương tự với truyện này, có “Hai người chồng giống
nhau” (truyện người Thái), chép ở Văn hóa dân gian xứ
Nghệ - Tập II: Truyện kể dân gian xứ Nghệ (Ninh Viết
Giao (2012), Hà Nội: Văn hóa Thơng tin, 828 - 829). Ở
truyện người Thái, nhân vật xử kiện là Khạ, một chàng
trai thơng minh (Cách xử của Khạ: Anh bảo hai người
cùng xưng là chồng cơ gái thổi sáo. Khi họ thổi xong,
anh khen cả hai thổi hay, rồi nói: ai chui được vào ống
sáo là chồng của cơ gái. Con u tinh mắc lỡm, ỷ mình
có phép thuật, liền chui ngay vào, và bị Khạ bít ống

sáo lại, ném vào bếp lửa, mất mạng). Nhân vật thỏ ở
truyện người Kinh, được thay bằng Khạ, một chàng trai
dân tộc Thái. Mỗi khi ta hiểu các truyện cùng mơ hình
đều có chung một nghĩa, bấy giờ, các nhân vật trong
mơ hình ấy là “nhân vật chức năng”, thì ý nghĩa vừa
nêu hồn tồn hợp lẽ, khơng có gì phải bận tâm nữa.
2.1.2. Đến đây, đã có thể nêu sự nhìn nhận của bài
viết về nội dung của truyện cổ dân gian. Sự nhìn nhận
ấy là kết quả, hệ luận được rút ra từ các quan niệm đã
trình bày, như sau:
1/ Văn học nghệ thuật do con người làm ra, chúng
phản ánh hiện thực cuộc sống theo hướng phục vụ
con người, nên các nội dung ở số truyện có nhân
vật là con vật cũng thực hiện u cầu ấy, là ln vì
con người, lấy con người làm mục đích (bấy giờ, con
vật hoặc sắm vai người hoặc đồ chiếu lên xã hội con
người, chứ khơng phải tự thân);
2/ Trong quan hệ giữa con người với con vật, tục
ngữ có câu “Chim với phượng cũng kể lồi hai chân,
thú với kỳ lân cũng kể lồi bốn vó”, ý nói, dù rực rỡ và

66

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

thiêng liêng như phượng, như kỳ lân, chúng cũng là
lồi chim, lồi thú, mà chim mng là để ni người

(“vật dưỡng nhân”), chẳng có gì phải kiêng, phải sợ12;
đây là quan niệm đặt con người ở vị trí tối thượng, các
con vật, khơng kể là bình thường hay linh thiêng, đều
phải phục vụ con người;
3/ Để tiếp nhận truyện cổ dân gian, trong đó có
truyện cổ tích, nhằm nắm bắt nội dung của chúng,
cần đặt truyện vào truyền thống văn hóa của các dân
tộc, của đất nước; hơn nữa, vì sự việc mà truyện đặt ra
thuộc về q khứ và của tập thể, nên người đọc, nghe
ở thời hiện tại, dù có vừa ý hay khơng cũng khơng thể
phủ nhận, cải biên.13
2.2. Sự nhìn nhận ấy cũng là định hướng để giải
quyết các tranh luận về một số nội dung của truyện
cổ dân gian
Có thể xem ba nhìn nhận vừa nêu như một “Bộ
quy tắc ứng xử” của người lĩnh hội, trước nội dung
của truyện cổ. Hai nội dung đầu liên quan đến các
truyện cổ có nhân vật là con vật, được tìm thấy nhiều
ở truyện ngụ ngơn và truyện cổ tích lồi vật, nội dung
sau chi phối tồn bộ truyện cổ, khơng kể nhân vật là
con người, con vật hay đồ vật.
Dưới đây là việc thử vận dụng các quan niệm, nhìn
nhận đã trình bày để xem xét một số trường hợp sử
dụng tác phẩm truyện cổ dân gian đang gây tranh
luận hiện nay. Trong số các truyện này, có ba truyện
được nhiều người quan tâm hơn cả: a) Truyện ngụ
ngơn “Trí khơn của ta đây!”14; b) Truyện cổ tích thần
kỳ “Tấm Cám”; và c) Truyện cổ tích lồi vật “Gốc tích
cái nốt dưới cổ con trâu”.
+ “Trí khơn của ta đây!” được dẫn ở Truyện đọc lớp

2. Truyện kể về một con cọp thấy con người nhỏ thó
lại điều khiển được con trâu to sụ, thì lấy làm lạ, mới
gặp trâu để hỏi lý do. Trâu bảo, người bé nhưng có trí
khơn. Cọp khơng hiểu trí khơn có hình thù ra làm sao
mà ghê gớm đến vậy, bèn đến gặp người nơng dân,
ngỏ ý muốn được xem nó. Người nơng dân bảo sẵn
lòng đi lấy cho xem nhưng sợ cọp ăn mất trâu. Cọp
rất muốn xem, bằng lòng để bác ta trói mình lại. Trói
được cọp rồi, bác đem lửa đốt nó, bảo “Trí khơn của
ta đây!”.
Sự phản ứng mạnh mẽ nhất đối với truyện này,
cho rằng: nhân vật người nơng dân đã thiếu trung
thực, bội ước với một con vật thật thà, cái trí khơn
như vậy thật ra là khơn vặt, thậm chí là xảo quyệt, lừa
đảo. Có thể thấy một nhận xét kiểu này đã hàm ý phủ
nhận nội dung truyện, tức trái ngược với sự nhìn nhận
vừa nêu “dù có vừa ý hay khơng, cũng khơng thể phủ
nhận, cải biên”.


Nghiên cứu - Trao đổi

+ “Tấm Cám” được đưa vào giảng dạy hai tiết trong
chương trình Ngữ văn lớp 10. Ở phần cuối truyện, Tấm
đã giết Cám bằng cách bảo em xuống một cái hố rồi
dội nước sơi xuống; sau khi Cám chết, Tấm sai người
làm mắm và gửi về cho mụ dì ghẻ ăn, khiến mụ ta
hoảng sợ mà chết. Việc trừng phạt, trả thù của Tấm
đối với mẹ con Cám như vậy đã khiến nhiều người
băn khoăn. Có người cho rằng việc trả thù này khơng

phù hợp với tính cách hiền hậu của Tấm; người khác
lại bảo, đó là việc làm tàn độc, nếu dạy trẻ là dạy cái ác.
Một số nhà nghiên cứu đã bảo vệ Tấm (đúng hơn,
là bảo vệ truyện cổ tích đang bàn). Theo Hồng Tiến
Tựu, trước khi bị giết, mỗi lần bị đối xử bất cơng, bị
thua thiệt, Tấm đều tỏ ra yếu đuối, chỉ biết khóc, còn
ở giai đoạn hậu thân, cơ ngày càng tỏ ra đáo để và
quyết liệt việc trừng trị Cám. Ơng gọi đó là logic phát
triển tính cách của nhân vật Tấm, và viết: “Một khi đã
thấy rõ mối quan hệ và sự phù hợp giữa hành động trả
thù với logic phát triển tính cách của Tấm thì sự băn
khoăn về mức độ và hình thức trả thù của nhân vật này
cũng khơng thành vấn đề phải đặt ra để bàn cãi nữa”.15
Nguyễn Xn Kính cho rằng việc Tấm trả thù mẹ con
Cám là tất yếu, khơng có gì xa lạ với cách nghĩ và tâm
lý dân tộc. Ơng viết: “Ở thời điểm hiện tại, có thể chúng
ta chưa tán thành cách thức trả thù của Tấm, nhưng
việc Tấm trả thù là cần thiết và chính đáng”.16 Chu Xn
Diên đã phỏng đốn rằng, các tình tiết làm thành
đoạn kết ở truyện Tấm Cám của người Việt, là những
motif (đúng hơn, là những biến thể của những motif )
có nguồn gốc từ thực tại của con người thời xưa. Có
hai motif được đề cập, là motif “Chết do bị dội nước
sơi”, và motif “Mẹ ăn thịt con mà khơng biết”. Ơng cho
rằng, tính chất cổ xưa của truyện Tấm Cám trước hết
do đề tài, cốt truyện và các motif của nó. Những hành
động và tính cách của nhân vật trong truyện cổ tích,
nếu đối với người “ngày xửa ngày xưa” là hợp lý, thì
đối với người hiện nay là vơ lý. Ơng viết: “Vì thế khơng
nên bằng cách bình luận văn học, và thậm chí cả bằng

cách sửa chữa truyện cổ tích theo hướng hợp lý hóa, cho
phù hợp với tư duy logic của con người hiện nay, mà làm
mất đi cái vơ lý ấy của truyện cổ tích. Vấn đề là giải thích
được sự vơ lý ấy, phát hiện ra cái hợp lý của bản thân
truyện cổ tích, một loại truyện của ngày xửa ngày xưa”.17
Có thể thấy, nếu Hồng Tiến Tựu cho việc trả thù
của Tấm là phù hợp với tính cách của nhân vật (hàm
ý về sự hiển nhiên), thì Chu Xn Diên lại cho điều
này thuộc về thi pháp dựng truyện. Sự phỏng đốn
của Chu Xn Diên khơng phải là khơng có cơ sở. Có
điều, dù việc “lắp đặt” các motif (và type, mơ hình cấu
trúc văn bản) có sẵn là chuyện truyện cổ thường làm,
nhưng khơng thể nói là khơng còn cách nào khác, hay
việc làm ấy đã đi ngược với quan niệm của người xưa.

Tức phải thừa nhận chuyện trả thù của Tấm là một
việc làm phù hợp chẳng những với tính cách nhân
vật, mà còn với tâm lý, quan niệm của nhân dân (mà
như vậy, thì mọi biện bạch cho nhân vật Tấm trở nên
khơng cần thiết). Theo đó, cũng như đã bàn ở truyện
“Trí khơn của ta đây!”, để bác bỏ các ý kiến nhằm lên
án một vấn đề thuộc nội dung truyện, tốt nhất vẫn là
vận dụng “Bộ quy tắc ứng xử”, theo cách như đã nêu
ở trường hợp trước.
+ “Gốc tích cái nốt dưới cổ con trâu” là một trong
ba bản kể của type Tại sao trâu khơng biết nói? (truyện
người Kinh), với bảy tài liệu ghi chép nó [5, 277 - 278];
đây là một truyện khá quen thuộc. Dưới đây, có lẽ là
nhận xét mới nhất về truyện này, đặc biệt là nhân vật
người trong truyện: “Tơi thực sự sốc. Tơi khơng hiểu tại

sao chúng ta lại tun truyền những truyện như thế? Lại
còn dịch ra tiếng Anh cho bạn bè quốc tế đọc nữa. [...]
Tơi sốc bởi trong truyện này, cậu bé chăn trâu là một kẻ
xấu. Cậu lười lao động, khơn lỏi, gian dối với người và
tàn nhẫn với trâu - lồi động vật hiền lành, có ích. Ơng
lão (ơng Bụt) khi biết chuyện đã khơng dạy bảo điều
khơn, lẽ phải cho cậu, lại còn thương hại kẻ xấu mà ra
tay làm điều ác với con trâu. Chúng ta muốn dạy người
Việt Nam điều gì qua truyện cổ tích phản giáo dục này,
khi điều xấu, việc ác khơng những khơng bị lên án, mà
còn được chia sẻ và tiếp tay?”.18
Có thể thấy, truyện được dựng lên nhằm giải thích
về cái nốt dưới cổ con trâu. Chúng ta đã biết, ở truyện
cổ tích lồi vật, từ một sự việc thuộc vóc dáng con
vật, có nhiều truyện được dựng lên với nội dung khác
nhau, để giải thích sự việc ấy. Chẳng hạn, cùng giải
thích về cái nốt dưới cổ con trâu đang bàn, còn có
truyện “Con trâu thù con chuột” (truyện người Tày),
chép ở: Huyền thoại dân tộc Tày (Triều Ân (2011), Hà
Nội: Thanh niên, 81- 82). Ở truyện này, nhân vật người
nơng dân đã đốt cái huyệt dưới cổ con trâu, khiến nó
bị câm (và tạo thành cái nốt sau đó), theo sự chỉ bày
của con chuột. Việc đốt ấy nhằm thuần phục trâu,
và để trâu làm việc cày kéo cho người được tốt hơn.
Theo đó, thì điều giải thích ở truyện này khơng
vượt ra ngồi mục đích lấy việc bảo vệ con người làm
chính, con vật phải phục vụ con người (phục vụ một
cách hiển nhiên, vơ điều kiện), như đã nêu. Bên cạnh
đó, việc phổ biến truyện cổ tích (dạng văn bản viết,
hình vẽ, phim ảnh,...), cốt để người đọc nắm bắt một

khía cạnh thuộc truyền thống văn hóa, khơng phải và
khơng nên sử dụng như một phương tiện để tun
truyền. Mặt khác, truyện thuộc thế giới của hư cấu
và tưởng tượng. Đã có truyện cho trâu biết nói tiếng
người, thì cũng cần có truyện giải thích vì sao trên
thực tế trâu khơng nói năng gì được.

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

67


Nghiên cứu - Trao đổi

Nhưng điều cần nói hơn cả, là việc truyện đã “đặt
con người ở vị trí tối thượng, các con vật, khơng kể là
bình thường hay linh thiêng, đều phải phục vụ con
người”, mà “Bộ quy tắc ứng xử” đã nêu. Và điều ấy tỏ ra
phù hợp với các nội dung mà truyện quan tâm.
3. Kết luận
Tóm lại, để có thể hiểu nội dung của truyện cổ
dân gian, cần có sự nhìn nhận hợp lẽ về vấn đề. Sự
nắm hiểu, nhìn nhận ấy phải phù hợp với quan niệm,
tính cách và thị hiếu thẩm mỹ của người xưa. Điều
này chẳng những giúp việc nắm bắt các sự việc đặt ra
một cách đúng như chúng vốn có, mà còn có thể gạt
bỏ các đánh giá thiếu chân xác liên quan.

Dù có nhiều chi tiết, sự việc mâu thuẫn với tri thức,
quan niệm của con người hơm nay, và dù có những
lối hành xử thái q của người xưa với các con vật,
thậm chí, có một số trường hợp nếu áp dụng luật
pháp ngày nay là phạm tội19, người đọc, nghe hiện tại
vẫn khơng thể áp đặt những điều mình hiện có để lên
án chuyện ngày xửa ngày xưa, cái đã như/là một cổ
vật. Nói gọn hơn, để tiếp cận và giải quyết vấn đề, nên
tránh cái nhìn đồng đại. Có điều, bài viết này, như đã
nêu ở nhan đề, chỉ là một sự đề xuất. Việc chấp nhận
hay khơng còn tùy ở bạn đọc.
T.N.

CHÚ THÍCH
Bao gồm một số thể loại, như truyện cổ tích, truyện
ngụ ngơn, truyện trạng,... Riêng truyện cổ tích, có ba tiểu
thể loại: truyện cổ tích thần kỳ, truyện cổ tích thế tục, và
truyện cổ tích lồi vật.
1

Trong số các thể loại thuộc truyện cổ, thì truyện cổ
tích được xem là thể loại chủ chốt (bởi số lượng tác phẩm
phong phú và vai trò to lớn của nó trong đời sống tinh thần
của nhân dân). Ở đây, việc xem xét truyện cổ tích do tư cách
đại diện cho các thể loại đã nêu.
2

Dạy khơn là u cầu đặt ra cho một bộ phận tác phẩm
đáng kể của nhiều thể loại, tiểu thể loại văn học dân gian,
như truyện ngụ ngơn, truyện trạng, truyện cổ tích lồi vật,

truyện cổ tích thế tục,...
3

Cần lưu ý là tuy đã qua khỏi lằn ranh của lẽ phải và
điều thiện, nhưng kẻ ranh mãnh, với tư cách là nhân vật
chính của truyện, chưa đến mức phạm tội (theo quan niệm
ngày trước). Truyện cổ dân gian khơng xiển dương tội ác.
4

Điều cần đặt ra ở đây là, khơng những cần có những
mục đích tốt đẹp, vì mọi người, mà còn nên sử dụng những
phương tiện tử tế, hợp tình hợp lý để đấu tranh (với bản
thân và xã hội) nhằm đạt được mục đích ấy.
5

6

68

Folklore được hiểu là văn hóa dân gian. Do đây là một

Phát triển

Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng

thuật ngữ quen thuộc của ngành văn hóa, nên ít khi dịch
(tương tự với motif - mơ típ - được sử dụng ở mục 2.2.).
Ngơ Đức Thịnh (Chủ biên), Quan niệm về folklore, (Hà
Nội: Khoa học Xã hội, 1990), 40 & 71 - 72.

7

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ
biên), Từ điển Thuật ngữ văn học, (Hà Nội: Đại học Quốc gia
Hà Nội,1999), 276.
8

Triều Ngun, Góc nhìn cấu trúc về truyện ngụ ngơn dân
gian Việt Nam, (Hà Nội: Khoa học Xã hội, 2004), 61 - 64.
9

Gulaiep N. A, Lý luận văn học, (Hà Nội: Đại học và
Trung học chun nghiệp, 1982), 120.
10

Phạm Khải Hồn dịch, Tuyển tập truyện ngụ ngơn Êdốp,
(Hà Nội: Văn học, 2001), 87 - 88.
11

12

Tất nhiên, đây chỉ là một cách hiểu câu tục ngữ này.

Điều này có phần tương tự việc đứng trước một cổ
vật, vốn là cơng cụ sản xuất thơng dụng trong q khứ;
người đời nay (đã sở hữu một phương tiện khác có chức
năng tương tự nhưng tối tân hơn), có thể nhận ra các bất
tiện từ cơng cụ kia, có điều, khơng thể phủ nhận sự tồn
tại của nó (bởi cơng cụ ấy từng có vai trò nhất định trong
việc tạo ra của cải một thời; bởi mỗi cơng cụ xuất hiện, đều

tương ứng với nền văn minh của con người và các điều
kiện, phương tiện liên quan khác;...). Cũng nên lưu ý là, cái
mà ta cho là hiện đại (con người, sản phẩm,...), sau 500 hay
1.000 năm nữa sẽ trở thành cổ vật. Bấy giờ, người đời sau
cũng sẽ xử trí vấn đề liên quan, như hiện ta đang làm.
13

Người viết theo quan niệm đã có để gọi truyện này là
truyện ngụ ngơn. Thực ra, mỗi khi truyện có phần giải thích
đặc điểm của con vật và tập qn liên quan đến chúng của
con người, thì xếp vào truyện cổ tích lồi vật sẽ hợp lẽ hơn.
Vả lại, cũng lưu ý, có truyện ngụ ngơn “Trí khơn” gần gũi với
truyện này, được chép ở Truyện ngụ ngơn Việt Nam và thế
giới (Thể loại và triển vọng), Phạm Minh Hạnh, (Hà Nội: Khoa
học Xã hội, 1993), 269 - 270), và Truyện ngụ ngơn Việt Nam
Minh Hạnh, Phan Hồng Sơn, (Hà Nội: Văn học, 1986), 126 127), thì khơng có phần giải thích kia.
14

Hồng Tiến Tựu, Bình giảng truyện dân gian, (Hà Nội:
Giáo dục, 1998), 114.
15

16
Nguyễn Xn Kính, “Văn hóa dân gian thể hiện bản
sắc văn hóa dân tộc”, Văn hóa Dân gian, Số 2/1998, 5 - 6

Chu Xn Diên, “Về cái chết của mẹ con người dì ghẻ
trong truyện Tấm Cám”, trong: Văn hóa dân gian, mấy vấn đề
phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, (Hà Nội: Khoa học
Xã hội, 2006), 407 - 462.

17

Theo: Lương Hồi Nam, “Sao lại dạy điều xấu việc ác?”,
đăng
ngày: 26.12.2015.
18

Ở một số nước như Anh, Mỹ, Úc, Hàn Quốc,... nếu
hành hạ, giết mổ dã man các con vật, có thể bị phạt tù đến
05 năm (Trí Dũng, “Thế giới: giết chó dã man có thể phải
ngồi tù năm năm”, />đăng ngày 17.4.2015).
19



×