Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Quan niệm văn chương của kiểu tác giả nhà chí sĩ trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.43 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 5 - Tháng 01/2011

QUAN NIỆM VĂN CHƯƠNG CỦA KIỂU TÁC GIẢ NHÀ CHÍ SĨ
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX
CHU THỊ PHƯỚC MỸ (*)

TĨM TẮT
Quan niệm văn học là cơ sở của tư duy nghệ thuật, chi phối việc sáng tác văn chương
của tác giả. Mỗi thời đại, mỗi loại hình tác giả có quan niệm văn học khác nhau. Quan
niệm của kiểu tác giả nhà chí sĩ trong văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỉ vừa kế thừa
quan niệm văn học truyền thống vừa có những cách tân, đổi mới. Chính vì thế, kiểu tác giả
nhà chí sĩ đã góp phần quan trọng tạo nên diện mạo mới với đặc sắc riêng cho lịch sử văn
học dân tộc. Ở bài viết này, chúng tơi trình bày một số quan niệm văn học của kiểu tác giả
nhà chí sĩ trong 30 năm đầu của thế kỉ XX.
ABSTRACT
The concept that literature is the base of artistic thinking governs the writer’s
composition. Every period of time, every type of writers has different literature concepts.
The concept of scholar-typed writer in Vietnamese literature in the first 30 years of the 20th
century both inherited the traditional literary concept and contained renovations.
Therefore, scholar-typed writers played an important part in creating a new countenance
with their speciality in the national literary. In this article, we present a number of literary
concepts of the scholar-typed writers in the first 30 years of the 20th century.
Tác giả văn học chỉ chủ thể của sáng
tạo văn học. Nhiều tác giả có cùng những
đặc điểm loại hình tạo thành kiểu tác giả.
Kiểu tác giả thường có dấu hiệu chung về
cách nhìn, cách lựa chọn thái độ sống, tư
thế ứng xử, quan điểm thẩm mĩ, xu
hướng nghệ thuật…(*)


Từ góc nhìn ý thức hệ tư tưởng có
thể thấy trong văn học Việt Nam trung
cận đại đã từng có các kiểu tác giả nhà
sư, kiểu tác giả nhà nho, kiểu tác giả nhà
chí sĩ. Kiểu tác giả nhà chí sĩ chỉ loại
hình tác giả là những nhà nho tiên phong
tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, dấn thân
làm cách mạng. Họ khơng chỉ có đóng
góp xuất sắc cho lịch sử cứu nước mà còn
có những đóng góp lớn lao cho văn học
dân tộc. Lực lượng sáng tác ấy, tuy mỗi
(*)

ThS, Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị Quận 12

người một vẻ, nhưng có thể nói cùng một
loại hình, tạo thành kiểu tác giả đặc thù trong
văn học Việt Nam - kiểu tác giả nhà chí sĩ.
Kiểu tác giả nhà chí sĩ có quan niệm văn
chương riêng.
1. Văn học bắt nguồn từ đời sống và bản
thân nó là sự phản ánh của đời sống. Đời
sống xã hội là mảnh đất màu mỡ ni dưỡng
nghệ thuật, đồng thời là chìa khố giải mã
những hiện tượng phức tạp của nghệ thuật.
Xét đến cùng, bất kì nền văn nghệ nào cũng
hình thành trên một cơ sở hiện thực nhất
định, bất kì một nghệ sĩ nào cũng thốt thai
từ một mơi trường sống nào đó, bất kì một
tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ từ những

vấn đề trong cuộc sống.
Văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế
kỉ XX cũng khơng nằm ngồi những quy luật
ấy. Sáng tác của kiểu tác giả nhà chí sĩ ra đời
trong một hiện thực mới mẻ, đầy biến động,
45


những sáng tác đó thể hiện một quan
niệm mới về chức năng và sứ mệnh của
văn học. Quan niệm của các chí sĩ vừa
mang tính tiếp nối, kế thừa quan niệm
truyền thống vừa có những cách tân cho
phù hợp điều kiện hoàn cảnh mới của đất
nước, của thời đại.
Khi nói về chức năng của văn học, từ
xưa tới nay có nhiều quan niệm khác
nhau. Ở phương Tây, người ta đã xem
thẩm mĩ và có ích là hai chức năng chính
của văn học. Platon (427-347 TCN) đánh
giá cao vai trò của văn nghệ trong việc
bồi dưỡng tâm hồn lành mạnh và cao
thượng cho con người. Nhà phê bình văn
học Nga, Biêlinxki (1811-1848) cho rằng
“văn học là vị gia sư của xã hội”. Còn
Tolstoi thì quả quyết rằng “văn học là sự
hướng đạo về tinh thần”. Ở phương
Đông, theo quan điểm Nho giáo, người ta
nhấn mạnh chức năng giáo dục của văn
chương, “văn dĩ tải đạo”, “văn” là để chở

“đạo”, văn thơ là phương tiện để truyền
bá đạo Nho, để giáo dục đạo đức, tu
dưỡng nhân cách cho con người nhằm
phục vụ cho các thế lực thống trị. Theo
Khổng Tử thì chức năng văn học phải là:
“Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ
quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sư phụ, viễn chi
sư quân” [3, tr31], văn chương có tác
dụng làm cho người ta phấn chấn, biết
xem xét việc đời, đoàn kết gắn bó, căm
ghét chuyện xấu, gần có thể thờ cha, xa
có thể thờ vua.
Ở Việt Nam, cho đến cuối thế kỉ XIX,
ông cha ta vẫn quan niệm “văn dĩ tải
đạo”. Ngô Thì Nhậm từng nói: “Văn
chương là để giúp đời”. Nội dung đặc thù
của “đạo” đó là đạo cứu nước, cứu dân,
cứu người cao cả. Quan niệm đó có phần
tích cực đã kích thích kẻ sĩ đem văn
chương phục vụ cho đất nước.

Với quan niệm văn chương không tách
rời chính trị, văn chương phục vụ chính trị,
phản ánh đời sống chính trị, bộc lộ thái độ
chính trị theo cách riêng của mình, các nhà
chí sĩ cũng xuất phát từ quan niệm “văn dĩ
tải đạo” nhưng với họ, đạo đây là đạo cứu
nước, cứu dân. Cuối thế kỉ XIX, khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Đình Chiểu
đã xác định:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
“Đạo” mà thuyền thơ Nguyễn Đình
Chiểu chở nặng đó là đạo của lòng yêu nước,
thương dân sâu sắc chứ không nhằm chở đạo
lí phục vụ bọn ngoại bang xâm lấn bờ cõi,
giang sơn. Nhà thơ mù yêu nước sáng suốt
đứng về phía nhân dân kháng chiến chống
Pháp. Tính chiến đấu quyết liệt của lời thơ
có tác dụng cổ vũ lớn lao cho những hoạt
động yêu nước của nhân dân Nam Bộ, của
dân tộc Việt Nam... Văn học chân chính luôn
hướng con người tới các giá trị chân, thiện,
mĩ, hướng tới những vấn đề bức thiết trong
đời sống của nhân dân, vấn đề tương lai, vận
mệnh dân tộc.
Đến đầu thế kỉ XX, quan niệm “văn dĩ
tải đạo” vẫn được kế thừa trong sáng tác của
các nhà Nho yêu nước. Đối với các chí sĩ
hoạt động cứu nước, họ luôn có ý thức sử
dụng văn chương làm phương tiện để phục
vụ sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Văn
chương vẫn có các chức năng “Thi khả dĩ
hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán”.
Họ vẫn dùng văn chương làm phương tiện để
gây niềm hứng khởi nhằm tập hợp quần
chúng trong công cuộc cách mạng đánh đuổi
quân xâm lược, giành lại độc lập dân tộc.
Cùng với quá trình đô thị hoá và sự ảnh
hưởng của văn hoá Pháp, ảnh hưởng của

những luồng tư tưởng tiến bộ từ châu Âu đã
đem lại cho các chí sĩ ý thức mới về chức
năng văn chương. Văn chương không chỉ có
46


chức năng giáo hóa, tải đạo mà còn có
chức năng thẩm mĩ, chức năng nhận thức.
Văn học nghệ thuật tác động tới nhận
thức và sự hình thành lí tưởng thẩm mĩ
cho con người, từ đó góp phần cải tạo xã
hội.
Văn học thực hiện các chức năng
theo đặc thù của nghệ thuật ngôn từ.
Bằng hình tượng, văn học có thể xây
dựng hình ảnh một xã hội lí tưởng để
thắp lên trong tâm hồn người đọc niềm
mơ ước tương lai và ngọn lửa khát khao
thay đổi cuộc sống hiện tại. Những tác
phẩm văn học có giá trị bao giờ cũng
đem đến cho người đọc lí tưởng thẩm mĩ
của nhân dân, của dân tộc, phải đặt ra
những vấn đề then chốt của thời đại, giúp
người đọc nhận ra một trạng thái nhân
sinh. Vì vậy, kiệt tác văn học bao giờ
cũng chứa đựng bên trong những dự báo
về tương lai.
Trước hiện thực đa chiều của cuộc
sống, trước yêu cầu bức thiết của vận
mệnh dân tộc, loại hình tác giả nhà chí sĩ

đã sáng tác trong sự thôi thúc của một
quan niệm tiến bộ về văn chương. Đặt
trong mối quan hệ với vận mệnh dân tộc,
sự tồn vong của quốc gia, với cuộc sống
của hàng triệu người dân mất nước, quan
niệm về chức năng của văn học đã có
những thay đổi tiến bộ. Văn chương phải
là vũ khí tinh thần sắc bén để giác ngộ, cổ
vũ mọi tầng lớp nhân dân tập hợp dưới
ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải phóng
nhân dân khỏi áp bức nô lệ, vươn tới tự
do, hạnh phúc.
2. Coi văn chương là “trống chiêng
thức tỉnh”, là phương tiện hữu hiệu nhằm
huy động sức mạnh cứu nước, giải phóng
dân tộc. Trước đòi hỏi của sự nghiệp cách
mạng, văn chương phải thực hiện sứ
mệnh chính trị, nó là “gươm”, là “súng”,

là vũ khí nhắm vào kẻ thù và là “chiêng”, là
“trống” thúc giục, hiệu triệu đồng bào. Từ
yêu cầu của lịch sử, người cầm bút đã đặt
nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ cứu nước của
văn học lên hàng đầu, sáng tác phải gắn với
trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội
của người cầm bút. Trong Văn tế Phan Chu
Trinh, Phan Bội Châu viết:
Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường
quyền trông gió cũng gai ghê
Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa

dân chủ khêu đèn thêm sáng chói.
Sáng tác trên cơ sở quan niệm như thế,
nên văn chương thời kì này có nhiều tác
phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao,
có tác dụng sâu sắc trong việc cổ vũ nhân
dân. Những “câu thơ dậy sóng” của Phan
Bội Châu đã trở thành trống chiêng thức tỉnh
cho thế hệ trẻ đương thời. Bài ca chúc tết
thanh niên với giọng thơ vừa đau xót vừa
hào sảng, vừa giục giã, vừa tha thiết, Sào
Nam đã đánh thức tâm hồn thế hệ trẻ, lay
tỉnh lớp hậu sinh từ bỏ lối sống tầm thường,
bắt kịp thời đại mới, cùng nhau đoàn kết
giành lại chủ quyền dân tộc. Tinh thần hăm
hở, sục sôi của người chí sĩ đã thôi thúc, giục
giã, cuốn họ vào không khí “tân vận hội”
nhận thức được cơ hội mới để “xốc vác cựu
giang sơn”, tham gia vào công cuộc cách
mạng của cả dân tộc.
Dậy! dậy! dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy,
Chim trên cây vừa ngỏ ý chào mừng.
…………………………………….
Thưa các cô, các chị, lại các anh;
Đời đã mới, người càng nên đổi mới.
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội,
Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn.
Thức tỉnh để người dân nhận rõ vận hội
mới, thức tỉnh để họ nhận thấy những tai họa
khủng khiếp của nước nhà nếu không mau

mau cứu nước.
47


Tỉnh quốc hồn ca của Phan Chu
Trinh cũng mang âm hưởng của quan
niệm văn học là trống chiêng thức tỉnh.
Nội dung thức tỉnh ở Phan Chu Trinh là
hô hào cải cách xã hội theo hướng duy
tân lúc bấy giờ:
Ngồi nghĩ lại thêm phiền thêm tủi,
Hỏi những người tuổi trẻ tài cao.
Bây giờ phải tính làm sao?
Rủ nhau đi học mọi điều văn minh.
Các chí sĩ thức tỉnh quốc dân bằng
việc đánh đổ quan niệm học thuật của các
nhà nho cổ hủ. Bởi lối học đó, lúc này,
không những trở thành sự cản trở tinh
thần tiến thủ của thanh niên mà còn biến
thanh niên thành những kẻ nô lệ tối tăm
mù mịt, ươn hèn, làm tôi tớ cho thực dân,
đế quốc. Vì vậy thức tỉnh để xây dựng
đời sống tinh thần mới, hướng thanh niên
có khát vọng vươn tới chân trời rộng,
nhằm giải phóng nước nhà:
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Xuất dương lưu biệt – Phan Bội Châu)


Các nhà ái quốc đã tinh anh nhận rõ
âm mưu nô dịch, ngu dân, tàn bạo của
thực dân, đồng thời bình tĩnh, sáng suốt
nhận rõ vận hội mới của đất nước. Văn
thơ của họ đã song hành thực hiện sứ
mệnh vừa thức tỉnh đồng bào vừa khích lệ
họ tin tưởng tham gia vào cuộc tranh đấu
giành độc lập dân tộc, xây dựng một nền
“ tân học văn minh” tiến kịp thời đại mới.
3. Văn chương là vũ khí sắc bén đuổi
thù, là công cụ vạn năng trong công cuộc
duy tân, tự cường dân tộc. Tiếp nối quan
niệm “đâm mấy thằng gian bút chằng tà”,
văn học tiếp tục là vũ khí sắc bén đuổi
thù. Văn thơ các chí sĩ đã tập trung tố cáo
tội ác của thực dân, vạch trần bản chất, dã

tâm bẩn thỉu của chúng (dã tâm của chúng
được che đậy dưới những luận điệu tuyên
truyền về khai hoá thuộc địa) đối với dân tộc
ta, nhằm giúp nhân dân hiểu rõ âm mưu
thâm độc của ngoại bang. Bằng việc đưa ra
hàng loạt những chứng cứ cụ thể về chính
sách bóc lột kinh tế như thuế khóa nặng nề,
phu phen, tạp dịch, chính sách nô dịch về
văn hoá dưới chiêu bài “bảo hộ”, “khai hoá”
với mưu đồ diệt chủng, văn học của nhà chí
sĩ yêu cầu cấp bách người dân vùng dậy bảo
vệ giống nòi. Trong Hải ngoại huyết thư

Phan Bội Châu đã nêu lên câu hỏi lớn, câu
hỏi bức thiết Năm mươi triệu há ngồi chịu
chết? Trả lời câu hỏi ấy là trả lời cho sự tồn
vong của quốc gia:
Năm mươi triệu há ngồi chịu chết?
Cũng có phen kịch liệt một lần,
Sao bằng nó lấy dần dần,
Mỗi năm mỗi thuế, mỗi phần mỗi tăng.
Không chỉ bóc lột về kinh tế, xô đẩy
nhân dân vào chốn lầm than mà chúng còn
thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
Phan Bội Châu đã vạch trần âm mưu đó:
Trường quốc học đặt tên Pháp - Việt,
Dạy người Nam đủ biết tiếng Tây,
Đến như trăm thứ nghề hay,
Binh, cơ, điện, hoá, không thầy dạy
khôn.
Bằng hình ảnh biểu cảm, chân thực,
Phan Bội Châu đã vạch rõ tâm địa đen tối
của chúng. Chúng vơ vét thuộc địa bằng
chính sách thuế, bằng chính sách nhân công
rẻ mạt, chà đạp đối xử tàn tệ với nhân dân:
Nó nuôi mình như trâu như chó
Nó coi mình như cỏ như rơm
Trâu nuôi béo cỏ coi rờm
Cỏ moi rễ cỏ, trâu làm thịt trâu.
Những chính sách đó của thực dân tất
yếu dẫn đến thảm họa diệt chủng đối với dân
tộc:
Pháp kia nó tính đã sành

48


Cái điều diệt chủng thôi đành chẳng
sai.
Vạch trần âm mưu, thủ đoạn của thực
dân, từ đó các nhà chí sĩ đã nhóm lên
ngọn lửa căm thù, khơi dậy ở mọi người
nhiệt tình, quyết tâm cứu nước, sẵn sàng
nung nấu ý chí đánh đuổi quân thù, bảo
vệ giống nòi, bảo vệ đạo lí, bảo vệ nền
văn hiến lâu đời của ông cha ta ngàn đời
để lại.
4. Nỗi lòng người chí sĩ là nỗi trăn
trở, băn khoăn khi việc lớn chưa thành và
lòng thương cảm, an ủi, khích lệ đồng
chí, anh em trong bước gian nguy. Khi
đất nước mất chủ quyền, phong trào cách
mạng bị đàn áp thì những người yêu
nước, hoạt động cứu nước trở thành tội
phạm đối với chính quyền thống trị.
Trong hoàn cảnh đó, nhiều chí sĩ đã bị
bắt bớ, cầm tù, tra tấn. Nhiều chí sĩ phải
trốn tránh, ẩn nấp để tiếp tục hành trình
cứu nước, nhiều người phải lưu vong, xa
Tổ quốc để hoạt động. Họ phải chịu đựng
muôn vàn những cực hình, cay đắng,
thiếu thốn, khó khăn. Nhưng dù trong
hoàn cảnh nào, lòng yêu nước nồng nàn,
tinh thần cách mạng trung kiên và tình

yêu thắm thiết với đồng chí, đồng bào
vẫn không hề bị dập tắt.
Văn chương trở thành một phương
tiện hữu hiệu để các chí sĩ gửi gắm tâm tư
tình cảm, chí khí của mình đồng thời để
an ủi, cổ vũ, khích lệ tinh thần anh em,
đồng chí đồng bào, động viên nhau giữ
vững tinh thần bất khuất trước bạo lực
cường quyền, nuôi dưỡng niềm tin ở ngày
chiến thắng. Chính vì thế, văn thơ đã bày
tỏ một cách cảm động, thiết tha, sâu sắc
những cung bậc nỗi lòng của các chí sĩ.
Văn thơ bày tỏ nỗi lòng thường được thể
hiện qua những tác phẩm thuộc các thể
loại trữ tình với các thi đề: Cảm hứng, tức

cảnh, khóc bạn, thư gửi bạn, tiễn, điếu...
Nỗi lòng người chí sĩ còn là nỗi niềm tha
thiết yêu quê hương, niềm tin tưởng son sắt
vào tương lai tươi sáng của nước nhà. Văn
thơ bày tỏ nỗi lòng đã thể hiện một cách
chân thực, cảm động những cung bậc tâm tư
người chí sĩ yêu nước, thiết tha với sự nghiệp
cứu nước cứu dân. Có khi đó là tiếng nói
hăm hở lạc quan, tràn đầy niềm tin và hi
vọng, có khi là tiếng nói buồn nhớ quê
hương gia đình, có khi là tiếng nói căm giận
sôi trào trước những tội ác của kẻ thù, có khi
đó là nỗi lo lắng, băn khoăn, trăn trở vì sự
nghiệp chưa thành mà con đường phía trước

còn mờ mịt, chông gai. Bao nhiêu hoài bão
chủ quan và bao nhiêu biến cố khách quan
đều trở thành bấy nhiêu đề tài suy nghĩ, cảm
khái cho người chí sĩ cách mạng.
Tiếng nói muôn điệu bày tỏ nỗi lòng
trong thơ văn nhà chí sĩ đã đem đến cho
người đọc niềm đồng cảm, thương yêu và
kính phục trước những nỗi niềm trăn trở về
trách nhiệm, sứ mệnh của các nhà chí sĩ đối
với vận nước. Mảng thơ văn này đã góp
phần bồi đắp lòng yêu nước, thương dân cho
đồng bào, đồng chí, anh em.
5. Với tư cách là một loại hình tác giả,
nhà chí sĩ đã góp phần quan trọng tạo nên
diện mạo mới với đặc sắc riêng cho lịch sử
văn học dân tộc. Về cơ bản họ xuất thân từ
nhà nho, mang đặc điểm của kiểu nhà nho
hành đạo trong văn học trung đại nhưng
trước yêu cầu của thời đại mới, họ dám tiên
phong đổi mới, đổi mới một cách táo bạo
quyết liệt, đổi mới quan niệm về đất nước,
về con người, đổi mới quan niệm văn học.
Việc vừa kế thừa vừa đổi mới trong sáng tác
của loại hình tác giả nhà chí sĩ đã đem đến
những đóng góp mang tính cách tân cho văn
học nước nhà. Coi văn chương là công cụ
vạn năng trong vận động cách mạng, cổ vũ
tinh thần duy tân, tự cường, yêu nước, các
49



tác giả nhà chí sĩ đã sáng tác văn chương
bằng tất cả tấm lòng nhiệt thành, tâm
huyết của mình. Văn chương của họ đậm
tính trữ tình, hoà quyện chất lãng mạn

bay bổng, tính chân thực của hiện thực và
khẩu khí bậc trượng phu đã làm nên những
vần thơ dậy sóng, tạo sức dư ba, lan tỏa
trong tâm hồn người đọc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Biện Minh Điền (1996), "Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học trung đại Việt
Nam", T¹p chÝ Nghiªn cøu v¨n häc, Sè 4, 2005.
2. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX, NXB Văn học,
Hà Nội.
3. Nguyễn Viết Ngoạn, "Văn học trung đại Việt Nam với vấn đề con người", Tạp chí
Đại học Sài Gòn, (2), tr.51-60.
4. Chương Thâu - Triều Dương - Nguyễn Đình Chú, (1972), Hợp tuyển thơ văn yêu
nước và cách mạng, NXB Văn học, Hà Nội.
5. Chương Thâu (2000), Phan Bội Châu về một số vấn đề Văn hoá - Xã hội - Chính trị,
NXB Thuận Hóa, Huế
6. Lê Trí Viễn, (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Văn nghệ thành
phố Hồ Chí Minh.

50




×