Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

NGHIÊN cứu sự PHÁT TRIỂN THỂ lực CHUNG của SINH VIÊN năm NHẤT (lứa TUỔI 19) TRƯỜNG đại học ĐỒNG THÁP SAU một năm tập LUYỆN NGOẠI KHÓA môn VOVINAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.75 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THỂ DỤC THỂ THAO
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHUNG CỦA SINH
VIÊN NĂM NHẤT (LỨA TUỔI 19) TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG
THÁP SAU MỘT NĂM TẬP LUYỆN NGOẠI KHÓA MÔN
VOVINAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


AN GIANG – 01/2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THỂ DỤC THỂ THAO
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHUNG
CỦA SINH VIÊN NĂM NHẤT (LỨA TUỔI 19) TRƯỜNG ĐẠI
HỌC ĐỒNG THÁP SAU MỘT NĂM TẬP LUYỆN
NGOẠI KHÓA MÔN VOVINAM
Ngành: Giáo dục thể thất
Mã Số: 60140103

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học

AN GIANG – 01/2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu sự phát triển thể lực
chung của sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19) trường Đại học Đồng Tháp sau
một năm tập luyện ngoại khóa môn Vovinam” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, số liệu nghiên cứu thu được từ thực nghiệm và không sao chép.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.............5
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về GDTC trong trường học................5
1. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung GDTC trong trường học......................10
1.3. Cơ sở khoa học của giáo dục thể chất.....................................................13
1.3.1. Khái niệm giáo dục thể chất..................................................................13
1.3.2. Công tác GDTC với sự phát triển của học sinh, sinh viên....................17
1.3.3. Khái lược thực trạng công tác GDTC tại trường ĐH Đồng Tháp.........19
1.3.4. Công tác giảng dạy môn GDTC tại trường Đại học Đồng Tháp...........20
1.4. Đặc điểm môn võ Vovinam......................................................................22
1.5. Đặc điểm phát triển các tố chất thể lực lứa tuổi sinh viên........................32
1.6. Những nghiên cứu có liên quan về thể lực chung......................................41

CHƯƠNG 2:PHƯƠNG PHÁP, TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU..........44

2.1. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................44
2.1.1. Phương pháp tham khảo tài liệu............................................................44
2.1.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm......................................................44
2.1.3. Phương pháp kiểm tra sư phạm.............................................................45
2.1.4. Phương pháp toán thống kê...................................................................48
2.2. Tổ chức nghiên cứu..................................................................................50
2.2.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.......................................................50
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu.............................................................................50
2.2.3. Tiến độ nghiên cứu................................................................................51
2.2.4. Dự trù kinh phí, trang thiết bị, dụng cụ.................................................52

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN...........53
3.1. Thực trạng thể lực chung của sinh viên năm nhất trường Đại học Đồng
Tháp.................................................................................................................53
3.1.1. Thực trạng thể lực chung của sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19) trường
Đại học Đồng Tháp.........................................................................................53
3.1.2. So sánh thể lực chung của sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19) trường Đại
học Đồng Tháp thông qua tập luyện Câu lạc bộ ngoại khóa Vovinam với


Quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc
đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên..................................................56
3.2. Đánh giá sự phát triển thể lực chung của sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19)
trường Đại học Đồng Tháp sau một năm tập luyện câu lạc bộ ngoại khóa
Vovinam...........................................................................................................58
3.2.1. Đánh giá nhịp độ tăng trưởng về sự phát triển thể lực chung của sinh
viên năm nhất (lứa tuổi 19) trường Đại học Đồng Tháp sau một năm tập luyện
câu lạc bộ ngoại khóa Vovinam.......................................................................59
3.2.2. So sánh sự phát triển về thể lực chung giữa hai nhóm sinh viên năm
nhất (lứa tuổi 19) Câu lạc bộ ngoại khóa Vovinam và Câu lạc bộ ngoại khóa

Bóng rổ trường Đại học Đồng Tháp sau một năm tập luyện...........................64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................................70

KẾT LUẬN...................................................................................70
KIẾN NGHỊ................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHÁO


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được thực hiện tại Trường Đại học Sư phạm Thể dục thể
thao thành phố Hồ Chí Minh. Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận
được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy PGS. TS. Trịnh
Hữu Lộc hướng dẫn đã giúp sức để tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo, người đã
đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ vô cùng có ích trong những năm học
vừa qua.
Cũng xin gửi lời cán ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo
sau đại học Trường Đại học Sư phạm Thể dục thể thao thành phố Hồ Chí
Minh đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình, để tôi hoàn thành tốt chương trình học tập.
Tp.HCM, tháng 01 năm 2018
Tác giả

Châu Nhật Tân



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.


CLB
Cm
ĐH
s
HCV
HLV
l
m


SV

Cao đẳng
Câu lạc bộ
Centimet
Đại học
Giây
Huy chương vàng
Huấn luyện viên
Lần
Mét
Quyết định
Sinh viên

TCĐGTL

Tiêu chuẩn đánh giá thể lực

TDTT
TP
Th.S
TS
NXB
VĐV
XPC

Thể dục thể thao
Thành phố
Thạc sĩ

Tiến sĩ
Nhà xuất bản
Vận động viên
Xuất phát cao


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Biểu đồ
Bảng 3.1
Bảng 3.2

Bảng 3.3

TÊN BẢNG – BIỂU ĐỒ
Thực trạng thể lực chung của nam sinh viên năm thứ
nhất trường Đại học Đồng Tháp (n = 100)
Thực trạng thể lực chung của nữ sinh viên năm thứ
nhất trường Đại học Đồng Tháp (n = 100)
So sánh thực trạng các test thể lực chung của nam sinh
viên năm thứ nhất Trường Đại học Đồng Tháp với QĐ

Trang
54
55

57

53/2008 (n=100)
So sánh thực trạng các test thể lực chung của nữ sinh

Bảng 3.4

viên năm thứ nhất Trường Đại học Đồng Tháp với QĐ

58

53/2008 (n=100)
Sự phát triển thể lực chung của sinh viên nam trường
Bảng 3.5

Đại học Đồng Tháp sau 1 năm tập luyện Vovinam

59

ngoại khóa (n = 50)
Sự phát triển thể lực chung của sinh viên nữ trường
Bảng 3.6

Đại học Đồng Tháp sau 1 năm tập luyện Vovinam

62

ngoại khóa (n = 50)
Bảng so sánh sự phát triển thể lực chung giữa hai
Bảng 3.7

nhóm sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19) Câu lạc bộ
ngoại khóa Vovinam và Câu lạc bộ ngoại khóa Bóng
rổ trường Đại học Đồng Tháp sau một năm tập luyện
So sánh hai nhóm nam sinh viên năm nhất (lứa tuổi


Biều đồ 3.1

19) Câu lạc bộ ngoại khóa Vovinam và Câu lạc bộ
ngoại khóa Bóng rổ trường Đại học Đồng Tháp sau

65

Sau
trang
67

một năm tập luyện
Biều đồ 3.2 So sánh hai nhóm nữ sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19)

Sau

Câu lạc bộ ngoại khóa Vovinam và Câu lạc bộ ngoại

trang

khóa Bóng rổ trường Đại học Đồng Tháp sau một năm

69


tập luyện


11


PHẦN MỞ ĐẦU
Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa của xã hội.
TDTT còn là một trong những phương tiện để phát triển xã hội thông qua các
hoạt động thể dục thể thao. Các hoạt động TDTT không chỉ tác động trực tiếp
lên cơ thể con người làm cải biến, phát triển và hoàn thiện toàn bộ hệ thống
chức năng, chức phận của cơ thể mà còn nâng cao năng lực hành vi vận động
(kỹ năng, kỹ xảo), nâng cao năng lực trí tuệ. Tất cả những điều đó chỉ có thể
bằng chính hoạt động TDTT mới tạo ra được mà không có bất kỳ hình thức
văn hóa xã hội nào khác có tác dụng này.
Cùng với sự phát triển của thời đại, các hoạt động TDTT không còn
đơn thuần chỉ là phương tiện để bảo vệ, củng cố và tăng cường sức khỏe
nhằm thỏa mãn những nhu cầu về thể chất và tinh thần mà nó còn nhằm mục
đích tập luyện để thi đấu và thi đấu thành tích đỉnh cao. Chính vì vậy, nhà
nước ta đã có sự quan tâm, đầu tư đáng kể cho ngành thể dục thể thao. Điều
đó được minh chứng qua những thành tích mà ngành thể thao nước ta đã đạt
được ở các môn: bóng đá, võ thuật, điền kinh, bơi lội… Trong đó, môn
Vovinam là một trong những môn võ thuật đã góp phần tạo nên những thành
tích đáng kể cả trong nước lẫn trên đấu trường quốc tế.
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang có chủ trương phát triển các
môn thể thao dân tộc trong nhà trường. Môn võ Vovinam là một môn võ
truyền thống của người Việt Nam, được xem là môn thể thao quần chúng với
đặc điểm dễ tập luyện, không đòi hỏi cao về năng lực phẩm chất, phù hợp với
mọi lứa tuổi, phong phú về chương trình tập luyện, dễ kết hợp tạo sự hưng
phấn, thích thú cao nơi người tập, đặc biệt là các em học sinh – sinh viên. Dựa
trên nền tảng võ và vật dân tộc, đồng thời nghiên cứu tinh hoa của các môn võ
khác trên thế giới để dung nạp, thái dụng và hoá giải, nhất là cải tiến nền tảng
kỹ thuật của mình theo nguyên lý Cương – Nhu phối triển, Vovinam bao gồm



12

hệ thống các bài tập từ dễ đến khó, từ căn bản đến phức tạp, đa dạng và phong
phú về các nội dung cũng như phương pháp giảng dạy, phù hợp với thể trạng
của người Việt Nam chúng ta. So với các môn thể thao khác, Vovinam mặc dù
được hình thành muộn hơn song đã nhanh chóng phát triển rộng khắp các
tỉnh, thành phố trong cả nước và đã có những đóng góp không nhỏ về mặt
thành tích tại các đấu trường quốc tế. Tại Đồng Tháp, Vovinam đã phát triển
rất lâu và là một trong những đơn vị đóng góp nhiều VĐV cho đội tuyển quốc
gia. Tuy nhiên, chất lượng lực lượng vận động viên Vovinam thành tích trong
những năm qua chưa thực sự cao đây cũng là một vấn đề cấp thiết được ban
huấn luyện và cấp quản lý tại địa phương vô cùng quan tâm.
Để thành tích của môn Vovinam nói riêng và các môn thể thao nói
chung ngày càng nâng cao hơn nữa đòi hỏi phải có các chiến lược hoạch định
đào tạo một lớp VĐV trẻ tài năng xứng đáng thay thế các lớp đàn anh đi
trước. Bên cạnh những việc phải làm như: đảm bảo cơ sở vật chất, huấn luyện
kỹ - chiến thuật, xây dựng các chỉ tiêu, tiêu chuẩn tuyển chọn… thì việc
không thể thiếu là phải đánh giá trình độ vận động viên một cách có khoa học,
để làm cơ sở cho quá trình tập luyện cũng như nâng cao công tác quản lý, đào
tạo vận động viên.
Tại tỉnh Đồng Tháp, trong những năm qua chỉ có một vài công trình
nghiên cứu nhỏ về môn Vovinam. Nó chưa phản ánh đầy đủ sự phát triển của
phong trào tập luyện Vovinam tại địa phương và chưa có nghiên cứu nào về
đánh giá trình độ thể lực một cách bài bản và khoa học. Hiện nay, việc đánh
giá trình độ thể lực tại CLB Vovinam trường Đại học Đồng Tháp còn gặp
nhiều khó khăn. Chính vì thế, việc nghiên cứu đánh giá trình độ thể lực
Vovinam một cách có hệ thống và khoa học là vấn đề cấp thiết. Trên cơ sở
phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của những vấn đề, chúng tôi xác định
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu sự phát triển thể lực chung của sinh viên



13

năm nhất (lứa tuổi 19) trường Đại học Đồng Tháp sau một năm tập luyện
ngoại khóa môn Vovinam”.
Mục đích nghiên cứu: Nhằm cung cấp thông tin về thực trạng và sự
phát triển thể lực chung của sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19) trường Đại học
Đồng Tháp sau một năm tập luyện câu lạc bộ ngoại khóa Vovinam. Kết quả
nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho các chuyên gia, nhà chung, giáo viên;
góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất cho sinh viên trường
Đồng Tháp. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo vận động viên ở
môn thể thao này.
Mục tiêu nghiên cứu:
Để giải quyết mục tiêu trên, chúng tôi tiến hành giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng thể lực chung của sinh viên năm nhất
(lứa tuổi 19) trường Đại học Đồng Tháp thông qua tập luyện Câu lạc bộ ngoại
khóa Vovinam.
- Thực trạng thể lực chung của sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19) trường
Đại học Đồng Tháp thông qua tập luyện Câu lạc bộ ngoại khóa Vovinam.
- So sánh thể lực chung của sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19) trường Đại
học Đồng Tháp thông qua tập luyện Câu lạc bộ ngoại khóa Vovinam với
Quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Mục tiêu 2: Đánh giá sự phát triển thể lực chung của sinh viên năm nhất
(lứa tuổi 19) trường Đại học Đồng Tháp sau một năm tập luyện câu lạc bộ
ngoại khóa Vovinam.
- Đánh giá sự phát triển thể lực chung của sinh viên năm nhất (lứa tuổi
19) trường Đại học Đồng Tháp sau một năm tập luyện câu lạc bộ ngoại khóa
Vovinam.



14

- So sánh thể lực chung giữa hai nhóm sinh viên năm nhất (lứa tuổi 19)
Câu lạc bộ ngoại khóa Vovinam và Câu lạc bộ ngoại khóa Bóng rổ trường Đại
học Đồng Tháp sau một năm tập luyện.
.


15

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về GDTC trong trường học
Nhiệm vụ và mục tiêu của GDTC trong trường học là nâng cao sức
khoẻ, đảm bảo sự phát triển bình thường của cơ thể học sinh; phát triển các tố
chất thể lực và kỹ năng vận động cơ bản của con người; hình thành thói quen
rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và rèn luyện đạo đức ý chí cho người học.
Phát triển GDTC trong trường học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
GDTC cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư phạm với
đầy đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt
động của nhà sư phạm phù hợp với sinh viên, với nguyên tắc sư phạm. GDTC
chia thành hai mặt tương đối độc lập: dạy học động tác (giáo dưỡng thể chất)
và giáo dục tố chất thể lực. Trong hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng của
GDTC được gắn liền với giáo dục, trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao
động.
Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đòi hỏi giáo dục phải
tạo ra những con người phát triển toàn diện về trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục và

nghề nghiệp. vì vậy GDTC trong hệ thống giáo dục nói chung và trong nhà trường
nói riêng có ý nghĩa rất to lớn trong việc phát huy và bồi dưỡng nhân tố con
người, góp phần không nhỏ nâng cao thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức lối
sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa và phát huy tinh thần dân tộc
của con người Việt Nam, tăng cường và giữ vững an nhinh quốc phòng cho đất
nước.
Quyết định số 931/QĐ – Bộ giáo dục và Đào tạo ngày 29/04/1993 của
Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo về việc ban hành quy chế về công tác


16

GDTC trong nhà trường các cấp (điều 1 chương I; điều 2,5,6 chương II; điều
8 chương III; điều 13,15,16). [25]
Chỉ thị 36/CT/1994 về công tác TDTT trong giai đoạn mới nêu rõ: “Cải
tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên
TDTT cho trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất
để thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học…”. [3]
Tháng 10/1941, trong chương trình cứu nước của mặt trận Việt Minh đã
nêu rõ: “... Khuyến khích, giúp đỡ nền thể dục quốc dân, làm cho nòi giống
ngày càng thêm mạnh. Trẻ em được Chính phủ đặc biệt săn sóc về Thể dục,
Trí dục và Đức dục...”
Ngày 27/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 38 thiết lập
tại Bộ quốc gia Giáo dục một Nha Thanh niên và Thể dục, trong đó có một
Phòng thanh niên TW và một Phòng Thể dục TW, có nhiệm vụ “... khuyên và
dạy đồng bào tập thể dục...”. Bác Hồ còn viết bài “Sức khoẻ và thể dục” đăng
trên báo Cứu quốc (tiền thân của báo Nhân dân) và báo Việt Nam Khoẻ (tiền
thân của báo Thể thao Việt Nam) trong đó, Người khẳng định “... giữ gìn dân
chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần phải có sức khỏe
mới làm thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi

một người dân khoẻ mạnh, tức là cả nước mạnh khỏe...”.
Tháng 1 năm 1955, trong Lễ Khai giảng trường đại học Nhân dân Việt
Nam, Bác Hồ đã căn dặn: “Thanh niên phải chuyên tâm đi học và công tác
nhưng cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh
hoạt của thanh niên. Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần có những thứ vui
chơi văn hoá, thể thao có tinh thần tập thể và quần chúng... ” (Hồ Chí Minh Bàn về công tác giáo dục - NXB Sự Thật 1972).
Các sự kiện và những văn bản nói trên đã chứng minh rằng: Ngay từ
trước Cách mạng tháng 8 và sau khi chúng ta vừa giành được chính quyền và
đang phải chống lại 3 loại giặc (đói - dốt - ngoại xâm) thì TW Đảng và Bác


17

Hồ đã nêu quan điểm, tư tưởng chỉ đạo công tác TDTT đối với thế hệ trẻ (học
sinh). Vì đó là đối tượng chính của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Về mặt tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước đầu tiên và cao nhất về TDTT
được đặt trong Bộ quốc gia Giáo dục (trước đó là trong Bộ thanh niên). Điều
này càng thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng về công tác Giáo dục thể
chất và TDTT trường học.
Từ đó đến nay, trong mỗi kỳ đại hội Đảng toàn quốc hoặc trong từng
nhiệm kỳ, Trung ương Đảng đều ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư
về TDTT nói chung và TDTT trường học nói riêng.
Trong Chỉ thị 36/CT -TW ngày 24/3/1994 về công tác TDTT trong giai
đoạn mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định mục tiêu đến năm 2000
TDTT trường học phải: “Thực hiện GDTC trong tất cả các trường học. Làm
cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh,
sinh viên... Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tổng cục TDTT
phải phối hợp chỉ đạo công tác Giáo dục thể chất, cải tiến chương trình
giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho trường
học các cấp tạo điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ

GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học…” [3]
Trong chỉ thị 17/CT-TƯ ngày 23/10/2002 về phát triển TDTT đến năm
2010, Ban bí thư TƯ Đảng xác định “Đẩy mạnh hoạt động TDTT nâng cao
thể trạng và tầm vóc của người Việt Nam. Phát triển phong trào TDTT quần
chúng với mạng lưới cơ sở rộng khắp. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ VĐV thành
tích cao… Đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học, tiến tới đảm bảo mỗi
trường học đều có GV GDTC và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, tạo điều
kiện nâng cao chất lượng GDTC; Xem đây là một tiêu chí công nhận trường
chuẩn quốc gia... Tăng đầu tư của Nhà nước cho việc phát triển TDTT ở
trường học, ở nông thôn và miền núi…” [2]


18

Tháng 12/2011, Bộ Chính trị ban hành NQ số 08/NQ-TW về công tác
TDTT, trong đó xác định mục tiêu và giải pháp nâng cao chất lượng công tác
GDTC và thể thao trong nhà trường đến năm 2020: “... phấn đấu 90% học
sinh, sinh viên đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể... Cần quan tâm đầu tư đúng
mức TDTT trường học, với vị trí là bộ phận quan trọng của phong trào
TDTT; là một mặt của giáo dục toàn diện nhân cách học sinh, sinh viên... Xây
dựng và thực hiện Đề án tổng thể phát triển giáo dục thể chất và thể thao
trường học... Thực hiện tốt giáo dục thể chất theo chương trình nội khoá;
phát triển mạnh các hoạt động thể thao của học sinh, sinh viên, bảo đảm mục
tiêu phát triển thể lực toàn diện và kỹ năng vận động cơ bản của học sinh,
sinh viên, góp phần đào tạo năng khiếu và tài năng thể thao... Đổi mới
chương trình và phương pháp giáo dục thể chất, gắn giáo dục thể chất với
giáo dục ý chí, đạo đức, giáo dục quốc phòng, giáo dục sức khoẻ và kỹ năng
sống của học sinh, sinh viên... Đãi ngộ hợp lý và phát huy năng lực đội ngũ
giáo viên thể dục hiện có; mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên thể dục cho trường học; củng cố các cơ sở nghiên

cứu khoa học về tâm sinh lý lứa tuổi và TDTT trường học...” [20]
Trên đây là những văn bản, văn kiện của Đảng nói về TDTT trường học.
Hệ thống các văn bản pháp luật của Quốc hội và Chính phủ cũng quy định rất
rõ ràng về GDTC và Thể thao trong nhà trường.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, tại
điều 41 có quy định “Nhà nước và xã hội phát triển nền TDTT dân tộc, khoa
học và nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển TDTT;
Quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học. Khuyến khích
và giúp đỡ phát triển: Các hình thức tổ chức TDTT tự nguyện của nhân dân,
tạo các điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động TDTT
quần chúng, chú trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài
năng thể thao’’. [6]


19

Luật Thể dục, Thể thao năm 2006 quy định “GDTC là môn học chính
khóa, thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận
động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Hoạt động thể thao
trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của người học, được tổ chức theo
phương thức ngoại khoá phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ,
nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát
triển năng khiếu thể thao”. (Điều 20) [17]
Luật TDTT cũng quy định rõ trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
- Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban TDTT làm 5
việc, đó là: Xây dựng chương trình giáo dục thể chất; Đào tạo bồi dưỡng giáo
viên TDTT; Hướng dẫn hoạt động ngoại khoá trong hệ thống các trường học
của cả nước (công lập và ngoài công lập); Quy định tiêu chuẩn đánh giá thể
lực học sinh và tổ chức hệ thống thi đấu thể thao cấp quốc gia dành cho học
sinh, sinh viên mà trọng tâm là Hội khỏe phù đổng và Đại hội TDTT sinh viên

toàn quốc tổ chức 4 năm 1 lần; Trách nhiệm của các bộ, ngành phải xây dựng
cơ sở vật chất bố trí giáo viên thể dục cho các trường thuộc bộ, ngành quản
lý; Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải quy hoạch đất đai, xây
dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và đảm bảo chỉ tiêu biên chế giáo viên thể
dục cho các trường công lập ở địa phương (Điều 21); Trách nhiệm mỗi nhà
trường phải thực hiện chương trình thể dục nội khoá theo quy định, phải
hướng dẫn hoạt động ngoại khoá cho người học, phải quản lý sử dụng có hiệu
quả cơ sở vật chất và phải đảm bảo an toàn cho học sinh trong tập luyện và thi
đấu thể thao (Điều 22); Trách nhiệm và quyền lợi của giáo viên thể dục và
học sinh thể dục (Điều 23 và 24); Trách nhiệm của Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội về TDTT đối với giáo dục thể chất và thể
thao trường học (Điều 26). [17]


20

1. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung GDTC trong trường học
Sau 11 năm thực hiện chỉ thị 17-CT/TW, ngày 23/10/2002 của Ban Bí
Thư Trung Ương Đảng (Khóa IX) “về phát triển thể dục thể thao”, sự nghiệp
TDTT nước ta đã có những bước tiến bộ rõ nét, nhiều nội dung của chỉ thị đã
đi vào cuộc sống, góp phần tích cực vào thành tựu chung của công cuộc đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. [2]
Cùng với sự phát triển cả bề rộng và chiều sâu của phong trào thể dục
thể thao quần chúng nói chung, công tác giáo dục thể chất và thể thao trong
trường học nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện trên các mặt:
Về giáo dục thể chất chính khoá: tính đến năm 2012, cả nước có trên
90% số trường học thực hiện tốt chương trình giáo dục thể chất chính khoá có
nền nếp theo quy định; trên 60% số trường học có hoạt động thể dục thể thao
ngoại khoá có nền nếp, tổ chức thường xuyên các hoạt động thể thao cho học
sinh, sinh viên.

Hình thức tổ chức và nội dung tập luyện thể dục thể thao của học sinh
sinh viên ngày càng đa dạng và dần đi vào nền nếp. Trong đó, các sinh hoạt
dưới hình thức câu lạc bộ thể dục thể thao trường học có tổ chức, có người
hướng dẫn ngày càng được phát triển. Nhiều nội dung tập luyện phong phú
được đưa vào các hoạt động ngoại khoá đặc biệt là các môn thể thao dân tộc,
trò chơi dân gian được đưa vào lồng ghép với phong trào thi đua “trường học
thân thiện, học sinh tích cực”. [2]
Đội ngũ giáo viên, giảng viên thể dục thể thao ở các trường học được
đào tạo, nâng cao kiến thức đã từng bước đáp ứng được yêu cầu về chung,
nghiệp vụ; cơ sở vật chất, sân chơi, bãi tập, công trình thể thao, dụng cụ tập
luyện thi đấu thể thao ở trường học các cấp đã bước đầu được quy hoạch và
đầu tư xây dựng.
Công tác chỉ đạo điều hành tiếp tục được tăng cường, sát với thực tế,
thể hiện ở các văn bản quy phạm pháp luật ngày một hoàn thiện đáp ứng yêu


21

cầu thực tiễn của nhà trường theo từng lĩnh vực trong công tác thể dục thể
thao trường học; về chủ trương đổi mới chương trình, sách giáo khoa và
phương pháp giáo dục theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính
tích cực, sáng tạo và chủ động của học sinh trong học tập, mặt khác, công tác
nghiên cứu khoa học về giáo dục thể chất và y tế trường học ngày càng được
chú trọng.
Công tác vận động tuyên truyền nâng cao nhận thức được tổ chức dưới
nhiều hình thức phong phú, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục thể chất, xây dựng nếp sống lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn, giáo dục nhân
cách lối sống thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên.
Hàng năm, các giải thể thao cho học sinh, sinh viên được tổ chức
thường xuyên nhằm đánh giá công tác giáo dục thể chất và luyện tập của các

nhà trường. Đặc biệt, theo chu kỳ 4 năm/1 lần, ngành Giáo dục và Đào tạo
phối hợp với các cơ quan ban, ngành liên quan tổ chức nhiều hoạt động lớn
như: Hội khỏe Phù đổng toàn quốc, Đại hội thể thao sinh viên toàn quốc, Hội
thi nghiệp vụ sư phạm văn nghệ thể thao các trường sư phạm toàn quốc, Hội
thi Văn hoá thể thao các trường phổ thông dân tộc nội trú toàn quốc.
Tuy nhiên, ở một số cơ sở công tác giáo dục thể chất trong trường học
chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí có lúc còn bị coi nhẹ, thiếu bình đẳng
so với các môn học khác. Hệ thống các cơ sở, sân bãi phục vụ giáo dục thể chất
và thể thao trường học còn trong tình trạng thiếu thốn, lạc hậu, không chỉ trong
các trường phổ thông mà cả trong khối các trường đại học, cao đẳng. [2]
Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về GDTC trường học luôn bị thay
đổi, phân tán dẫn tới hiệu quả hoạt động hạn chế; nội dung hoạt động thể thao
ngoại khoá trong nhà trường còn nghèo nàn, chưa thực sự tạo được sự hứng thú
cho học sinh. Chế độ, chính sách đối với đội ngũ giáo viên thể chất còn nhiều
bất cập. Mục tiêu, nhiệm vụ của công tác GDTC và thể thao trường học trong
thời gian tới, đó là:


22

Đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học, bảo đảm
yêu cầu phát triển toàn diện, góp phần nâng cao thể trạng, tầm vóc người Việt
Nam, làm nền tảng cho phát triển thể thao thành tích cao và xây dựng lối sống
lành mạnh trong tầng lớp thanh, thiếu niên.
Chú trọng công tác giáo dục thể chất và phong trào thể thao trong
trường học các cấp; đổi mới nội dung, giáo trình, chương trình giáo dục thể
chất phù hợp với thể chất học sinh, sinh viên Việt Nam và tăng cường tổ chức
các hoạt động ngoại khoá với các tiêu chí đánh giá cụ thể, linh hoạt.
Đổi mới nội dung, giáo trình, chương trình giáo dục thể chất phù hợp
với thể chất học sinh Việt Nam và tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại

khoá, linh hoạt; kết hợp đồng bộ y tế học đường với dinh dưỡng học đường;
Xây dựng hệ thống các trường, lớp năng khiếu thể thao, đẩy mạnh
công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân tài thể thao cho quốc gia; Phát triển TDTT
ngoại khóa, xây dựng các loại hình câu lạc bộ TDTT trường học; khuyến
khích học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa trong các CLB, các lớp năng
khiếu thể thao. Củng cố và phát triển hệ thống thi đấu TDTT thích hợp với
từng cấp học, từng vùng, địa phương. [2]
Tăng cường xây dựng cơ chế, chính sách, đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ
giáo viên, hướng dẫn viên TDTT; đẩy mạnh huy động các nguồn xã hội hóa
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ tập luyện trong các cơ
sở giáo dục, đào tạo. Hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị tập luyện thể dục
thể thao, hướng dẫn viên TDTT cho các cơ sở giáo dục vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi thuộc diện khó khăn theo quy định của Nhà nước.
Tăng cường công tác đào tạo giáo viên TDTT, công tác bồi dưỡng
nghiệp vụ hoạt động ngoại khóa cho hướng dẫn viên TDTT; tăng cường công
tác giáo dục, truyền thông trong giáo dục thể chất và hoạt động thể thao
trường học. [2]


23

1.3. Cơ sở khoa học của giáo dục thể chất.
1.3.1. Khái niệm giáo dục thể chất. [10], [13], [31]
- Thể chất: Thể chất là chỉ chất lượng thân thể con người. Đó là những
đặc trưng tương đối ổn định về hình thái và chức năng của cơ thể, được hình
thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và điều kiện sống (có giáo dục và
rèn luyện). Thể chất bao gồm thể hình, khả năng chức năng và khả năng thích
ứng.
- Về GDTC, có nhiều khái niệm ở những góc độ, cách nhìn khác nhau,
song nói chung đều nêu lên hai mặt của một quá trình GDTC: Giáo dục và

Giáo dưỡng.
+ Giáo dục: Là giáo dục các tố chất thể lực và phẩm chất ý chí con
người.
+ Giáo dưỡng: Là quá trình dạy học vận động hay giảng dạy động tác,
qua đó hình thành kỹ năng vận động, kỹ xảo vận động và những hiểu biết liên
quan.
Trạng thái thể chất: Chủ yếu nói về trạng thái cơ thể qua một số dấu
hiệu về thể trạng được xác định bằng các cách đo tương đối đơn giản như
chiều cao, cân nặng, vòng ngực, chân, tay… trong một thời điểm nào đó .
Phát triển thể chất: Là quá trình biến đổi và hình thành các tính chất tự
nhiên về hình thái và chức năng cơ thể trong đời sống tự nhiên và xã hội; là
một quá trình hình thành biến đổi tuần tự theo quy luật trong cuộc đời từng
người về hình thái, chức năng kể cả những tố chất thể lực và năng lực vận
động.
Phát triển thể chất phụ thuộc nhiều vào yếu tố tạo thành và sự biến đổi
của nó diễn ra theo quy luật di truyền và các quy luật phát triển sinh học tự
nhiên theo lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, phương pháp và biện pháp giáo
dục cũng như môi trường sống.


24

Hoàn thiện thể chất: Hoàn thiện thể chất là phát triển thể chất lên một
trình độ cao, nhằm đáp ứng một cách hợp lý các nhu cầu của hoạt động lao
động, xã hội, chiến đấu và kéo dài tuổi thọ sáng tạo của con người.
Để nhấn mạnh tới phương hướng, mục đích của giáo dục thể chất trong
trường đại học, chuẩn bị thể lực được Vũ Đức Thu khái niệm như sau:
“Chuẩn bị thể lực là một nội dung của quá trình giáo dục thể chất, đây là
hoạt động chung hóa nhằm chuẩn bị thể lực cho con người học tập, lao động
và bảo vệ Tổ quốc” [10]

Như vậy, có thể nhận thấy ở những góc độ khác nhau khái niệm thể lực
được các tác giả đề cập đến không hoàn toàn giống nhau. Từ các kết quả phân
tích trên đây có thể hiểu: Thể lực là năng lực tự nhiên của con người, được
phát triển, hoàn thiện dưới tác động của lượng vận động và bộc lộ ra bên
ngoài cơ thể cao hay thấp.
Nâng cao sức khỏe của con người là vấn đề trọng tâm của mọi mô hình
phát triển của các quốc gia trong bất kỳ chế độ chính trị xã hội vì khi con
người muốn trở thành động lực của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, trước
hết con người cần phải mạnh khỏe.
Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có trí thức, có đạo đức
và hoàn thiện thể chất. Trong các trường Đại học – Cao đẳng và Trung học
chuyên nghiệp, giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên được coi là bộ mặt
giáo dục, vừa là nhiệm vụ quan trọng, góp phần bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành
những con người phát triển toàn diện, có sức khỏe dồi dào, có thể chất cường
tráng, có dũng khí kiên cường để kế tục sự nghiệp của Đảng và nhân dân một
cách đắc lực. Cùng với các mặt hoạt động khác, quá trình giáo dục thể chất
giúp cho HS – SV hoàn thiện nhân cách và các phẩm chất khác, nhằm đáp
ứng đòi hỏi của cuộc sống và nghiệp vụ chung.


25

Tư tưởng về con người phải được phát triển hài hòa giữa thể chất và
tinh thần đã xuất hiện trong kho tàng văn hóa chung của xã hội loài người từ
nhiều thế kỷ trước đây. Từ nhà triết học cổ Hi Lạp A-ris-tốt, những nhà theo
chủ nghĩa nhân đạo thời phục hưng như Mông-ten, những người theo chủ
nghĩa Xã hội không tưởng như Xanh-Xi-Mông, Ô-oen, đến những nhà Bác
học và giáo dục nổi tiếng của Nga như M.V.Lômônôxốp, V.G. Stecnusepski
và nhiều người khác nữa, đã ra sức phát triển, bảo vệ tư tưởng của học thuyết

về phát triển hài hòa giữa năng lực thể chất và tinh thần con người. Các Mác
và Ăng – Ghen đã chứng minh sự phát triển của giáo dục phụ thuộc vào điều
kiện sống vật chất, khám phá ra bản chất xã hội, bản chất giai cấp, đồng thời
còn chỉ ra rằng trong Xã hội Chủ Nghĩa Cộng Sản tương lai con người phát
triển toàn diện là một yếu tố khách quan, bởi vì đó là nhu cầu của xã hội.
Nhấn mạnh vần đề này Mác viết: “...kết hợp với lao động sản xuất với
trí dục và thể dục...”. Đó không những là biện pháp để tăng thêm sức sản xuất
của xã hội, mà còn là biện pháp duy nhất để đào tạo con người toàn diện. [31]
Lênin đi sâu và phát triển sáng tạo học thuyết về giáo dục toàn diện.
Người nhấn mạnh : “Thanh niên đặc biệt cần sự yêu đời và sảng khoái, cần
có thể thao lành mạnh, thể dục, bơi lội, tham quan, các bài tập thể lực, những
hứng thú phong phú về tinh thần: học tập, phân tích, nghiên cứu và cố gắng
phối hợp tất cả các hoạt động ấy với nhau”.
Hồ Chí Minh được thế giới công nhận là anh hùng giải phóng dân tộc, là
một danh nhân văn hóa, nhà văn hóa lớn. Suốt đời Bác đã hi sinh vì độc lập
dân tộc, lãnh đạo tài tình cuộc cách mạng giải phóng dân tộc qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thành công. Bác là người trung thành
với học thuyết Mác-Lênin. Trong chỉ đạo công tác Cách mạng và lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc, Bác cũng rất quan tâm đến công tác TDTT, coi đó
là mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp giáo dục Cộng sản Chủ nghĩa cho
thanh niên.


×