Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nhân 5 trường hợp gãy xương bàn II bàn chân do mỏi của quân nhân tại trường Đại học Nguyễn Huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.97 KB, 7 trang )

TRAO ĐỔI HỌC TẬP

NHÂN 5 TRƯỜNG HỢP GÃY XƯƠNG BÀN II BÀN CHÂN DO
MỎI CỦA QUÂN NHÂN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN HUỆ
Trần Đức Tài1, Đỗ Hữu Lương1, Nguyễn Hà Ngọc1,
Lê Tuấn Dũng1, Nguyễn Thành Trung1
TÓM TẮT
Gãy do mỏi hay còn gọi gãy stress là thể gãy hay gặp ở vận động viên và quân
nhân, đây là một thương tổn khó chẩn đoán và chiếm tỉ lệ ít. Chúng tôi báo cáo 5 trường
hợp là quân nhân, đang theo học tại trường đại học Nguyễn Huệ, đến khám tại bệnh
viện Quân Y 175 với triệu chứng đau bàn chân sau khi hành quân hoặc tập luyện cường
độ cao. Trong đó 4 trường hợp được điều trị bảo tồn và 1 trường hợp phẫu thuật. Hiện
tại sau 12 tháng, 5 trường hợp trên hồi phục tốt, không đau, quay lại tham gia các hoạt
động thể thao và huấn luyện.
FIVE CASES REPORT: STRESS FRACTURE IN METACARPAL TWO
OF SOLIDER FOOT IN NGUYEN HUEUNIVERSITY
SUMMARY
Stress fracture is one kind of fractures which is common in athletes and soldiers,
but the diagnosis and treatment are controversial. We reported five soldiers who were
students in Nguyen Hue university. All soldiers got same symptom: foot pain after hard
training or marching. In five patients, four cases had non-operative treatment, one
underwent surgery. At that time, after 12 months, they recover with excellent results: no
pain, eager to come back to their sports and training program.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy xương do stress được bác sĩ
quân y người Đức Breithaupt mô tả lần

đầu tiên vào năm 1855. Gãy stress là gãy
xương do việc lặp đi lặp lại tải trọng tại
một vị trí nhiều lần. Triệu chứng lâm sàng


Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Trương Tâm Thư ()
Ngày nhận bài: 12/8/2018, ngày phản biện: 25/8/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/9/2018
1

89


TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 17 - 3/2019

nghèo nàn: Bệnh nhân không có tiền sử
chấn thương, đau khu trú tại vị trí gãy, có
khi mơ hồ, đau tăng lên sau khi hoạt động
thể chất kèm theo sưng nề tại vùng gãy,
ấn đau nhẹ. Về cận lâm sàng chẩn đoán
dựa vào XQ thường, CT, MRI, và xạ hình
xương, trong đó MRI và xạ hình xương có
độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao. [1], [11]
Nhưng trong một vài tuần đầu tiên XQ
thường rất khó phát hiện nên phải căn cứ
vào các biện pháp cận lâm sàng có giá trị
cao như MRI, xạ hình xương. [5] Do đó
việc chẩn đoán còn khó khăn, thậm chí bỏ
sót tổn thương vì nhiều trường hợp đến
sớm chỉ thấy được tổn thương trên MRI
hoặc xạ hình xương nhưng tại cơ sở quân
y đơn vị thì trang bị còn chưa đầy đủ.

Gãy stress gặp ở nhiều vị trí, ở chi

trên hay gặp ở: xương thuyền, xương bàn
tay, xương trụ, xương cánh tay, xương bả
vai, xương đòn, xương sườn mặc dù không
phổ biến nhưng đều được nhắc tới trong y
văn và có báo cáo trên thế giới. [2], [3]
Chi dưới hay gặp gãy do mỏi hơn
chi trên [12] và các vị trí hay gặp là cổ
xương đùi, thân xương đùi, xương chày,
xương mác, xương ghe, cổ xương sên,
xương bàn ngón trong đó xương chày hay
gặp với tỉ lệ nhiều nhất. [5], [10]
Năm bệnh nhân trong nghiên cứu
của chúng tôi đều bị gãy xương do mỏi tại
xương bàn II sau một đợt huấn luyện dài
ngày.

Hình 1: Hình ảnh gãy xương bàn 2 do stress trên XQ.

90


TRAO ĐỔI HỌC TẬP

CA LÂM SÀNG
Họ và tên

Tuổi

Lê Phước T.
Tô Duy T.

Trần Hải H.
Vũ Đức T.

21
20
19
22

Nguyễn Minh Q.

19

Giới Chân
Nam
Nam
Nam
Nam
Nam

T
T
T
P
P

Năm
học
Năm 3
Năm 2
Năm 1

Năm 4
Năm 1

Bệnh sử

Điều trị

Sau hành quân
Sau huấn luyện

Bảo tồn
Bảo tồn
Bảo tồn
Phẫu thuật
Bảo tồn

Sau huấn luyện
Sau hành quân
Sau huấn luyện

5 quân nhân tại trường đại học
Nguyễn Huệ, bị gãy thân xương bàn II ở
bàn chân, được điều trị tại bệnh viện Quân
Y 175.

Các bệnh nhân được khám và chụp
Xquang, phát hiện gãy xương bàn II bàn
chân. Tất cả bệnh nhân được hẹn tái khám
định kì để kiểm tra khả năng liền xương.


Các bệnh nhân đều bị gãy xương
sau đợt huấn luyện dã ngoại, hoạt động thể
lực cường độ cao và kéo dài.

Không có bệnh nhân nào có bệnh
lý mạn tính kèm theo như rối loạn chuyển
hóa, loãng xương…..

Triệu chứng ban đầu là đau mỏi
vùng bàn chân. Đau vùng ngón I, II bàn
chân, đau tăng khi đi lại vận động nhiều,
giảm khi nghỉ ngơi. Có thể sưng nề bầm
tím nhẹ vùng da bàn chân.

KẾT QUẢ
Có 4 BN gãy rạn di lệch ít, được
điều trị bảo tồn, và liền xương sau 4 – 6
tuần. Phục hồi chức năng bình thường. BN
có thể hoạt động thể lực sau 3 tháng.

91


TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 17 - 3/2019

Hình 2: Hình ảnh liền xương sau điều trị bảo tồn
Có 1 BN gãy di lệch nhiều, BN là sinh viên năm cuối, nhu cầu vận động cao và
liên tục, phải tham gia hành quân cuối khóa nên đã được kết xương bằng nẹp vít. Vết mổ
liền tốt, liền xương sau 8 tuần. Đã tham gia sinh hoạt và hoàn tất đợt huấn luyện diễn
tập cuối khóa.


Hình 3: XQ sau mổ của bệnh nhân Vũ Đức T.
BÀN LUẬN
Gãy xương bàn II do mỏi là loại
gãy xương liên quan đến hoạt động thể
lực liên tục. Đã có nhiều báo cáo về gãy
do mỏi trong hoạt động thể thao[1], [4],
92

[8], [9], [12] còn trong nghiên cứu của
chúng tôi là hoạt động quân sự. Đặc biệt
đối với quân nhân là học viên, hoạt động
hành quân là hoạt động huấn luyện thường
xuyên. Với nhóm nguy cơ cao là tân binh


TRAO ĐỔI HỌC TẬP

do việc thay đổi môi trường và huấn luyên
nghiêm khắc, đặc biệt học viên năm 3 và
4 phải hành quân với quãng đường dài
(>60km/đợt huấn luyện).
Việc phát hiện gãy xương gặp khó
khăn, vì triệu chứng không rõ ràng, BN chỉ
đau tức vùng bàn chân, chân sưng nề. Dễ
nhầm lẫn với sự mệt mỏi của hoạt động
thể lực kéo dài. Chỉ phát hiện khi đã nặng,
được đưa vào viện chụp Xquang mới phát
hiện. Nếu không phát hiện và điều trị kịp
thời có thể dẫn đến gãy hoàn toàn, không

liền xương, gãy tái phát và cần can thiệp
ngoại khoa. [5] Bên cạnh đó hình ảnh gãy
do mỏi dễ nhầm lẫn với bệnh lý u xương
bàn nếu không khai thác kĩ bệnh sử, và
chỉ dựa vào hình ảnh XQ đơn thuần, do
đó việc thăm khám kĩ và làm thêm các xét
nghiệm cao (MRI, xạ hình xương) để chẩn
đoán là cần thiết.
Điều trị chủ yếu là bảo tồn, bằng
bất động bó bột không cho tỳ nén trong
4-6 tuần. [10], [11] Những trường hợp
nặng và có nhu cầu vận động cao thì có
thể cân nhắc chỉ định mổ kết xương cho
bệnh nhân tập vận động sớm. Trong số 5
bệnh nhân chúng tôi có 1 trường hợp cơ
chế chấn thương không rõ ràng, đến với
triệu chứng đau nhẹ, bệnh nhân vẫn đi lại
được và trước đó có hành quân rèn luyện
chuẩn bị diễn tập cuối khóa. Trường hợp
này chúng tôi đã mổ kết xương nẹp vít cho
bệnh nhân để cho bệnh nhân sớm quay
lại học tập và hoàn thành huấn luyện cuối

khóa, BN có kết quả tốt, đã quay lại tháo
phương tiện kết xương.
Tiên lượng phục hồi tốt với các
trường hợp phát hiện sớm và điều trị bảo
tồn. Phục hồi chức năng phụ thuộc vào tổn
thương. Khuyến cáo tập phục hồi bằng đi
bộ có mang giày đế cứng. Đối với BN có

phẫu thuật thì thời gian lâu hơn. Tuy nhiên
việc phục hồi hoàn toàn về thể lực có thể
mất đến hàng năm.
Các biện pháp dự phòng là tập
luyện với cường độ tăng dần từ thấp lên
cao, có thời gian nghỉ ngơi hợp lý vì gãy
do mỏi hay gặp ở các quân nhân hoặc vận
động viên có hoạt động quãng đường trên
40km/tuần. [11]
Dinh dưỡng đóng vai trò quan
trọng trong phòng chống gãy stress. Trong
đó Vitamin D và Calci có vai trò vô cùng
quan trọng. Vitamin D có vai trò ngoài
chức năng làm dung môi cho Calci, còn
có vai trò mạnh mẽ đối với sức khỏe của
xương và ngăn ngừa các nguy cơ gãy
xương. Nghiên cứu của tác giả Lappe
dùng Canxi với liều 2000 mg/ngày và 800
UI/ngày của vitamin D có tác dụng rõ rệt
giảm nguy cơ gãy do mỏi. [6] Vì vậy phải
có chế độ ăn đầy đủ cụ thể bổ sung 2 loại
khoáng chất này cho từng giai đoạn huấn
luyện. [7]
Ngoài ra còn có thể bổ sung nhóm
thuốc biphosphonate (chống loãng xương)
cũng có giá trị trong việc phòng ngừa gãy
93


TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 17 - 3/2019


do mỏi. [11]
Do số liệu chúng tôi còn ít, thời
gian theo dõi chưa dài, nên kết quả thu
được còn nhiều hạn chế. Chúng tôi sẽ tiếp
tục theo dõi và nghiên cứu thêm.
Kết luận
Gãy xương bàn II do mỏi là thể
loại gãy gặp ở những trường hợp hoạt
động gây tải trọng lên một vị trí thường
xuyên. Cơ chế do lực vi thể lặp đi lặp lại.
Việc chẩn đoán sớm là khó khăn dễ nhầm
lẫn và bỏ sót. Điều trị chủ yếu là bảo tồn,
bó bột 4-6 tuần. Phát hiện sớm sẽ cho kết
quả điều trị rất tốt và tránh được các biến
chứng như không liền xương, gãy hoàn
toàn,…
Công tác điều chỉnh kế hoạch
luyện tập rất quan trọng trong việc phòng
ngừa gãy do mỏi do đó cần xây dựng
chương trình huấn luyện phù hợp cho các
tân binh nên từ thấp đến cao.
Kết hợp có thực đơn dinh dưỡng
hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn huấn
luyện, đặc biệt lưu ý đến Calci và Vitamin
D. Cần bổ sung 2 loại vitamin này trước,
trong và sau từng đợt huấn luyện có cường
độ cao như hành quân dài ngày bằng đường
ăn hoặc uống với liều lượng. Có thời gian
nghỉ ngơi đầy đủ để cơ thể phục hồi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Asano L. Y., Duarte A.,
Jr., Silva A. P., et al. (2014), “Stress
1.

94

fractures in the foot and ankle of
athletes”, Rev Assoc Med Bras (1992),
60(6), 512-7, .
gov/pubmed/25650848.
Balius R., Pedret C.,
Estruch A., et al. (2010), “Stress
fractures of the metacarpal bones
in adolescent tennis players: a case
series”, Am J Sports Med, 38(6), 121520,
/>pubmed/20212101.
2.

Bespalchuk A., Okada K.,
Nishida J., et al. (2004), “Stress fracture
of the second metacarpal bone”, Skeletal
Radiol, 33(9), 537-40, i.
nlm.nih.gov/pubmed/15224173.
3.

Corrarino J. E. (2012),
“Stress fractures in runners”, Nurse
Pract, 37(6), 18-28, i.

nlm.nih.gov/pubmed/22546779.
4.

Kaeding C. C., Yu J. R.,
Wright R., et al. (2005), “Management
and return to play of stress fractures”,
Clin J Sport Med, 15(6), 4427,
/>pubmed/16278549.
5.

Lappe J., Cullen D.,
Haynatzki G., et al. (2008), “Calcium
and vitamin d supplementation
decreases incidence of stress fractures
in female navy recruits”, J Bone Miner
Res, 23(5), 741-9, i.
nlm.nih.gov/pubmed/18433305.
6.


TRAO ĐỔI HỌC TẬP

Larson-Meyer D. E.,
Willis K. S. (2010), “Vitamin D and
athletes”, Curr Sports Med Rep, 9(4),
220-6, />pubmed/20622540.

Ketola L. (1978), “Stress fractures
caused by physical exercise”, Acta
Orthop Scand, 49(1), 19-27, http://www.

ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/654891.

Murakami Y. (1988),
“Stress fracture of the metacarpal in a
adolescent tennis player”, Am J Sports
Med, 16(4), 419-20, i.
nlm.nih.gov/pubmed/3189670.

N. (2011), “Stress fractures: diagnosis,
treatment, and prevention”, Am Fam
Physician, 83(1), 39-46, http://www.
ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/21888126.

Muramatsu K., Kuriyama
R. (2005), “Stress fracture at the base
of second metacarpal in a soft tennis
player”, Clin J Sport Med, 15(4),
279-80, />pubmed/16003045.

Cassar-Pullicino V. N., et al. (2015),
“Stress fracture of the pelvis and
lower limbs including atypical femoral
fractures-a review”, Insights Imaging,
6(1), 97-110, .
gov/pubmed/25448537.

7.

8.


9.

11. Patel D. S., Roth M., Kapil

12. Tins B. J., Garton M.,

10. Orava S., Puranen J., Ala-

95



×