Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.39 KB, 9 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh nói chung là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy
vị trí hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra
năng suất và hiệu quả cao nhất.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có cạnh tranh. Không có cạnh tranh
sẽ không có sinh tồn và phát triển. Đó là quy luật tồn tại của muôn loài. Trong
cạnh tranh nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả năng cạnh
tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả năng
cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh
tranh.
Trong thực tế tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về năng lực cạnh
tranh được xem xét ở các góc độ khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia,
năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ
nhưng chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Theo quan điểm của hội đồng về sức cạnh tranh của Mỹ thì sức cạnh
tranh là năng lực kinh tế về hàng hóa và dịch vụ của một nền sản xuất có thể
vượt qua thử thách trên thị trường thế giới trong khi mức sống của dân chúng
được nâng cao một cách vững chắc, lâu dài.
Theo từ điển thuật ngữ chính sách thương mại thì năng lực cạnh tranh là
năng lực của một doanh nghiệp hay một ngành thậm chí một quốc gia không bị
doanh nghiệp khác, ngành khác hoặc nước khác đánh bại về kinh tế.
Một định nghĩa tương tự trong từ điển thuật ngữ kinh tế học thì năng lực
cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên
thị trường, kể cả kinh doanh giành lại một phần hay toàn bộ thị trường đồng
nghiệp.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh của tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế(OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh nghiệp,
ngành và quốc gia thì năng lực cạnh tranh là khả năng của doanh nghiệp, ngành,
quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh


tranh quốc tế.
Như vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp
tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao
hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển
bền vững.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong điều kiện hiện nay khi mà xu thế nền kinh tế thế giới đang mở cửa
hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ, để có thể tồn
tại và phát triển doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình. Một doanh nghiệp muốn có được năng lực canh tranh tốt phải trải qua
quá trình xây dựng, phát triển và tạo dựng môi trường bên trong và bên ngoài
tốt từ đó tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mỗi
doanh nghiệp là một tế bào kinh tế xã hội, nó luôn tồn tại và hoạt động trong
môi trường kinh tế xã hội. Do đó doanh nghiệp cần nhận thức những yếu tố tác
động và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà có các biện
pháp hạn chế hoặc loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực, phát huy những ảnh
hưởng tiêu cực để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Các yếu tố ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể chia làm hai nhóm:
những nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
1.2.1 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.2.1.1 Năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp
Năng lực tổ chức, quản lý của doanh nghiệp được coi là yếu tố quan trọng
hàng đầu đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nếu có tổ chức tốt thì doanh nghiệp
đó sẽ có khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Nếu một doanh
nghiệp có tất cả các yếu tố khác tốt, nhưng tổ chức, quản lý tồi thì hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó chắc chăn không đạt hiệu quả. Năng lực
trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện trên các mặt:
Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý: được thể hiện ở những kiến thức, kĩ
năng cần thiết để quản lý và điều hành thực hiện các công việc đối nội và đối

ngoại của doanh nghiệp. Năng lực của đội ngũ này không chỉ là những hiểu
biết, kĩ năng về chuyên môn nghiệp vụ một lĩnh vực mà còn có những tư duy
sáng tạo, những kiến thức rộng lớn và phức tạp thuộc rất nhiều lĩnh vực liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp như: pháp luật trong nước và quốc tế, thị
trường, ngành hàng, tri thức tâm lý xã hội học, có văn hóa, biết sáng tạo và
không bao giờ chịu bó tay trước mọi trở ngại…
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp: thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ
cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận
phòng, ban. Sự sắp xếp, bố trí bộ máy tổ chức của doanh nghiệp theo cách tinh
giảm gọn nhẹ, linh hoạt, dễ thay đổi khi môi trường kinh doanh thay đổi quyền lực
được phân chia để mệnh lệnh truyền đạt được nhanh chóng, góp phần tạo ra năng
suất cao… Nhờ sự bố trí, sắp xếp đó mà năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đã
ngày càng nâng lên.
Năng lực quản lý doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch định chiến
lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp,
nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường kinh doanh và phương pháp quản lý
tốt… Điều này có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn. Vì vậy có những tác tác động mạnh mẽ
tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.1.2 Năng lực máy móc thiết bị công nghệ thi công
Máy móc thiết bị công nghệ là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc xem xét các yếu tố có ảnh
hưởng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có liên quan đến yếu tố máy móc,
thiết bị, công nghệ người ta thường xem xét quy mô của cơ sở vật chất kĩ thuật,
trình độ trang bị máy móc, thiết bị, công nghệ cho quá trình sản xuất; mức độ
hiện đại của các thiết bị công nghệ, trình độ cơ khí hóa và tự động hóa. Sử dụng
công nghệ hiện đại giúp cho doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá
thành, chất lượng sản phẩm tốt, do đó làm cho năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp tăng.
1.2.1.3 Năng lực tài chính của doanh nghiệp

Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện quy mô vốn, khả năng
huy động và khả năng cân đối vốn, năng lực quản lý tài chính… trong doanh
nghiệp. Để hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có
lượng vốn nhất định bao gồm vốn chủ sở hữu, vốn vay và các loại vốn khác.
Đồng thời tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng số vốn hiện có một cách hợp
lý, có hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các chế độ, chính sách quản lý
kinh tế - tài chính và kỷ luật thanh toán của Nhà nước. Vốn vừa một yếu tố sản
xuất cơ bản vừa là đầu vào của doanh nghiệp, đồng thời vốn là tiền đề đối với
các yếu tố sản xuất khác. Do đó, việc sử dụng vốn có ý nghĩa rất lớn trong việc
giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Vốn là nguồn lực doanh nghiệp cần
phải có trước tiên vì không có vốn không thể thành lập được doanh nghiệp và
không thể tiến hành hoạt động được. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh
là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động được vốn trong
những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lý. Vì vậy doanh nghiệp
muốn nâng cao năng lực tài chính của mình thì cần phải không ngừng củng cố
và phát triển nguồn vốn bằng nhiều cách thức, tăng vốn tự có, mở rộng quy mô
vốn vay dưới nhiều hình thức.
1.2.1.4 Năng lực marketing của doanh nghiệp
Năng lực marketing của doanh nghiệp bao gồm một số yếu tố: khả năng
nắm bắt nhu cầu thị trường, khả năng thực hiện chiến lược 4P (product, price,
Place, Promotion) trong hoạt động marketing, trình độ nguồn nhân lực
marketing. Năng lực marketing là nhân tố có ý nghĩa quan trọng tác động tới
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bởi và khả năng marketing tác động trực
tiếp tới việc sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, nắm bắt và đáp ứng tốt nhất nhu cầu
của khách hàng từ đó góp phần tăng doanh thu, tăng thị phần và nâng cao vị thế
của công ty. Do đó để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình doanh nghiệp cần
phải nâng cao năng lực marketing của doanh nghiệp.
1.2.1.5 Năng lực lao động của doanh nghiệp
Lao động là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, có vai trò rất quan
trọng trong sản xuất vì nó sáng tạo ra các nguồn khác. Điểm qua các hình thái

kinh tế xã hội của loài người ta vẫn thấy vai trò của lao động là quan trọng trong
tổng hòa các yếu tố lao động, đất đai, tư bản, kĩ thuật. Năng lực lao động của
doanh nghiệp thể hiện về mặt số lượng và chất lượng. Ngày nay với xu hướng
nền kinh tế tri thức vai trò của lao động trong doanh nghiệp ngày càng tăng lên,
lao động không chỉ là yếu tố đầu vào mà còn là lực lượng trực tiếp sử dụng các
phương tiện máy móc, thiết bị cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Không những thế lao động còn tham gia tích cực trong việc áp
dụng những tiến bộ khoa học công nghệ mới, có những ý tưởng, sáng chế rút
ngắn thời gian lao động, cải tiến kỹ thuật giảm giá chi phí của doanh nghiệp
tăng năng suất lao đông… Vì vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình
doanh nghiệp cần chú trọng bảo đảm cả chất lượng và số lượng lao động, nâng
cao tay nghề của người lao động.
1.2.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
1.2.2.1 Nhóm các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
 Các nhân tố kinh tế: mỗi doanh nghiệp là một tế bào của xã hội vì vậy hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của những tác động
tích cực, cũng như những biến đổi bất thường của nền kinh tế vĩ mô. Để hoạt động
sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của mình,
doanh nghiệp cần phải thấy rõ tác động của nhân tố kinh tế để có biện pháp điều
chỉnh phù hợp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp gồm có: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ

×