Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.5 KB, 26 trang )

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI
I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1.1. Vai trò của xe cơ giới đối với nền kinh tế
Giao thông vận tải đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của
mỗi nước, giao thông vận tải đường bộ góp phần quan trọng vào sự tăng
trưởng kinh tế đất nước. Bên cạnh đó nó còn đóng góp lớn cho ngân sách qua
nhiều loại thuế và những dịch vụ đi theo được phát triển tạo thêm hàng triệu
việc làm cho người lao động. Thông qua đó góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp
và những tiêu cực xấu trong xã hội. Sự phát triển của giao thông vận tải
đường bộ cũng là sự huy động nguồn vốn về đầu tư trong xã hội rất lớn mà
không phải ngành nghề nào cũng có được. Vì vậy, các nhà kinh tế học đã ví
rằng: “Nếu nền kinh tế là một cơ thể sống, trong đó hệ thống giao thông là
các huyết mạch thì vận tải là quá trình đưa các chất dinh dưỡng đến nuôi các
tế bào của cơ thể sống đó”.
Trong giao thông vận tải đường bộ, xe cơ giới là phương tiện chủ yếu
nhất có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, bởi vì:
- Xe cơ giới là phương tiện có tính cơ động cao, việt dã tốt trong quá
trình tham gia vận tải, nó có thể tham gia vào quá trình vận chuyển giữa các
vùng miền, thậm chí ngay cả những nơi có địa hình xấu mà các phương tiện vận
tải khác không tham gia được.
- Nhờ tính cơ động của mình, xe cơ giới góp phần thúc đẩy hoạt động
kinh tế, văn hóa ở những vùng núi xa xôi, củng cố tính thống nhất của nền kinh
tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước.
- Với chi phí rẻ hơn so với các loại phương tiện vận tải khác nên xe cơ
giới rất được ưa chuộng và ngày càng phát triển trong quá trình chuyên chở
hàng hóa, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, giúp cho các hoạt động sinh hoạt
được thuận tiện.
Sự phát triển một cách nhanh chóng của nền kinh tế đã làm gia tăng nhu
cầu vận tải giữa các vùng. Chính vì vậy, lượng xe cơ giới tham gia lưu thông
ngày càng tăng, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước.Tuy


nhiên, sự gia tăng xe cơ giới ngày càng nhiều đã làm nảy sinh một số vấn đề
như: tai nạn giao thông ngày càng tăng, tình trạng ách tắc giao thông…những
vấn đề này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.2. Tình hình giao thông đường bộ và hậu quả của tai nạn giao thông
Tai nạn giao thông hiện đang liên tục tăng trên toàn cầu, khu vực Đông
Nam Á cũng không ngoại lệ. Tại Việt Nam, ở nước ta, tình hình tai nạn giao
thông từ năm 2005 – 2009 được thống kê trong bảng 1.1:
Bảng 1.1 – Tình hình tai nạn giao thông nước ta từ 2005 - 2009
Năm Số vụ TNGT (vụ)
Số người chết
(người)
Số người bị thương
(người)
2005 14.141 11.184 11.760
2006 14.161 12.373 11.097
2007 14.642 13.200 10.546
2008 11.522 10.397 7.413
2009 12.492 11.516 7.914
( Nguồn : Ủy ban an toàn giao thông quốc gia)
Đây là kết quả của sự gia tăng dân số, hiện đại hóa, khi lượng xe cộ tăng
lên đột biến không đồng hành với những biện pháp giao thông an toàn. Hạn chế
về ý thức của người dân, cũng như công tác tuyên truyền về an toàn giao thông
chưa mạnh mẽ khiến số vụ tai nạn giao thông không giảm nhiều.
Giao thông ở Việt Nam từ lâu đã được xem là vấn đề bức xúc vì gây tai
nạn chết người và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Theo thống kê, mỗi năm
trung bình tại Việt Nam, tai nạn giao thông khiến trên 12.000 người chết và gần
30.000 người bị chấn thương sọ não với nhiều di chứng để lại.
Tai nạn giao thông ngày càng tăng trên thế giới đã gây nên ngoài thiệt hại
khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí mai táng người chết, chi phí y tế cho
người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc

phục, tai nạn giao thông còn gây nên những tác động tâm lý lâu dài đối với
nhiều người. Nếu như trong một địa phương, một quốc gia xảy ra tai nạn giao
thông quá nhiều sẽ gây nên hiện tượng bất an cho cư dân ở đó.
Ở Việt Nam, theo thống kê của Ngân hàng Phát triển Châu Á(ADB), tổn
thất vật chất hàng năm do tai nạn giao thông là khoảng 885 triệu USD. Con số
này còn cao hơn cả giá trị tiền thuốc sử dụng cho cả 84 triệu dân Việt Nam
trong năm 2005 (817 triệu USD). Nếu so sánh với tổng thu ngân sách cả nước
được báo cáo tại Quốc hội thì con số 885 triệu USD chiếm hơn 5,5% tổng thu
ngân sách cả nước/năm. Và nếu so với tổn thất toàn cầu do TNGT đường bộ
khoảng 518 tỷ USD/năm (số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, WHO) thì con số
tổn thất gần 1 tỷ USD/năm của Việt Nam là quá nghiêm trọng.
Ngày càng nhiều số vụ tai nạn giao thông thảm khốc và đe dọa đến sự
phát triển bền vững của đất nước. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là
do cơ sở hạ tầng yếu kém không đạt tiêu chuẩn, luật pháp chưa nghiêm, nhất là
do ý thức chấp hành luật giao thông của quần chúng còn thấp. Trước tình hình
đó, đã có nhiều biện pháp ra đời để khắc phục tình trạng tai nạn giao thông như:
tăng mức xử phạt đối với những người vi phạm luật an toàn giao thông, tuyên
truyền nâng cao ý thức của người dân khi tham gia giao thông, bắt buộc đội mũ
bảo hiểm khi đi xe máy. Tuy nhiên, những biện pháp này cũng chỉ góp một phần
rất hạn chế, tình trạng tai nạn giao thông ở nước ta vẫn ở mức cao. Bên cạnh các
biện pháp nhằm ngăn chặn, phòng ngừa tai nạn giao thông thì việc triển khai
bảo hiểm vật chất xe cơ giới lại là một biện pháp nhằm khắc phục và giảm thiểu
một phần hậu quả của tai nạn giao thông, nâng cao ý thức của người dân khi
tham gia giao thông cũng đã góp phần quan trọng trong công tác khắc phục tình
trạng tai nạn giao thông, và đây cũng là một phần trong lưới đảm bảo an sinh xã
hội.
1.2. Tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới
a) Góp phần ổn định tài chính, ổn định hoạt động kinh doanh của chủ xe
Tai nạn, rủi ro là điều mà không một cá nhân hay tổ chức nào mong muốn
bởi vì khi nó xảy ra sẽ gây nên những hậu quả khôn lường: thiệt hại về kinh tế,

ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của cá nhân, của tổ
chức, và có thể còn gây thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được công ty bảo
hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc
phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh.
b) Tích cực góp phần ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông đường bộ
Khi đã tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới người dân sẽ nâng cao ý
thức chấp hành luật lệ giao thông của mình hơn bởi vì cùng việc triển khai
nghiệp vụ này các công ty bảo hiểm còn thực hiện các công tác tuyên truyền,
quảng cáo giúp người dân thấy được vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới và
những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra đối với bản thân và phương tiện từ đó nâng
cao ý thức tự giác chấp hành luật lệ giao thông vì lợi ích của bản thân.Bên cạnh
đó các công ty bảo hiểm còn đóng góp một phần tài chính của mình của mình
để xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng, xây dựng các biển báo, tín hiệu… trên các
tuyến đường hay xảy ra tai nạn nhằm góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
c) Góp phần xoa dịu bớt căng thẳng giữa chủ xe với phía nạn nhân trong các
vụ tai nạn.
Khi xảy ra tai nạn giao thông không chỉ có người điều khiển phương tiện bị
thiệt hại mà có khi còn gây thiệt hại cho người thứ ba khi đó DNBH sẽ đứng ra
đóng vai trò như là người đại diện cho bên tham gia bảo hiểm để thu xếp giải
quyết tranh chấp, quyền lợi giữa chủ xe và nạn nhân một cách khách quan, minh
bạch và thỏa đáng từ đó giảm bớt căng thẳng giữa các bên.
d) Góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà Nước để từ đó có điều kiện
đầu tư trở lại để nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng mới cho giao thông, đồng
thời tạo thêm công ăn việc làm cho người dân.
Các doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình kinh doanh có nghĩa vụ phải
đóng góp vào Ngân sách Nhà Nước thông qua các loại thuế:thuế thu nhập cá
nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp…tức là tăng thu cho ngân sách.
Bên cạnh đó, nhờ có tham gia bảo hiểm mà Ngân sách Nhà nước không
phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro thay
vào đó DNBH sẽ bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham

gia để họ giảm bớt gánh nặng về mặt tài chính, nhanh chóng ổn định đời sống,
ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh.
II.Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
2.1.Đối tượng được bảo hiểm
Đối tượng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tất cả những chiếc xe còn
có giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Đặc điểm của xe cơ giới là một loại xe chạy trên đường bộ, bằng động cơ
của chính nó và có ít nhất một chỗ ngồi cho người lái xe. Xe cơ giới bao gồm
rất nhiều các loại xe khác nhau: xe môtô 2 bánh, xe mô tô 3 bánh, xe ô tô chở
người, xe ô tô chở hàng hóa, xe ô tô vừa chở người vừa chở hàng hóa và các
loại xe chuyên dùng khác.
Để có thể trở thành đối tượng bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm
thiệt hại vật chất xe cơ giới, những chiếc xe này phải đảm bảo những điều kiện
về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành: Người chủ xe phải được cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định về
an toàn kỹ thuật và môi trường.
Khi tham gia bảo hiểm xe cơ giới, người ta thường chia xe cơ giới thành
các tổng thành. Chủ xe có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ xe hoặc tham gia từng
bộ phận xe.Thông thường đối với xe môtô nhà bảo hiểm tiến hành bảo hiểm
toàn bộ xe, còn đối với xe ôtô người tham gia có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ
xe hoặc bảo hiểm từng tổng thành của xe, xe ôtô được chia ra thành 7 tổng
thành sau:
- Tổng thành thân vỏ
- Tổng thành động cơ
- Tổng thành hộp số
- Tổng thành cầu trước
- Tổng thành trục sau
- Tổng thành hệ thống lái
- Tổng thành săm lốp
2.2. Phạm vi Bảo hiểm

Trong quá trình xe cơ giới lưu hành có rất thể gặp rất nhiều rủi ro, tai nạn,
và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.Từ những yếu tố khách quan như là thời
tiết, địa hình, chất lượng đường xá cho đến những yếu tố chủ quan từ phía chủ
xe, lái xe, người tham gia giao thông (tình trạng quản lý, bảo dưỡng xe của chủ
xe, ý thức, kinh nghiệm, kỹ năng của lái xe…)
Trước hàng loạt rủi ro, tai nạn, việc xác định phạm vi bảo hiểm và qui
định loại trừ trong những mẫu đơn bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm rất
cần thiết, để đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và pháp lý trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
2.2.1. Rủi ro được bảo hiểm
Trong hợp đồng bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm thông
thường bao gồm:
- Những rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của xe: Đâm va, lật đổ
- Những rủi ro bất thường dễ phát sinh khác (cháy nổ…)
- Những rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên: Bão, lũ, lụt, sụt lở, sét
đánh, động đất, mưa đá…
- Rủi ro khách quan có nguồn gốc xã hội: mất cắp, đập phá…
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe
được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty còn thanh toán cho chủ
xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các
rủi ro được bảo hiểm
- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất
- Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm
2.2.2 .Rủi ro loại trừ
Loại trừ những tổn thất không phải là hậu quả của những sự cố ngẫu
nhiên, khách quan, những tổn thất liên quan tới yếu tố chủ quan của chủ xe
trong việc quản lý, bảo dưỡng xe như:
- Hao mòn tự nhiên, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư
hỏng thêm do sửa chữa

- Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc thiết bị, kể cả máy thu thanh,
điều hòa nhiệt độ, săm lốp bị hư hỏng mà không phải do tai nạn gây ra
Loại trừ những trường hợp vi phạm pháp luật hoặc độ trầm trọng của rủi
ro tăng lên:
- Hành động cố ý gây tai nạn của chủ xe, lái xe, lái xe không có bằng lái
hoặc có nhưng không hợp lệ.
- Lái xe sử dụng và bị ảnh hưởng của rượu bia, ma túy hoặc các chất kích
thích khác trong khi điều khiển xe (nồng độ cồn trong máu hoặc trong hơi
thở của lái xe vượt quá quy định).
- Xe không có giấy chứng nhận đăng kiểm và bảo vệ môi trường hợp lệ
(giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi trường).
- Xe chở chất cháy, nổ trái phép.
- Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định.
- Xe đi vào đường cấm, đi đêm không đèn.
- Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử.
Loại trừ rủi ro có tính “chính trị” với hậu quả lan rộng: Chiến tranh.
Những quy định loại trừ khác.
Chẳng hạn như loại trừ những thiệt hại gián tiếp, tai nạn xảy ra ngoài lãnh
thổ nước CH XHCN Việt Nam (trừ trường hợp có thỏa thuận riêng). Loại trừ
thiệt hại do mất cắp bộ phận của xe.Vấn đề này tùy thuộc vào yêu cầu quản lý
rủi ro của người bảo hiểm, và những yếu tố khác của hợp đồng như là phí bảo
hiểm.
Những thiệt hại là hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, mất
giảm thu nhập do ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác.
Ngoài ra công ty bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền
bồi thường trong trường hợp chủ xe có những vi phạm sau:
Một là: Cung cấp không đầy đủ, không trung thực các thông tin ban đầu về đối
tượng bảo hiểm trong giấy yêu cầu bảo hiểm.
Hai là: Khi xảy ra tai nạn, không thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Không áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất hoặc tự ý tháo

dỡ, sửa chữa xe mà không có sự đồng ý của doanh nghiệp bảo hiểm.
Ba là: Không làm các thủ tục bảo lưu quyền đòi người thứ ba có lỗi trong việc
gây ra thiệt hại cho cho chiếc xe được bảo hiểm.
2.3. Giá trị bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, Phí bảo hiểm
2.3.1. Giá trị bảo hiểm
Trong nghiệp vụ BH VCXCG, xác định đúng giá trị thực tế của xe cơ giới
là một công việc rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm
của của các bên trong hợp đồng bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế của xe trên thị trường tại
thời điểm tham gia bảo hiểm. Xác định giá trị thực tế của xe thực chất là xác
định giá bán của nó trên thị trường vào thời điểm người tham gia mua bảo hiểm.
Để có thể đánh giá chính xác giá trị bảo hiểm các doanh nghiệp bảo hiểm phải
kiểm tra xe trước khi nhận bảo hiểm sau đó sẽ đánh giá giá trị thực tế của chiếc
xe tham gia bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm thường dựa trên các nhân tố
sau để xác định giá trị xe:
Doanh nghiệp bảo hiểm cùng với chủ xe tiến hành kiểm tra xe để xác
nhận tình trạng của xe tại thời điểm tham gia bảo hiểm, xem chiếc xe này trong
tình trạng như thế nào? Đã bị thiệt hại, tổn thất lần nào chưa, việc kiểm tra này
được thực hiện bằng cách quan sát hiện trạng bên ngoài xe, các vết tỳ, xước va
chạm (nếu có) đồng thời nhân viên khai thác bảo hiểm sẽ hỏi thêm thông tin về
tình trạng của xe và chủ xe phải có nghĩa vụ trả lời trung thực.
Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng với chủ xe thảo luận để xác định giá trị
của xe, trong những trường hợp cụ thể doanh nghiệp bảo hiểm cần phải thực
hiện giám định tình trạng thực tế của xe trong quá trình mà người chủ xe đã sử
dụng chiếc xe đó.
Đối với những xe mới bắt đầu đưa vào sử dụng, việc xác định giá trị của
chúng không quá phức tạp, doanh nghiệp bảo hiểm có thể căn cứ vào một trong
những giấy tờ sau đây để xác định giá trị bảo hiểm:
- Giấy tờ, hóa đơn mua bán giữa nhà máy lắp ráp, đại lý phân phối với
người mua, hoặc giữa những người bán nước ngoài và người nhập khẩu.

- Hóa đơn thu thuế trước bạ
Đối với xe nhập khẩu miễn thuế, giá trị bảo hiểm được tính như sau:
GTBH=CIF(100%+T1)(100%+T2)
Trong đó:T1 là thuế suất thuế nhập khẩu
T2 là thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt
Đối với những xe đã qua sử dụng, việc xác định giá trị bảo hiểm đòi hỏi
nhiều công đoạn phức tạp hơn so với xe mới.Việc xác định giá trị của xe được
căn cứ theo các yếu tố sau đây:
- Giá mua xe lúc ban đầu
- Giá mua bán trên thị trường của những chiếc xe cùng chủng loại, có chất
lượng tương đương.
- Tình trạng hao mòn thực tế của xe. Sự hao mòn của xe được tính toán
dựa trên cơ sở sau: Số km mà chiếc xe đã lưu hành trên thực tế, số năm đã sử
dụng xe, mục dích sử dụng xe, đặc điểm địa hình của vùng mà xe thường xuyên
hoạt động…
- Tình trạng kỹ thuật và hình thức bên ngoài của xe trên thực tế.
Căn cứ vào các tiêu thức đã nêu ở trên, công ty bảo hiểm và chủ xe sẽ thảo luận
và đi đến thống nhất về giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên việc xác định giá trị bảo

×