Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bài tập lớn công pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.45 KB, 9 trang )

MỤC LỤC.
A/ MỞ ĐẦU.

2

B/ NỘI DUNG.

3

I/ Cơ sở lí luận: Mối quan hệ giữa Luật quốc tế và Luật quốc gia.

3

1. Cơ sở của mối quan hệ giữa Luật Quốc với Luật quốc gia.

3

2. Nội dung mối quan hệ giữa Luật Quốc tế và Luật quốc gia.

3

II/ Tác động của Luật Quốc tế tới quá trình hoàn thiện các văn bản pháp 4
luật của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

C/ KẾT THÚC.

8

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

9



1


A/ MỞ ĐẦU.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế và muốn làm
bạn với tất cả các nước. Trong quá trình hội nhập toàn cầu đi đôi với sự phát triển
về kinh tế là sự suy thoái nghiêm trọng về môi trường. Đây không chỉ là vấn đề của
riêng Việt Nam mà là vấn đề chung của toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia phải giải
quyết. Để giải quyết vấn đề này các quốc gia và các tổ chức quốc tế đã nhóm họp
và kí kết các điều ước quốc tế trong lĩnh vực này để đưa ra các biện pháp khắc
phục. Và Việt Nam với tư cách là một chủ thể của Luật Quốc tế và tham gia các
quan hệ quốc tế cũng phải lỗ lực cùng với cộng đồng quốc tế khắc phục tình trạng
này. Một trong các lỗ lực của Việt Nam đó là việc hoàn thiện các văn bản luật trong
lĩnh vực môi trường để phù hợp với Luật Quốc tế và VIệt Nam cũng đã tham gia
các điều ước quốc tế trong lĩnh vự môi trường. Vậy Luật Quốc tế có tác động thế
nào tới pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực môi trường , chúng ta hãy đi tìm hiểu đề
tài “Phân tích tác động của Luật Quốc tế tới quá trình hoàn thiện các văn bản pháp
luật của Việt Nam trong lĩnh vực bào vệ môi trường”.

2


B/ NỘI DUNG.
I/ Cơ sở lí luận: Mối quan hệ giữa Luật quốc tế và Luật quốc gia.
1. Cơ sở của mối quan hệ giữa Luật Quốc với Luật quốc gia.
Mối quan hệ giữa Luật Quốc tế và Luật quốc xuất phát từ những cơ sở sau:
Thứ nhất, quốc gia là chủ thể xây dựng và thực thi chính sách đối nội, đối ngoại
của mình: Đối nội và đối ngoại là hai chức năng cơ bản của một quốc gia, để thực
hiện tốt hai chức năng này nhà nước sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, trong

đó không thể thiếu là pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Thứ hai, quốc gia còn là chủ thể xây dựng, thực thi và tuân thủ luật quốc gia cũng
như luật quốc tế: Các quốc gia cùng thỏa thuận để xây dựng nên pháp luật quốc tế,
đồng thời khi tham gia và các quan hệ quốc tế các quốc gia phải tuân thủ và thực
thi các quy định của Luật Quốc tế trong các lĩnh vực có liên quan.
Thứ ba, để thực thi và tuân thủ cam kết quốc tế các quốc gia phải tuân thủ nguyên
tắc Pacta Sunt Servanda – nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc
tế. Để thực thi và tuân thủ những quy định của Luật Quốc tế các quốc gia cần phải
thay đổi nội dung của pháp luật quốc gia cho phù hợp với Luật Quốc tế.
2. Nội dung mối quan hệ giữa Luật Quốc tế và Luật quốc gia.
Mối quan hệ giữa Luật Quốc tế và Luật quốc gia là mối quan hệ có tính chất
biện chứng, gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, Luật quốc gia có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và phát triển
của Luật Quốc tế: Sự hình thành Luật Quốc tế hoàn toàn là do sự thỏa thuận giữa
các quốc gia với nhau, trước hết xuất phát từ lợi ích của mỗi quốc gia. Hơn nữa,
quan điểm của mỗi quốc gia trong quá trình thỏa thuận thương lượng đó phải dựa
trên những nguyên tắc và quy phạm nền tảng của chính pháp luật quốc gia. Và để
đảm bảo cho Luật Quốc tế được thực thi trên lãnh thổ quốc gia thì quốc gia phải
xác định và ghi nhận rõ về các vấn đe này trong các văn bản quy phạm pháp luật
của quốc gia.
Thứ hai, Luật Quốc tế có ảnh hưởng tới Luật quốc gia, góp phần làm cho luật
quốc gia ngày càng hoàn thiện và hoàn chỉnh hơn, đặc biệt là các nước đang phát
triển, chậm phát triển và kém phát triển: Trước xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia
3


phải mở rộng các quan hệ đối ngoại. Khi tham gia quan hệ quốc tế, các quốc gia
phải tận tâm thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế, các quốc gia phải sửa đổi các
quy định pháp luật của mình sao cho phù hợp với các quan hệ quốc tế mà quốc gia
tham gia. Vì vậy, những tiến bộ trong khoa học pháp lý quốc tế sẽ dần được

chuyển tải thành các quy định trong Luật quốc gia.
Thứ ba, trong trường hợp xung đột pháp luật thì các quy phạm Luật Quốc tế được
ưu tiên sử dụng trước các quy phạm Luật quốc gia về cùng một vấn đề điều chỉnh.
II/ Tác động của Luật Quốc tế tới quá trình hoàn thiện các văn bản pháp luật
của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Một trong các nội dung mối quan hệ giữa Luật Quốc tế và Luật quốc gia đó là:
Luật Quốc tế có ảnh hưởng tới Luật quốc gia, góp phần làm cho Luật quốc gia
ngày càng hoàn thiện và hoàn chỉnh hơn. Là một chủ thể của Luật Quốc tế vì vậy
mà luật của Việt Nam cũng không tránh khỏi sự tác động này của Luật Quốc tế.
Pháp luật của Việt Nam ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn trên tất cả các lĩnh
vực để phù hợp với Luật Quốc tế, trong đó có lĩnh vực bảo vệ môi trường- là mối
quan tâm của toàn cầu.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt với con người cũng như sự phát triển của
từng quốc gia và cộng đồng quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của môi
trường, Việt Nam đã tích cực tham gia gần 20 công ước đa phương về bảo vệ môi
trường hoặc liên quan đến môi trường và các Hội nghị về môi trường giữa các
nước trên thế giới về lĩnh vực môi trường. Việt Nam đã tiến hành chuyển hóa
những nội dung trong các điều ước này vào pháp luật Việt Nam trong các văn bản
quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường như: Bộ luật hàng hải, Luật đất đai,
Luật bảo vệ và phát triển rừng, Pháp lệnh về đê điều, Pháp lệnh về tài nguyên
khoáng sản, Pháp lệnh về kiểm dịch thực vật…
Sau khi bước vào thời kì đổi mới từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu quan tâm hơn đến
vấn đề bảo vệ môi trường. Điều này phần nào được thể hiện thông qua nỗ lực tham
gia các tiến trình quốc tế về môi trường như Hội nghị Môi trường và phát triển của
Liên hợp quốc tại Riode Janeiro vào năm 1992. Giai đoạn sau những năm 1990,
cùng với việc tham gia kí kết một số công ước quốc tế, Việt Nam cũng bắt đầu xây
dựng hệ thống chính sách, pháp luật và thành lập các cơ quan chuyên môn nhằm
phục vụ công tác bảo vệ môi trường.

4



Năm 1993, Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên của Việt Nam đã được ban hành với
nội dung về phòng chống và khắc phục suy thoái môi trường, Năm 2002, Bộ Tài
nguyên và Môi trường được thành lập. Năm 2005, Luật bảo vệ môi trường đước
sửa đổi lần thứ nhất với những nội dung mang tính tổng thể, toàn diện hơn và phù
hợp với pháp luật quốc tế. CÙng với đó, hàng loạt các văn bản pháp luật cũng đã
được ban hành nhằm tăng cường công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện Luật bảo vệ môi trường bộc lộ một số khuyết điểm,
không phù hợp với tình hình thực tiễn nên một lần nữa lại được sửa đổi. Từ khi ban
hành Luật bảo vệ môi trường năm 1993, nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn
thiện hệ thống chính sách pháp luật trong lĩnh vực này để phù hợp với tình hình
trong nước và trên thế giới. Đặc biệt trong giai đoạn 2006-2010 được đánh giá là
có nhiều chuyển biến tích cực về mặt chính sách cũng như nhận thức của xã hội
đối với công tác bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế suy thoái môi trường
vẫn đang diễn biến phức tạp, các hiện tượng ô nhiệm môi trường xảy ra ngày càng
nhiều. Các hành vi vi phạm pháp luật, gây ô nhiễm môi trường liên tục xảy ra như
vụ việc xả chất thải chưa qua xử lý ra ngoài môi trường của các công ty như:
Vedan, Miwon, Sonadezi,…
Ví dụ như Việt Nam đã tham gia Công ước luật biển năm 1982, dưới sự tác động
của Luật biển năm 1982 chúng ta đã có sự hoàn thiện các quy định của pháp luật
về gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển trong Luật biển Việt Nam năm
2012 phù hợp với các quy định của Luật biển năm 1982 trong kĩnh vực này.
Pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói
riêng dưới sự tác động của Luật Quốc tế đang ngày càng hoàn thiện hơn để phù
hợp với thực tiễn trong nước và thế giới.
Cụ thể, Luật bảo vệ môi trường 2005, đã áp dụng một số nguyên tắc bảo vệ môi
trường phổ biến trên thế giới. Trong đó, các nguyên tắc chính được áp dụng để
quản lý môi trường đối với các dự án phát triển là các nguyên tắc: phòng ngừa
(precautionary), kiểm soát ô nhiễm (pollution control), người gây ô nhiễm chi trả

(polluter pays principle).
Để thực hiện các nguyên tắc, các công cụ quản lý môi trường được thiết lập, bao
gồm: đánh giá tác động môi trường, quy chuẩn môi trường và phí bảo vệ môi
trường. Ngoài ra, Việt Nam còn xây dựng các công cụ pháp lý để xử lý các vụ vi
phạm môi trường.

5


Có thể nói rằng, việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 là một bước tiến
lớn trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường nước ta đáp ứng các
yêu cầu mới của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, một trong những vấn đề về mặt pháp lý mà Luật Bảo vệ môi trường
năm 2005 chưa giải quyết được chính là việc xác định vị trí của đạo luật này trong
hệ t hống pháp luật và xử lý mối quan hệ giữa đạo luật này với các đạo luật có liên
quan trong đó có các đạo luật về tài nguyên (Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước,
Luật Khoáng sản v.v.) và các đạo luật có liên quan khác (chẳng hạn như Bộ luật
Dân sự, Luật Doanh nghiệp v.v.).
Thực tế quá trình áp dụng Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cũng cho thấy, do
thiếu quy phạm xử lý mối quan hệ giữa Luật Bảo vệ môi trường và các đạo luật có
liên quan mà trong trường hợp có sự chồng lấn, mâu thuẫn giữa các quy định trong
Luậ t Bảo vệ môi trường (hoặc các văn bản hướng dẫn luật này) với các quy định
trong các đạo luật khác (hoặc các văn bản hướng dẫn các đạo luật này) thì việc
chọn quy phạm nào để áp dụng cho hợp lý có khá nhiều lúng túng, vướng mắc.
Trước các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường các chế tài đối với các hành vi
này được quy định khá đầy đủ và đồng bộ bao gồm chế tài hành chính, chế tài dân
sự, chế tài hình sự (Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự và Nghị định số 117/2009/NĐ…). Các quy định này luôn được xem là căn cứ pháp lý quan trọng để ngăn ngừa
và xử lý các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập trong các quy định về các chế tài.

- Mặc dù Bộ luật Hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2009 được thông qua và
có hiệu lực nhưng chưa có hành vi nào quy định tại Chương XVII bị truy tố. Việc
thực hiện 10 điều luật của Chương XVII Bộ luật hình sự 2009 sửa đổi bổ sung Bộ
luật Hình sự năm 1999 đang gặp rất nhiều khó khăn, có thể nói là chưa được thực
hiện. Các chế tài hình sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn chỉ nằm trên giấy.
- Mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường theo
Nghị định số 117/2009/NĐ-CP vẫn phù hợp với thực tế, chưa đủ răn đe đối với các
đối tượng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường, chồng chéo với các văn abrn quy
phạm pháp luật khác như 04/2008/TTBTNMT, việc dẫn chiếu tới các văn bản
khác không cụ thể...Điều này khiến các đơn vị quản lý nhà nước gặp nhiều khó
khăn khi sử dụng Nghị định 117/2009/NĐ -CP, còn đối với các doanh nghiệp thì
lại rất khó thực hiện đúng. Việc xử lý các vi phạm pháp luật về môi trường, các
6


quy định hay gặp sự mâu thuẫn chồng chéo nhất chính là các quy định xử lý hành
chính. Cụ thể, trong các Nghị định về xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi
gây ảnh hưởng xấu tới môi trường, tình trạng cùng hành vi tương tự nhau nhưng
mức xử phạt quy định khác nhau trong các văn bản khác nhau vẫn còn tồn tại.
- Pháp luật về trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại về môi trường) trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường còn quá chung chung, thiếu cụ thể và khó áp dụng trên thực
tế. Tình trạng dẫn chiếu vòng vẫn chưa được giải quyết như “bồi thường
thiệt hại theo quy định pháp luật”, trong khi môi trường ngày càng bị ô nhiễm,
suy thoái, mặc dù Điều 628 Bộ Luật Dân sự và Luật Bảo vệ môi trường đã có quy
định về vấn đề này.
- Chưa có quy định rõ ràng để phân biệt giữa trách nhiệm khắc phục, phục hồi môi
trường theo pháp luật về hành chính và trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo pháp
luật về dân sự.
- Các quy định về khuyến khích, khen thưởng đối với hoạt động bảo vệ môi
trường còn chung chung, không thể thực hiện được trên thực tế. Bởi thiếu các cơ

chế tài chính, hỗ trợ và ưu đãi cho các hoạt động này.
Như vậy, ta có thể thấy dưới sự tác động của Luật Quốc tế pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực môi trường ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, trên thực tế áp
dụng pháp luật của nước ta trên lĩnh vực này thì còn bộc lộ rất nhiều hạn chế nên
một yêu cầu được đặt ra đó là phải điều chỉnh và khắc phục những bất cập trong
lĩnh vực này.
Việc Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế hay các Hội nghị quốc tế trong lĩnh
vực môi trường điều này đòi hỏi pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực môi trường
cũng cần có sự thay đổi để phù hợp với những quy định, điều khoản của điều ước
hay Hội nghị mà Việt Nam đã tham gia. Sự thay đổi này sẽ dần dần được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật của Việt Nam thông qua quá trình sửa đổi. Tuy nhiê,
việc sửa đổi này cần không những phải phù hợp với Luật Quốc tế mà phải xem xét
xem nó có phù hợp với Luật quốc gia hay không. Việc sửa đổi các quy định của
pháp luật không chỉ phải phù hợp với Luật Quốc tế mà còn phải phải phù hợp với
Luật quốc gia.
Như vậy, đi dôi với quá trình phát triển kinh tế và quá trình toàn cầu thì vấn đề môi
trường cũng ngày càng trở nên quan trọng và ngày càng bị suy thoái. Chúng ta cần
nỗ lực cùng với cộng đồng quốc tế để hạn chế sự suy thoái về môi trường. Và một
trong các công việc chúng ta cần làm đó là thay đổi pháp luật trong lĩnh vực này
7


cho phù hợp với cộng đồng quốc tế đồng thời thực thi các thỏa thuận, điều khoản
trong các điều ước quốc tế cũng như các Hội nghị về môi trường để bảo vệ môi
trường. Pháp luật của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đang ngày càng
được hoàn thiện hơn, được biệt là về các chế tài đối với các hành xâm phạm môi
trường ngày càng nghiêm khắc hơn, góp phần răn đe những người có ý định vi
phạm.

C/ KẾT THÚC.

Trên đây là bài phân tích về tác động của Luật Quốc tế tới quá trình hoàn thiện các
văn bản pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Qua đó ta thấy
rằng pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ngày càng phát triển và
hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn trong nước và trên thế giới. Đồng thời, bài
viết này đã góp phần chứng minh, làm sang tỏ một trong các nội dung của mối
quan hệ giữa Luật Quốc tế và Luật quốc gia.

8


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2007.
2. TS. Nguyễn Thị Kim Ngân, TS. Chu Mạnh Hùng (đồng chủ biên),
Giáo trình luật quốc tế, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nôi, 2012.
3. Các văn bản công pháp quốc tế và văn bản pháp luật Việt Nam có
liên quan, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006.

9



×