Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Nghiên cứu tƣ tƣởng hồ chí minh về phƣơng pháp giáo dục cho giảng dạy và học tập học phần tƣ tƣởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.28 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI
------------o0o------------

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

Nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phƣơng pháp giáo dục
cho giảng dạy và học tập học phần tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

Chủ nhiệm đề tài: Ngô Thị Huyền Trang

Hà Nội, năm 2017


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI................................................................................................................................ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu....................................................................... 1
1.2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài............................................................................ 2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................... 2
1.4. Đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài....................................................................... 3
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC.........4
2.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài......................................................... 4
2.2. Các khái niệm cơ bản.............................................................................................. 6
2.3. Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục..................10
2.4. Hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục............................... 20
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIÁO
DỤC HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY....................................40
3.1. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 40
3.2. Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến vấn đề nghiên
cứu............................................................................................................................... 41


3.3. Vị trí, tầm quan trọng của học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên các
trường đại học, cao đẳng............................................................................................. 41
3.4. Thực trạng việc giảng dạy và học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh tại các
trường đại học hiện nay............................................................................................... 44
CHƯƠNG 4: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO
DỤC VÀO GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
57
4.1. Một số định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong dạy và học
học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay.................................................................. 57
4.2. Các giải pháp cụ thể vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục
vào dạy và học học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh........................................................ 62
4.3. Những hạn chế nghiên cứu và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...................87
KẾT LUẬN................................................................................................................. 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................... 90


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nghiên cứu di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, Người đặc biệt quan tâm
đến vấn đề giáo dục, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, không thể tách rời của cách mạng Việt
Nam. Với triết lý đã trở thành niềm tin sâu sắc “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”,
ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã lên án “chính sách ngu dân” và
“nền giáo dục nô lệ” của chính quyền thực dân áp dụng ở Việt Nam. Năm 1930, trong
lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Người đã nêu khẩu hiệu “thực
hành giáo dục toàn dân”, để ai cũng có được hưởng nền giáo dục dân chủ mới.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh ra nền giáo dục Việt Nam
mới. Người đã xác định đúng vai trò quan trọng của giáo dục trong việc đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự phát triển đất nước. Người đã xây dựng chương trình giáo dục

thực sự khoa học, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa “đức” và “tài”. Đáng chú ý là
Người đã đưa nền giáo dục Việt Nam mới đi theo phương pháp giáo dục mới: Lý luận
gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, nhà trường phối hợp với gia đình và xã hội,
nhằm mục đích đào tạo nên những công dân hữu ích cho đất nước. Hồ Chí minh không
chỉ là vị lãnh tụ của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, Người còn
là nhà chỉ đạo thực tiễn giáo dục nước nhà, là nhà sư phạm tài năng với mẫu mực trong
sáng của một nhân cách vô cùng cao đẹp và những cử chỉ giáo dục hết sức nhân đạo,
hết lòng vì người học. Di sản tư tưởng và thực tiễn chỉ đạo giáo dục của Người là kim
chỉ nam cho việc thực hiện chiến lược giáo dục, phát triển con người của Đảng và Nhà
nước ta.
Khẳng định giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta chủ trương xây
dựng một nền giáo dục thấm nhuần tính nhân dân, tính dân tộc và tính thời đại, giữ gìn
những giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại,
phát huy tiềm năng con người Việt Nam. Một trong những giá trị văn hóa của dân tộc
mà chúng ta cần phải kế thừa và phát huy về giáo dục, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục nói chung và phương pháp giáo dục nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ năm học 20032004, Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh vào chương
1


trình học bắt buộc của sinh viên các trường đại học và cao đẳng trong cả nước, cho đến
nay đã đạt được những kết quả nhất định trong việc nâng cao nhận thức đối với tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng như vận dụng những tư tưởng của Người trong học tập và
công tác. Tuy nhiên, chất lượng dạy và học còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, trong đó quan trọng nhất là hạn chế trong phương pháp giảng
dạy và học tập học phần này. Một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất
lượng giảng dạy và học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh là vận dụng chính những
phương pháp giáo dục mà Người đã đề ra vào giảng dạy và học tập học phần Tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tác giả chọn đề tài:
“Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục cho giảng dạy và học

tập học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
1.2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: Đề tài nghiên cứu sâu hơn và có hệ thống hơn phương pháp giáo

dục theo quan điểm Hồ Chí Minh, từ đố đề xuất những giải pháp đổi mới phương pháp
giảng dạy và học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Đề tài có những nhiệm vụ sau:
+ Xác định nguyên tắc xây dựng phương pháp giáo dục của Hồ Chí Minh; làm

rõ quan điểm Hồ Chí Minh về những phương pháp giáo dục cụ thể; khẳng định giá trị
của phương pháp giáo dục theo quan điểm Hồ Chí Minh đối với giáo dục Việt Nam
hiện nay.
+ Làm rõ sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy và học môn tư tưởng Hồ

+ Chỉ ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp để vận dụng quan điểm Hồ

Chí Minh về phương giáo dục cho giảng dạy và học tập học phần Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
+ Các quan điểm của Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục được thể hiện qua

các bài nói, bài viết của Người đã được đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập.
+ Quá trình đổi mới phương pháp dạy và học học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh

- Phạm vi nghiên cứu:

2



+ Trong đề tài này, tác giả không nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

nói chung mà chỉ tập trung nghiên cứu, trình bày một cách có hệ thống, đầy đủ và sâu
sắc hơn quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục.
+ Đề tài tiến hành khảo sát thực trạng phương pháp giảng dạy và học tập tư

tưởng Hồ Chí Minh tại các trường đại học khối ngành kinh tế trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong năm 2016, 2017.
1.4. Đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài
Đề tài có những đóng góp mới như sau:
- Nghiên cứu sâu sắc hơn và có hệ thống hơn quan điểm Hồ Chí Minh về

phương pháp giáo dục so với các công trình khoa học trước đó.
- Từ việc nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục, đề tài

đề xuất những giải pháp đổi mới phương pháp dạy và học học phần tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Với đóng góp mới đó, đề tài có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn:
- Về mặt lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ quan điểm Hồ Chí Minh về

phương pháp giáo dục đã và đang được giới nghiên cứu tìm hiểu, tranh luận.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần vào việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh

nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói riêng.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy các mộn khoa học khác
như: Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin, Đường lối cách mạng của
Đảng cộng sản Việt Nam.

3



CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC
2.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
- Nhằm mục đích nâng cao hiệu quả giáo dục đại học, đã có rất nhiều công trình

nghiên cứu về phương pháp giáo dục đại học:
+ Lê Đức Ngọc (2005): Giáo dục đại học: phương pháp dạy và học, Nxb. Đại

học Quốc gia, Hà Nội. Tác giả dựa trên kinh nghiệm về phương pháp dạy và học của
một số nước trên thế giới và của bản thân đã đưa ra các phương pháp dạy và học phù
hợp với chương trình giáo dục đại học ở nước ta hiện nay.
+ Nguyễn Quang Huỳnh (2006): Một số vấn đề lý luận giáo dục chuyên nghiệp

và đổi mới phương pháp dạy- học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. Tác giả trình bày
một số vấn đề lý luận trong dạy- học ở các bậc giáo dục chuyên nghiệp như cao đẳng,
đại học, từ đó đưa ra một số phương pháp chung giáo dục đối với bậc học này.
- Từ năm 1991, với việc Đảng ta khẳng định vị trí, vai trò nền tảng tư tưởng,

kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, giới nghiên cứu trong và ngoài nước đã đi
sâu nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
nói chung và quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục nói riêng đã được các
nhà khoa học nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau.
+ GS. Nguyễn Lân trong cuốn “Hồ Chí Minh- nhà giáo dục vĩ đại” (Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1990) tập hợp những chỉ thị, những lá thư, bài phát biểu của Chủ
tịch Hồ Chí Minh với các vấn đề như: đấu tranh chống chính sách ngu dân của thực
dân Pháp; tác dụng và nhiệm vụ của giáo dục; việc diệt giặc dốt; giáo dục thiếu nhi;
giáo dục thanh niên; giáo dục cán bộ…
+ Kỷ yếu Hội thảo khoa học- Thực tiễn nhân kỷ niệm 35 năm ngày Bác Hồ gửi

bức thư cuối cùng cho ngành giáo dục Việt Nam (15/10/1968- 25/10/2003) “Chủ tịch

Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục”- do Bảo tàng Hồ Chí Minh và đại học sư phạm
Hà Nội phối hợp tổ chức, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2005. Kỷ yếu đã tập hợp nhiều bài
viết, bài nghiên cứu về vấn đề giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh của các nhà khoa
học như: GS viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ Đình Hòe, GS. TS Phạm Minh Hạc,
GS Đinh Xuân Lâm, PGS Lê Mậu Hãn, GS Phan Ngọc Liên .v.v. Đặc biệt, bài viết của
ThS Ngyễn Thanh Minh đề cập đến tư tưởng và phương pháp giáo dục của thầy giáo
Nguyễn Tất Thành ở trường Dục Thanh, thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (tr 144154).
4


+ PGS. TS Nghiêm Đình Vỳ (2008), “Hồ Chí Minh về giáo dục- toàn thư”,
Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, đã tập hợp những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh liên quan đến mọi lĩnh vực của công tác giáo dục, bao gồm: Giáo dục trong
nhà trường cho thế hệ trẻ- từ xác định mục tiêu giáo dục, nội dung và phương pháp
giáo dục đến những quan điểm lớn về xây dựng một nền giáo dục cách mạng, tiên tiến;
giáo dục mọi công dân trên các lĩnh vực công tác, trong các tổ chức xã hội, đoàn thể
khác nhau.
+ Đặng Quốc Bảo (2009), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội. Cuốn sách đã đề cập tới những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo
dục, xây dựng nền giáo dục làm phát triển những năng lực sẵn có của học sinh Việt
Nam, kế hoạch giáo dục gắn liền với kế hoạch kinh tế, giáo dục lòng nhân ái, phẩm
cách con người Việt Nam. Tác giả cũng bàn về con đường, phương pháp và tấm gương
lớn về tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Hoàng Anh (chủ biên- 2013) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận

dụng vào đào tạo đại học Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia. Cuốn sách đã
phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, khẳng định tầm quan trọng của
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào việc nâng cao chất lượng đào tạo
đại học hiện nay và đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục vào nâng cao chất lượng giáo dục đại học hiện nay.

+ Bên cạnh những cuốn sách chuyên khảo đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo

dục cũng được các luận văn, luận án nghiên cứu. Chẳng hạn như Luận văn Thạc sỹ
triết học năm 2010: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào xây dựng xã
hội học tập ở nước ta trong giai đọan hiện nay”, tác giả Hoàng Thị Tuyết Thanh trình
bày một cách có hệ thống và khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục .v.v.
+ Các công trình công bố trên các tạp chí khoa học có: Vũ Ngọc Hải, “Hệ
thống giáo dục quốc dân hướng tới xây dựng xã hôi học tập suốt đời ở nước ta”, Tạp
chí Giáo dục, số 63- 2003; Võ Văn Lộc, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong học
tập”, Tạp chí Giáo dục, số 57- 2003.
Bàn về phương pháp giảng dạy học phần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại học Quốc
gia Tp. Hồ Chí Minh phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội thảo khoa học
Quốc gia “Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị trong
5


các trường đại học, cao đẳng”. Các bài viết trong Kỷ yếu hội thảo đã đề cập đến
những yếu tố tác động đến chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị ở
các trường đại học, cao đẳng trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế; Thực trạng
và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, chất lượng giảng dạy, học tập lý
luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng; Phương án biên soạn chương trình, giáo
trình dùng cho đào tạo chuyên ngành lý luận chính trị trong đó có học phần Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, những công trình trên, tác giả đã nêu lên một cách tổng quát về Tư
tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục và phương pháp giáo dục, đã cho tác giả đề tài có
cách nhìn toàn diện hơn về tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, từ đó bắt đầu đi vào
nghiên cứu sâu hơn quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục. Thông qua các
công trình nghiên cứu, khảo sát đã cung cấp cho tác giả một khối lượng tư liệu phong
phú và quý giá. Tuy nhiên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về một lĩnh vực cụ

thể của giáo dục là phương pháp giáo dục và đặc biệt là vận dụng tư tưởng đó vào quá
trình giảng dạy và học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh thì tác giả chưa thấy một
công trình nào thực hiện ở mức độ một đề tài khoa học.
Kế thừa những thành quả mà các nhà khoa học đã đạt được, chúng tôi đi vào
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục, làm rõ những luận cứ
khoa học để từ đó rút ra ý nghĩa đối với việc giảng dạy và học tập học phần tư tưởng
Hồ Chí Minh tại các trường đại học nước ta hiện nay.
2.2. Các khái niệm cơ bản
2.2.1. Giáo dục
Giáo dục là một trong những lĩnh vực không thể thiếu của đời sống xã hội. Sự
phát triển của nền giáo dục phản ánh trình độ văn minh của mỗi quốc gia, nó tỷ lệ
thuận với sự phát triển kinh tế- xã hội của từng nước. Nhiều quốc gia trên thế giới coi
phát triển giáo dục là chiến lược ưu tiên hàng đầu nhằm xây dựng đội ngũ lao động có
trình độ tri thức phục vụ cho sự phát triển đất nước. Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục
được hiểu là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh
thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những
1

phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra . Các nhà giáo dục học quan niệm: Giáo dục
là “quá trình tác động có mục đích, có hệ thống, liên tục của nhà sư phạm đến toàn bộ
1 Trung tâm Từ điển học (2008): Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 492
6


1

cuộc sống của học sinh để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách” . Từ đó có
thể thấy: Giáo dục là quá trình hai mặt: Mặt tác động của nhà sư phạm và mặt tiếp
nhận của người được giáo dục. Giáo dục được thực hiện trong nhà trường và cả ngoài
xã hội với những hình thức đa dạng và phương pháp phong phú. Giáo dục là quá trình

có mục đích và xuất phát từ những yêu cầu của xã hội, từ mong muốn của các nhà giáo
dục dẫn dắt thế hệ trẻ vươn tới chuẩn mực văn hóa đạo đức xã hội phù hợp với truyền
thống dân tộc và thời đại, tức là giáo dục có vai trò định hướng giá trị xã hội. Giáo dục
là quá trình lâu dài, cần được thực hiện suốt đời và ở mọi lúc, mọi nơi. Giáo dục luôn
gắn với những đối tượng cụ thể do mỗi đối tượng có đặc điểm, thói quen và trình độ
nhận thức khác nhau. giáo dục chịu ảnh hưởng của môi trường chính trị, xã hội, trình
độ kinh tế, văn hóa, tập quán, thói quen của dân tộc, địa phương, gia đình, nhà trường,
đoàn thể xã hội. Giáo dục gắn liền với tự giáo dục. Giáo dục chỉ có hiệu quả khi mỗi
người tự ý thức được mục đích cuộc sống và tích cực hoạt động vì cuộc sống của
mình. Giáo dục có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp, chủ yếu thông qua hoạt
động dạy học. Giáo dục gắn liền với cuộc sống lao động sáng tạo, thông qua hoạt
động, giao lưu xã hội của con người nên giáo dục cũng được thực hiện bằng con
đường lao động, thông qua lao động để hình thành kỹ năng hoạt động sáng tạo.
2.2.2. Phương pháp và phương pháp giáo dục
Trong đời sống, các hoạt động của con người đều mang tính mục đích. Để đạt
được mục đích, con người cần có sự định hướng và điều chỉnh hoạt động của mình.
Cách thức giúp con người định hướng và điều chỉnh hoạt động để đạt được một mục
đích nhất định, đó là phương pháp.
Thuật ngữ phương pháp trong tiếng Hy Lạp là “Méthodos” có nghĩa là con
đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích nhất định. Vì vậy, phương pháp
là hệ thống những hành động tự giác, tuần tự nhằm đạt được những kết quả phù hợp
với mục đích đã định.
Phương pháp là cách thức nghiên cứu, nhìn nhận các hiện tượng của tự nhiên và
đời sống xã hội, hay đó là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào
2

đó . Phương pháp do con người tìm kiếm, lựa chọn, sử dụng, do đó, nó mang tính chủ
quan. Song, sự lựa chọn, tìm kiếm và sử dụng phương pháp của con người phải xuất
phát từ cơ sở khách quan, tức là phương pháp không có mục đích tự thân mà bao giờ
1 Phạm Viết Vượng (2007): Giáo dục học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 123

2 Trung tâm Từ điển học (2008): Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 983
7


cũng nhằm tác động vào những đối tượng, khách thể nhất định nhằm thực hiện mục
tiêu đã đặt ra. Mặt khác, phương pháp còn mang tính khách quan, vì nó gắn với đối
tượng, khách thể mà con người muốn tác động bằng hoạt động của mình (cả hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn). Con người muốn tìm ra được phương pháp đúng
đắn, thích hợp để tác động vào đối tượng một cách có hiệu quả thì cần phải hiểu rõ đối
tượng, khách thể cần tác động với những quy luật khách quan quy định sự tồn tại và
vận động của nó. Điều đó có nghĩa là để có một phương pháp đúng đắn, khoa học thì
cần có sự phù hợp giữa hai mặt chủ quan và khách quan khi tìm kiếm, lựa chọn và sử
dụng phương pháp. Phương pháp không đúng đắn, không khoa học khi nó được xác
định không căn cứ trên những cơ sở thực tế khách quan, lựa chọn một cách duy ý chí
và sử dụng một cách tùy tiện.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Phương pháp là toàn bộ những cách thức với
tính chất là một hệ thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy luật tồn tại và vận động
của đối tượng, khách thể đã được nhận thức, để định hướng và điều chỉnh hoạt động
(hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn) của con người, tác động vào đối tượng,
khách thể để đạt được mục đích nhất định. Từ khái niệm trên ta thấy phương pháp có
cấu trúc phức tạp, bao gồm mục đích được đề ra, hệ thống những hành động (hoạt
động), những phương tiện cần thiết (phương tiện vật chất, phương tiện thực hành,
phương tiện trí tuệ), quá trình làm biến đổi đối tượng, kết quả sử dụng phương pháp
(mục đích đạt được). Khi sử dụng đúng phương pháp sẽ dẫn đến kết quả theo dự định.
Nếu mục đích không đạt được thì có nghĩa là phương pháp không phù hợp với mục
đích hoặc nó không được sử dụng đúng.
Mỗi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội đều cần sử dụng những phương
pháp phù hợp. Giáo dục cũng cần phải có phương pháp. Phương pháp giáo dục là
“cách thức tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó nhà
1


giáo dục giữ vai trò chủ đạo nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục đã đề ra” .
“Phương pháp giáo dục bao gồm một tổ hợp những cách thức phối hợp các tác động sư
phạm của nhà giáo dục và tác động tự giáo dục của chủ thể được giáo dục nhằm tạo sự
chuyển hóa tích cực những yếu tố của nội dung giáo dục thành những phẩm chất, năng
lực cần thiết và phát triển toàn diện nhân cách phù hợp những yêu cầu của mục tiêu

1 Trần Thị Tuyết Oanh (chủ biên) (2008): Giáo trình giáo dục học, tập 2, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 92
8


1

giáo dục và các nhiệm vụ giáo dục” . Theo quan điểm của các nhà giáo dục học, các
phương pháp giáo dục được phân thành 3 nhóm:
- Nhóm phương pháp thuyết phục: Gồm các phương pháp cụ thể: phương pháp

khuyên giải; phương pháp tranh luận, đối thoại; nêu gương.
- Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động: Bao gồm phương pháp luyện tập

trong học tập, lao động, vui chơi và giao tiếp xã hội nhằm hình thành thói quen hành vi
và hoạt động sáng tạo của người học; phương pháp đưa con người vào cuộc sống xã
hội để hình thành các kỹ năng cần thiết.
- Nhóm phương pháp kích thích hành vi: Bao gồm phương pháp khen thưởng,

phương pháp trách phạt, phương pháp thi đua.
Như vậy, phương pháp giáo dục là những cách thức để định hướng và điều
chỉnh hoạt động giáo dục (bao gồm cả hoạt động dạy và học) của con người nhằm đạt
được những mục đích đã đặt ra.
2.2.3. Phương pháp Hồ Chí Minh

Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn chú trọng
đến phương pháp. GS.TS Hoàng Chí Bảo đánh giá: “Phương pháp Hồ Chí Minh là
phương pháp ở tầm tư tưởng, ở trong triết lý nhân sinh và hành động của Người; ở sự
gắn liền tính khoa học, tính cách mạng và nhân văn trong con người và hoạt động của
2

Người” . “Phương pháp Hồ Chí Minh là hệ thống chỉnh thể, thống nhất hữu cơ giữa
3

phương pháp nhận thức, phương pháp tư duy, phương pháp hành động” . Thông
thường, khi bàn về phương pháp Hồ Chí Minh, các tác giả thường đề cập nhiều đến
phương pháp cách mạng. Song, trên thực tế, chúng ta thấy, Hồ Chí Minh quan tâm,
chú trọng đến việc giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội: Từ giải phóng dân tộc
đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục. Trong mỗi lĩnh vực đó, Người đều có
những ý kiến, những quan điểm nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định. Do đó, ta
có thể khẳng định sự tồn tại của quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục.
Quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục chính là những ý kiến, những lời
chỉ bảo, hướng dẫn của Người về những cách thức nhằm định hướng cho nền giáo dục
Việt Nam đạt tới mục tiêu đề ra.

1 Trần Anh Tuấn (chủ biên) (2009): Giáo dục học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 223
2 Hoàng Chí Bảo (2005): Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 29
3 Hoàng Chí Bảo (2005): Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 34
9


2.3. Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục
2.3.1. Phương pháp giáo dục trong truyền thống giáo dục Việt Nam
Gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành những nét nhân cách đầu
tiên. Gia đình là một chủ thể tiêu biểu trong nền giáo dục phong kiến. Tất cả những lễ

nghĩa, quy tắc, đức hạnh đều được các bậc cha mẹ chú ý dạy cho con cái ngay từ trong
gia đình. Giáo dục gia đình đã trở thành nền nếp, truyền thống được lưu giữ qua nhiều
thế hệ, góp phần hình thành truyền thống hiếu học của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
sinh ra trong một gia đình Nho học yêu nước, lại mang ảnh hưởng duy tân, coi trọng
đạo lý, học vấn và coi trọng việc giáo dục con cái. Tuổi nhỏ, Nguyễn Sinh Cung đã
được nuôi dưỡng trong môi trường giáo dục có nền nếp của gia đình. Trước khi được
học trong nhà trường, Người đã được cha dạy cho những nét chữ đầu tiên. Nguyễn
Sinh Sắc theo truyền thống gia đình, trong khi dạy chữ cho con đã chú trọng giáo dục
lòng yêu nước, yêu thương con người, yêu nhân dân lao động. Mẹ Người là bà Hoàng
Thị Loan là một người đôn hậu, đảm đang. Đối với các con, bà thường dạy những điều
“đói cho sạch, rách cho thơm”, “có công mài sắt, có ngày nên kim” và những bài ca
dao, điệu ví dặm mang nặng nghĩa tình nước non, thấm đượm đạo lý làm người. Tiếp
nhận sự giáo dục tốt đẹp từ gia đình, Hồ Chí Minh đã noi gương hiếu học của người
cha, thương yêu đồng bào, sớm hình thành chí hướng cách mạng, quyết tâm ra đi tìm
đường cứu nước. Gia đình không những đã hình thành những nét nhân cách tốt đẹp ở
Hồ Chí Minh mà còn để lại những dấu ấn trong tư tưởng giáo dục của Người sau này:
Coi trọng việc giáo dục đạo đức, tấm gương cần cù, hiếu học, giáo dục lòng yêu nước,
thương dân, v.v.
Cùng với những ảnh hưởng tốt đẹp được tiếp nhận từ gia đình, Hồ Chí Minh
còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của các sĩ phu, nhà nho yêu nước thuộc thế hệ cha ông tại
quê nhà. Quê hương Hồ Chí Minh- xứ Nghệ- là mảnh đất có truyền thống hiếu học từ
lâu. Truyền thống ấy đã đi vào sử sách, là nơi “núi cao sông rộng, phong tục thuần hậu,
cảnh tượng tươi sáng. Người thì thuần hậu mà chăm học. Được khí tốt của núi sông
1

nên sinh ra nhiều bậc danh hiền” . Ảnh hưởng khá sâu sắc đến Hồ Chí Minh thời còn
trẻ là thầy Vương Thúc Quý, con trai của tú tài Vương Thúc Mậu, người thủ lĩnh đội
Chung nghĩa binh dựng cờ Cần Vương chống giặc Pháp năm 1885, đã hy sinh ngay
trên mảnh đất Kim Liên để bảo toàn khí tiết. Học với thầy Quý, ngoài phần chịu
1 Phan Huy Chú (1961): Lịch triều hiến chương loại chí (dư địa chí, bản dịch), Nxb. Sử học, Hà Nội, tr. 65

10


ảnh hưởng về mặt tư tưởng yêu nước, tình cảm thương dân, Nguyễn Sinh Cung còn rất
tâm đắc với tính thức thời của thầy, không nệ cổ, không bắt học trò nhồi sọ cổ văn theo
lối “tầm chương trích cú”. Truyền thống hiếu học của quê hương và tấm gương những
người thầy dạy tại quê nhà đã ảnh hưởng đến Người cả về mặt tư tưởng, tình cảm và
góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục sau này: Giáo dục lòng yêu
nước, giáo dục truyền thống dân tộc, phương pháp giáo dục không lệ thuộc vào sách
vở.
Ở nước ta, sự học xuất hiện từ việc tiếp nhận chữ Hán và tư tưởng giáo dục của

Khổng giáo. Hán học vào Việt Nam đánh dấu sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam:
Giáo dục có trường lớp, chủ thể. Hán học du nhập vào Việt Nam được hiểu theo
hai phương diện: Học về nghĩa lý, tức là học chữ thánh hiền; học từ chương khoa cử,
tức là học để ra làm quan. Theo quan niệm của dân tộc Việt, người đi học có ba mục
đích: “Một là để hiểu biết cương thường đạo lí; hai là học để thi ra làm quan, mang tài
ra kinh bang tế thế, làm tròn sứ mạng của kẻ sĩ đối với vua, với nước và cũng là để
hưởng công danh lâu dài; ba là đối với dân quê, dù chân lấm tay bùn cũng cố gắng cho
con đi học năm ba năm lấy cái chữ để biết đọc gia phả của dòng họ, biết viết văn tự
1

mua bán nhà cửa, trâu bò để khỏi bị người khác lừa gạt” . Giáo dục Việt Nam chú
trọng đạo làm người, những phương cách cư xử trong đời sống, trong quan hệ xã hội,
gia đình, bè bạn, truyền thống “tôn sư trọng đạo”.
Truyền thống giáo dục của dân tộc còn được thể hiện qua tư tưởng của một số
nhà giáo dục tiêu biểu như: Nguyễn Trãi (1380 –1442): đề ra nội dung giáo dục: Đạo lí
làm người, phép ứng xử, trong đó ông rất chú trọng đến đạo đức nhân dân. Lê Quý
Đôn (1726 -1784): Đưa ra phương châm giáo dục là: Học nhiều nhưng phải nắm lấy
cái chính, học phải có óc suy luận, không câu nệ vào sách vở; học phải hành, phải giúp

2

con người có năng lực để làm những việc có ích cho xã hội; chú trọng việc tự học .
Nguyễn Trường Tộ (1828 –1871): Ông được coi là một trong những nhà cải cách lớn
của Việt Nam. Về giáo dục, ông phê phán lối “tầm chương trích cú”, thuộc làu tứ thư
ngũ kinh để thi ra làm quan. Về nội dung và mục đích giáo dục, ông nêu rõ: “Giáo dục
cho nhân dân biết làm ăn, biết yêu quý lao động, trừ bỏ óc danh lợi địa vị, biết yêu
nước, không nên lén lút làm tay sai cho giặc. Đối với những kẻ gian tà bất chính, nền
1 Nguyễn Quyết Thắng (2005): Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr. 5960

2Xem: Đào Thanh Hải, Minh Tiến (sưu tầm và tuyển chọn)(2005): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb.

Lao động, Hà Nội, tr.37

11


giáo dục mới phảo có tác dụng giúp họ quay về con đường chính nghĩa: việc sửa kẻ tà
đem họ về con đường chính, đó là một việc đại sự, còn cái học nào hơn, sao ta không
1

học” . Ông cũng đưa ra phương châm học gắn liền với hành, học thực dụng, học khoa
học, học để phục vụ thực tế. Về nội dung giáo dục, ông chủ trương giáo dục thiên văn,
toán học, kỹ xảo, chính trị, lịch sử, địa lý, địa chất, pháp lý, ngoại ngữ. Ông còn đề
nghị dùng chữ viết riêng của nước mình (quốc âm) trong việc dạy học, làm sách và các
2

giấy tờ .
Dưới thời Pháp thuộc, để thực hiện chính sách ngu dân hòng dễ bề cai trị, chính
quyền thực dân Pháp tiếp tục duy trì chế độ học tập và thi cử bằng chữ Hán (đến năm

1919 mới bãi bỏ). Về sau, do yêu cầu của việc cai trị, khai thác thuộc địa, cần phải có
một lực lượng có trình độ về khoa học kỹ thuật, ngôn ngữ, y học... nên người Pháp đã
dần đưa vào nước ta nền giáo dục hiện đại của phương Tây để thay thế Nho học.
Người Pháp đã dùng tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán. Nền giáo dục này
(được gọi là tân học) dựa trên triết lý của tư tưởng khai sáng trong nền văn minh công
nghiệp, với các tư tưởng về nhân quyền và dân quyền, về dân chủ với nhà nước pháp
quyền. Thực dân Pháp đã mở một số trường tiểu học Pháp- Việt cho một số tỉnh, sau
đó là trung học đệ nhất với một vài trường ở các thành phố lớn, tiếp đó, mở một vài
trường cao đẳng, đại học.
Khách quan đánh giá, mặc dù phát triển chậm chạp trong một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, khi mà sự cai trị của chính quyền thực dân luôn trái ngược với các
triết lý cao quý trên, nền giáo dục ở Việt Nam thời kỳ này vẫn có những điểm sáng.
Nhiều vị giáo sư chân chính người Pháp đã đem ánh sáng của triết học khai minh tiên
tiến vào nền giáo dục còn lạc hậu của nước ta, khiến cho các nhà nho cấp tiến dần dần
thức tỉnh, vượt qua được mặc cảm kỳ thị, bước đầu hướng theo nền giáo dục tiên tiến
của phương Tây. Điển hình là phong trào Duy Tân và sự ra đời của trường Đông Kinh
Nghĩa Thục. Phan Châu Trinh đã đưa ra chủ trương nâng cao dân trí, dân khí, dân
quyền; phê phán “hư học”, cổ động cho “thực học, thực nghiệp”, bỏ chữ Hán thay
bằng chữ Quốc ngữ, coi trọng việc học nghề chuyên môn (kể cả nghề buôn bán) hơn là
đọc kinh sách “thánh hiền” một cách máy móc. Chính sự chuyển biến về triết lý giáo
dục đó trong xã hội Việt Nam đương thời mà chúng ta đã đào tạo được một tầng lớp trí
1 Đặng Huy Vận, Chương Thâu (1961): Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX, Hà Nội,
tr. 105.
2 Đào Thanh Hải, Minh Tiến, sdd, tr. 40-41.
12


thức tinh hoa, phù hợp với thời đại văn minh công nghiệp. Trong đó, có cả những nhà
yêu nước, chiến đấu chống thực dân Pháp, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Những tư tưởng tiến bộ về giáo dục của Phan Chu Trinh đã được các sỹ phu yêu

nước hưởng ứng và phát triển mạnh mẽ, Liên Thành Thư và Trường Dục Thanh đã
được mở ra để phát triển kinh tế và “khai dân trí”. Chính Nguyễn Tất Thành, trong thời
gian làm trợ giảng tại Trường Dục Thanh đã đọc được những sách tân thư và đã nhận
thức được con đường đi của mình: Phải đi sang phương Tây xem họ làm thế nào rồi trở
về giúp đồng bào. Tuy nhiên, trường Đông Kinh Nghĩa Thục nhanh chóng bị thực dân
Pháp đóng cửa, phong trào Duy Tân bị đàn áp, các nhà lãnh đạo Phong trào bị bắt đày
ra Côn Đảo, vì thế triết lý giáo dục mới chưa có điều kiện phát triển. Mặc dù vậy,
những nhân tố tiến bộ của nó đã được kế thừa và phát triển sau này khi phong trào
truyền bá chữ Quốc ngữ phát triển mạnh. Đây cũng là yếu tố quan trọng trong việc
hình thành triết lý giáo dục Hồ Chí Minh sau này.
Truyền thống giáo dục của dân tộc đã góp phần quan trọng trong việc hình
thành tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Người đã kế thừa những tinh hoa trong truyền
thống giáo dục dân tộc cả về mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục để hình thành
hệ thống tư tưởng riêng của mình về giáo dục.
2.3.2. Tiếp thu những yếu tố hợp lý về phương pháp trong triết lý giáo dục
phương Đông
Trong các học thuyết tư tưởng phương Đông ảnh hưởng tới sự hình thành quan
điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục, đặc biệt phải kể đến tư tưởng giáo dục
của Nho giáo. Ngay từ nhỏ, Người đã được hấp thụ vốn tri thức Nho học phong phú từ
các bậc cha chú– những nhà Nho yêu nước thương dân. Người nói: “Tôi sinh ra trong
một gia đình nhà nho An Nam. Những gia đình như thế ở nước chúng tôi không phải
1

làm việc gì. Thanh niên trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo” . Cái học
của Nho giáo thiên về đào tạo những hiền nhân, hiền giả thông thuộc kinh sử, thuộc và
am hiểu các điển tích lịch sử. Khổng Tử- người sáng lập Nho giáo- là một nhà giáo
dục tiêu biểu. Ông cho rằng, môi trường xã hội có tác động to lớn đối với việc hình
thành và thay đổi tính người. Bản tính con người, thoạt tiên khi được sinh ra thì cũng
gần giống nhau, nhưng do tập nhiễm xã hội mà thành ra khác nhau: “Tính tương cận


1 Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 461
13


1

dã, tập tương viễn dã” (tính người không phải là bẩm sinh mà là khả biến, bản tính
con người được hình thành dưới ảnh hưởng của môi trường và giáo dục). Kế thừa tư
tưởng của Khổng Tử, Hồ Chí Minh quan niệm: “Thiện, ác nguyên lai vô định tính/ Đa
2

do giáo dục đích nguyên nhân” (Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục
mà nên)
Khổng Tử là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại nêu lên chủ trương giáo dục
không phân biệt chủng loại, giàu nghèo, sang hèn, thiện ác. Tư tưởng “hữu giáo vô
3

loại” của Khổng Tử thể hiện tính chất tiến bộ trong điều kiện xã hội phân chia đẳng
cấp rõ rệt khi đó. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ
trương phát động “Bình dân học vụ” để xóa mù chữ, mở mang tri thức cho tất cả mọi
người. Điểm đặc biệt là nếu như trong Nho giáo, phụ nữ là đối tượng không được
hưởng giáo dục thì Hồ Chí Minh quan niệm phụ nữ là phân nửa xã hội cho nên phụ nữ
cũng cần được học tập như nam giới để tỏ rõ vai trò trong xã hội. Khổng Tử chú trọng
giáo dục học trò hành vi đạo đức, ý thức trách nhiệm đối với quốc gia, đối với vua, với
cha mẹ, với anh em, bạn bè. Điều này cũng phù hợp với nội dung giáo dục trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Về nguyên tắc và phương pháp giáo dục, theo Khổng Tử, đối với việc học,
trước tiên phải lập chí; ông còn chỉ ra thái độ thực hiện chí hướng của người học phải
có tinh thần chủ động, tích cực, khiêm tốn, cầu thị tiến bộ, không lo người không biết
4


mình mà chỉ lo mình không có tài đức, học vấn để người ta biết . Chính vì lập chí là
rất quan trọng nên Khổng Tử đã lựa chọn con đường tự học và thực hành đạo lý, gợi
mở giáo dục học trò, cùng các môn đệ bàn về chí hướng để dẫn dắt họ tạo dựng nên
một lý tưởng cao đẹp, nỗ lực phấn đấu vì một xã hội bình trị. Khổng Tử giảng dạy và
giáo dục học trò không áp đặt bừa bãi, cứng nhắc, không rập khuôn, sáo rỗng. Ông
khuyến khích học trò phát huy sở trường, sở đoản, ý thích và khả năng của từng người
bằng cách luôn căn cứ vào tình hình thực tế, hoàn cảnh cụ thể và vấn đề người học
quan tâm mà đưa ra những nội dung giáo dục phù hợp. Đây là một nguyên tắc giáo dục
điển hình thể hiện một số khía cạnh cơ bản của nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức trong
giáo dục. Khổng Tử đã nêu lên một câu có tính chất khái quát về nguyên tắc giáo
1 Phan Văn Các (chú dịch)(2002): Luận ngữ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.38
2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, tập 3, tr. 413
3 Phan Văn Các: Sdd, tr. 38
4 Phan Văn Các: Sdd, tr. 32
14


dục này như sau: “Từ người có trí lực bậc trung trở lên thì có thể bảo cho những đạo lý
cao siêu. Từ người có trí lực bậc trung trở xuống thì không thể giảng những đạo lý cao
1

siêu” . Luận điểm này đã nêu lên tầm quan trọng trong việc nắm bắt trình độ của đối
tượng giáo dục để người dạy chủ động sáng tạo và có những phương pháp truyền thụ
thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong giáo dục. Khổng Tử đã tiến hành giáo dục
học trò theo phương pháp học gắn liền với tập, học đi đôi với hành và ông đã sử dụng
phương pháp đàm thoại, gợi mở, nêu gương trong dạy học. Ông đã nêu lên tư tưởng về
2

quan hệ giữa học và tập: “Học mà thường xuyên thực tập, chẳng cũng vui sao?” . Ông

nói: “Nếu đọc thuộc ba trăm thiên Kinh Thi, mà trao quyền chính cho, không làm được
3

thông suốt; đi sứ bốn phương không ứng đối nổi, thì dẫu học nhiều mà làm gì?” . Hồ
Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Học để hành: học với hành phải đi đôi. Học mà không
4

hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy” .
Khổng Tử coi trọng phương pháp nêu gương trong giáo dục. Khổng Tử thường
lấy những nhân cách lớn làm gương giáo dục học trò và từ trong cử chỉ, hành động,
việc làm của mình để ảnh hưởng tới học trò. Hồ Chí Minh sớm nhận ra rằng đối với
các dân tộc phương Đông thì “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
5

diễn văn tuyên truyền” , cho nên trong phương pháp giáo dục, Người lưu ý: “Dạy các
cháu thì nói với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho
6

nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng” . Về tinh thần hiếu học, Hồ Chí Minh
quan niệm rằng: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời... Không ai có thể tự cho
7

mình là đã biết đủ rồi, biết hết rồi” . Người nói: “Khẩu hiệu “Học không biết chán, dạy
không biết mỏi” treo trong phòng họp chính là của Khổng Tử. Tuy Khổng Tử là phong
kiến và trong học thuyết của Khổng Tử có những điểm không đúng, song những điều
8

hay trong đó thì chúng ta nên học” . Như vậy, có thể thấy tưởng giáo dục Nho giáo có
ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh cả về mục
đích, nội dung và phương pháp giáo dục.


1 Phan Văn Các: Sdd, tr.19
2 Phan Văn Các: Sdd, tr.1
3 Phan Văn Các: Sdd, tr. 5
4 Hồ Chí Minh: Sdd,t. 6, tr.361
5 Hồ Chí Minh: Sdd,t.1, tr. 284
6 Hồ Chí Minh: Sdd,t. 12, tr. 77- 78
7 Hồ Chí Minh: Sdd,t. 10, tr. 377
8 Hồ Chí Minh: Sdd,t. 6, tr. 356

15


2.3.3. Tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của phương pháp giáo dục phương Tây

Thời kỳ phong kiến ở phương Tây, Vương quyền (nhà vua) và thần quyền (giáo
hội) đã dựa vào nhau và câu kết chặt chẽ để thống trị nhân dân, đồng thời cũng là rào
cản lớn nhất cho giáo dục phát triển. Chủ nghĩa nhân văn trong thời kỳ văn hóa phục
hưng là cơ sở cho việc nở rộ những thành tựu khoa học và giáo dục. Giáo dục đã tách
khỏi nhà thờ khi nội dung học tập là các môn khoa học, thầy giáo là những nhà khoa
học và nhà sư phạm chứ không phải là các thầy tu như trước. Các nhà giáo dục đã
giảng dạy cho học trò và lý giải các vấn đề chuyên môn một cách khoa học, không bị
ràng buộc bởi giáo lý tôn giáo. Nội dung dạy học trong các trường ngoài các môn khoa
học xã hội nhân văn như văn học, hùng biện, triết học... còn có cả các môn khoa học tự
nhiên như toán, lý, kỹ thuật và đặc biệt rất chú trọng đến phương pháp quan sát, thí
nghiệm, thực hành trong dạy học. Đây là một chương trình giáo dục rất bao quát với
triết lý thực dụng: dạy học phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, như tuyên
bố của Thomas More: Thực thi một chế độ giáo dục mới, tiến bộ để thay thế cho trật tự
đương thời của chế độ phong kiến về giáo dục.
Trên cơ sở những tư tưởng nhân văn thời Phục hưng, chủ nghĩa khai sáng, giáo

dục cận đại châu Âu chủ trương giải phóng con người. Họ đề cao lý luận sư phạm, tôn
trọng nhân cách của học sinh, đặc biệt là nội dung giáo dục con người được chú trọng
nhiều mặt: từ đức dục, trí dục, thể dục là những phẩm chất và năng lực cần có của
người lao động trong một nền công nghiệp hiện đại.
Mục tiêu của giáo dục không phải là dạy cho trẻ em kiến thức, mà dạy cho trẻ
biết làm thế nào để có kiến thức. “Vấn đề là chỉ ra cho nó cần làm thế nào để luôn
1

khám phá ra sự thật hơn là bảo cho nó biết một sự thật” . Trong cuốn sách Émile hay
là bàn về Giáo dục, Rousseau muốn đứa trẻ phải tự học hỏi, phải tự sử dụng lý trí của
nó chứ không phải sử dụng lý trí của người khác; ông không dạy đứa trẻ khoa học mà
2

dạy nó “tiếp thu khoa học theo nhu cầu” . Ông mong muốn đứa trẻ có một đầu óc “phổ
quát”, cởi mở, thông minh, sẵn sàng cho tất cả.
Mục tiêu của giáo dục là dạy đứa trẻ làm người tự do chứ không đào tạo đứa trẻ
thành ông này bà khác trong xã hội, hay làm công dân của một chế độ nào đó nhất
định. Con người tự do là con người khi tư duy, khi hành động không bị ràng buộc bởi
1Jean- Jacques Rousseau (Lê Hồng Sâm, Trần Quốc Dương dịch) (2010): Émile hay là bàn về giáo dục, Nxb.
Tri thức, Hà Nội, tr. 273
2 Jean- Jacques Rousseau: Sdd, tr. 276
16


vật chất, thành kiến hay dư luận, không bị những đam mê nhục dục khống chế. Tức là
con người trưởng thành và độc lập trong tư duy trong phán đoán, biết sử dụng lý trí
của mình để suy xét, quyết định và hành động một cách hợp lẽ trong sự tôn trọng “tự
nhiên” và sự thật, tôn trọng người khác chứ không chịu lụy thuộc bất cứ thứ gì.
Con người tự do không “phục tùng luồn cúi của một nô lệ”, cũng không có
1


“giọng điệu hách dịch của một chủ nhân” kiểu thượng đội hạ đạp. Là con người luôn
sống và tỏ ra chính là mình, không hào nhoáng bên ngoài, không thêm không bớt.
Giáo dục cũng phải tạo ra con người có đạo đức, biết rung cảm, biết thương xót,
có lòng trắc ẩn. Giáo dục phải dạy cho học sinh làm những việc tốt, không chỉ là việc
bỏ một số tiền túi ra bố thí cho những người nghèo khó mà bằng sự chăm sóc đối với
họ, dạy cho học sinh lấy lợi ích của họ làm lợi ích của mình, phục vụ họ, bảo vệ họ,
dành cho họ cả con người và thì giờ.
Phương pháp là tự học: “chắc chắn là người ta rút ra được những khái niệm rõ
ràng hơn nhiều và vững vàng hơn nhiều từ những sự vật mà ta tự học hiểu lấy như vậy,
hơn là từ những sự vật được người khác giáo huấn; và, ngoài việc ta không hề làm cho
lý trí mình quen phục tùng một cách nô lệ trước uy quyền, ta còn khiến mình thành
giỏi giang hơn trong việc tìm ra các quan hệ, kết nối các ý tưởng, sáng chế các dụng
cụ, so với trường hợp ta tiếp nhận tất cả những điều này y như người ta đem lại cho
2

mình, và để đầu óc mình tiêu trầm trong trạng thái uể oải” .
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến
đỉnh cao, thì các nền giáo dục phương Tây lại một lần nữa đề ra những yêu cầu mới cho
giáo dục. Nền “giáo dục mới”, “nhà trường mới” là những thuật ngữ được nêu ra trong
thời gian này. Người ta đã giành cho giáo dục những gì tốt nhất với những nội dung hết
sức thực tế là chuẩn bị cho người lao động vốn tri thức và kỹ năng tối thiểu nhằm đem lại
năng suất lao động và lợi nhuận cao nhất cho nhà tư bản. Đã xuất hiện nhiều tư tưởng mới
về giáo dục như: “Nhà trường mới" của Reddie (Anh); “Nền giáo dục công dân” và “Nhà
trường lao động” của Kerschensteiner (Đức); “Giáo dục thực nghiệm” của Alfred Binet
(Pháp); “Giáo dục thực dụng” của John Dewey, James (Mỹ).

Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của giáo dục phương Tây để
đưa ra những quan điểm của mình về một nền giáo dục dân chủ mới ở Việt Nam, ở đó,
giáo dục quan tâm, phát huy năng lực của người học, hướng đến xây dựng nên những

1 Jean- Jacques Rousseau: Sdd, tr. 206
2 Jean- Jacques Rousseau: Sdd, tr. 230

17


con người có đủ cả đức, trí, thể, mĩ; có năng lực tổ chức và làm chủ cuộc sống của
chính bản thân.
2.3.4. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về phương pháp giáo dục
Các nhà kinh điển mácxít thống nhất với nhau khi đề ra những nguyên lý,
phương pháp, hình thức và nội dung giáo dục. Theo đó, các ông đều khẳng định dạy
học phải lấy người học làm trung tâm; dạy học phải phát huy tối đa tính độc lập, sáng
tạo và tích cực của người học; giáo dục phải kết hợp với tự giáo dục; đa dạng hoá các
hình thức trong giáo dục; học tập thường xuyên và học tập suốt đời. Các nhà mácxít
chỉ rõ nền giáo dục xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo học đi đôi với hành, lý luận gắn liền
với thực tiễn, giáo dục gắn liền với lao động, sản xuất, đảm bảo sự kết hợp giữa nhà
trường, gia đình và xã hội trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục. Trong đó,
phương pháp giáo dục phải tổng hợp các phương pháp dạy và học. Dạy phải đảm bảo
đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp; kết hợp giữa học tập với vui chơi.
Phương pháp dạy học trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa phải linh động cho từng đối
tượng của người học dựa theo lứa tuổi, cấp học, bậc học của từng học sinh. Phương
pháp dạy học này hoàn toàn khác với phương pháp “nhồi sọ” của nền giáo dục phong
kiến, nền giáo dục tư bản chủ nghĩa. Để đạt được những yêu cầu của nền giáo dục mới
này, hình thức giáo dục phải được thay đổi tương xứng. Việc dạy và học phải kết hợp
nhuần nhuyễn cả hình thức truyền thống lẫn hình thức hiện đại, theo đó, dạy và học
không chỉ diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi: Học ở trường, học ở sách vở, học tập lẫn nhau,
học tập ở nhân dân, trong lao động v.v. Trên tinh thần đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác đã đưa ra nội dung của nền giáo dục toàn diện là phải bao gồm: Đức dục, trí dục,
thể dục và mỹ dục. Các ông đặc biệt quan tâm đến giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đạo
đức cách mạng, giáo dục lý luận chính trị cho giai cấp công nhân và nhân dân lao

động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển các quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin về giáo dục vào điều kiện thực tiễn Việt Nam. Với tinh thần đó,
Người chủ trương xây dựng những con người phát triển toàn diện. Muốn đạt được mục
tiêu này, nội dung giáo dục phải đảm bảo tính dântộc, tính quần chúng và tính hiện đại.
Trong đó, Người đặc biệt chú trọng đến giáo dục- đào tạo trên cả hai mặt “đức” và
“tài”, lấy “đức” làm cơ sở vững chắc cho tài năng phát triển. Dưới ánh sáng tư tưởng
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trong đó có quan điểm Hồ Chí Minh
18


về phương pháp giáo dục được phát triển lên một tầm cao mới với bản chất khoa học,
cách mạng của nền giáo dục mới - giáo dục xã hội chủ nghĩa.
2.3.5. Thực tiễn chỉ đạo hoạt động giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Với tư chất thông minh, tinh thần độc lập, Hồ Chí Minh đã tìm tòi phương pháp
giáo dục mới và áp dụng trong thực tế. Khi dạy học tại trường Dục Thanh (9/1910 –
2/1911), Nguyễn Tất Thành đã có những phương pháp giáo dục rất mới, rất tiến bộ vào
thời đó. Thầy Thành được phân công dạy Hán văn và Quốc ngữ. Không chỉ dạy kiến
thức trên lớp, thầy Thành còn áp dụng nhiều phương pháp dạy lý thú và bổ ích. Vào
những ngày nghỉ, thầy Thành thường hướng dẫn học sinh tham quan thắng cảnh hoặc
di tích lịch sử trong vùng, nhân đó kể các câu chuyện hay đọc các bài ca yêu nước
trong phong trào Đông du hay trong các cuộc vận động Duy tân cho học sinh nghe,
qua đó, giáo dục tư tưởng, tình cảm đoàn kết, yêu nước cho học sinh. Thầy Thành luôn
động viên, nhắc nhở học sinh đọc sách để mở rộng kiến thức, đặc biệt là các loại sách
giáo dục đạo đức con người, lòng yêu nước, thương dân, trách nhiệm với dân với
nước. Tại các lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, Người đã vận dụng nhuần
nhuyễn phương pháp lý luận gắn liền với thực tiễn. Người thường lấy những ví dụ cụ
thể, thiết thực để chứng minh và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận phức tạp. Phối hợp
chặt chẽ với các buổi lên lớp còn có các buổi thảo luận tổ, diễn đàn của học viên có
thầy dự để qua đó nắm được tình hình học tập trên lớp của họcviên mà có kế hoạch

phụ đạo sát hợp. Không chỉ dừng lại ở dạy lý thuyết, việc dạy kỹ năng thực hành cũng
rất được chú trọng. Mỗi học viên phải đóng vai người tuyên truyền, những người khác
ngồi nghe và chất vấn, sau đó, cùng nhau góp ý cho bài diễn thuyếtvà các câu hỏi. Như
vậy, phương pháp giáo dục tích cực, tiến bộ của Người đã được vận dụng có hiệu quả
vào sự nghiệp đào tạo thế hệ cách mạng đầu tiên. Một điều hết sức quan trọng là ý chí
tự lực, quyết tâm vươn lên không ngừng tự học để trang bị và nâng cao kiến thức của
Hồ Chí Minh. Quá trình tự học của Hồ Chí Minh gắn liền với quá trình lao động của
Người. Thời gian Người sống và hoạt động ở nước ngoài là những ngày tháng học tập
và đấu tranh bền bỉ, kiên trì, đầy nguy hiểm và cũng là lao động để kiếm sống; kiếm
sống để tự học, tự học để làm cách mạng. Tự học không những là một phương pháp
giáo dục mà còn là triết lý sống của Hồ Chí Minh. Nhờ tự học, Người đã trau dồi được
vốn tri thức uyên bác. Có thể nói, suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh nêu cao tấm gương tự
học để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Sau này, Người kể lại:
19


“Lúc tuổi thanh niên, Bác hoạt động ở Pháp, cũng vừa lao động, vừa học tập, nhưng
lúc đó là lao động nô lệ cho đế quốc. Bác phải làm thế để tự kiếm sống, nhưng vẫn
giành thì giờ để học tập, ngày lao động, đêm học tập, chứ Bác không được đến trường
1

học đâu” . Từ năm 1945, với cương vị là người đứng đầu nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa,
xã hội của nhân dân. Người đặc biệt coi trọng việc phát triển nền giáo dục của chế độ
mới. Trong thực tiễn chỉ đạo xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt Nam, Người đã
có những chỉ dẫn sát sao, khoa học cả về nội dung, phương pháp giáo dục.
Tóm lại: Quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục là sự kế thừa và
chắt lọc những yếu tố hợp lý về mặt phương pháp trong truyền thống giáo dục dân tộc,
tinh hoa giáo dục nhân loại, nâng chúng lên tầm cao mới dưới ánh sáng chủ nghĩa
Mác– Lênin về giáo dục, trên cơ sở những phẩm chất chủ quan sáng ngời và thực tiễn

chỉ đạo hoạt động giáo dục sâu sát của Người.
2.4. Hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục
2.4.1. Khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Trong toàn bộ di sản tư tưởng giáo dục của Người vấn đề cơ bản nhất là vấn đề
con người, xây dựng và hoàn thiện con người thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo
dục. Người dạy:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
2

Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” .
Để thực hiện chiến lược “trồng người”, theo Hồ Chí Minh, giáo dục là biện
pháp quan trọng hàng đầu, là bước đầu tiên trong sự sống còn của một quốc gia. Giáo
dục có vai trò nâng cao dân trí cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vấn đề
phát triển giáo dục, nâng cao dân trí vừa là vấn đề thời sự, vừa là chiến lược lâu dài
của tiến trình xây dựng xã hội và con người Việt Nam mới. Giáo dục còn có vai trò
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Người chỉ rõ: “Nước nhà phải
3

kiến thiết, kiến thiết cần phải có nhân tài” và nhấn mạnh: “Bây giờ xây dựng kinh tế.
Không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng
4

không nói gì đến kinh tế, văn hoá. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu” .
1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 13, tr. 437
2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 582
3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 4, tr. 504
4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t.10, tr. 345

20



Về mục đích giáo dục, Trong Thư gửi Hội nghị giáo dục toàn quốc (1955), Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “chăm lo dạy dỗ con em nhân dân thành những người công dân tốt,
người cán bộ tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt của nước nhà”.
Hồ Chí Minh khẳng định rõ; mục đích của nền giáo dục dân chủ mới phát triển
hoàn toàn những năng lực vốn có của con người. Trong Thư gửi học sinh tháng
9/1945, Người chỉ rõ; “Ngày nay các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp
thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em
nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát
1

triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” . Những con người được phát triển
hoàn toàn những năng lực sẵn có của bản thân đó sẽ trở thành những con người toàn
diện, con người mới, khác hoàn toàn với nền giáo dục mà chủ nghĩa thực dân đã thực
thi ở Việt Nam trước đây.
Nền giáo dục dân chủ mới mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền giáo
dục nhằm đào tạo nên những con người “hoàn toàn” để “làm người”, để “phụng sự
đoàn thể, giai cấp và nhân dân”, phục vụ “Tổ quốc và nhân loại”. Đó là sự vận dụng,
phát triển sáng tạo những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin về mục đích
đào tạo con người phát triển toàn diện của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng những con người xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”, vừa “chuyên”,
Người nhắc nhở: “phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ
2

nghĩa, văn hoá, kĩ thuật, lao động và sản xuất” ; giáo dục phải toàn diện, chú ý cả đức
dục, trí dục và thể dục. Đó chính là nội dung giáo dục mà cho đến ngày nay Đảng ta
vẫn kế thừa để xây dựng nội dung giáo dục toàn diện trong chính sách giáo dục Việt
Nam. Theo Hồ Chí Minh, muốn làm tốt công tác giáo dục cần phải xây dựng thật tốt
đội ngũ những người thầy giáo. Nghề thầy giáo rất quan trọng, rất vẻ vang, nếu không
có thầy giáo thì không có giáo dục. Người luôn đánh giá cao vai trò của các thầy, cô

giáo: Người gọi đó là nghề rất vẻ vang: “Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những thế hệ
sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người
thầy giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo– là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi
không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo
tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang, nếu không có thầy giáo
dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy
1 Hồ Chí Minh (2011): Sđd, T. 4, tr. 34.
2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 12, 647

21


1

nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang” . Bên cạnh đó, Người yêu cầu các cấp
uỷ, chính quyền, các ngành,các giới, các đoàn thể quần chúng và toàn xã hội phải thật
sự quan tâm đến công tác giáo dục, giúp đỡ nhà trường về mọi mặt, phát huy cao chế
độ dân chủ trong nhà trường để tạo sự đoàn kết nhất trí giữa thầy và trò nhằm mục
đích làm cho công tác giáo dục đạt hiệu quả cao nhất. Để công tác giáo dục đạt được
hiệu quả cao, theo Hồ Chí Minh, cần phải có phương pháp giáo dục đúng đắn, khoa
học. Hồ Chí Minh không trực tiếp nói về phương pháp giáo dục, nhưng qua những bài
nói, bài viết, những huấn thị của Người đối với ngành giáo dục, chúng ta thấy toát lên
những quan điểm có tính hệ thống về phương pháp giáo dục. Vấn đề này tác giả xin
được trình bày cụ thể ở tiết sau. Như vậy, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là hệ
thống các quan điểm, tư tưởng của Người, từ việc xác định vị trí, vai trò của giáo dục,
mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục đến đội ngũ cán bộ làm
công tác giáo dục. Tư tưởng của Người vẫn giữ nguyên tính thời sự, là cơ sở định
hướng cho sự phát triển nền giáo dục Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
2.4.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục
2.4.2.1. Các phương pháp mang tính nguyên tắc trong giáo

dục - Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
được coi là nguyên tắc nền tảng cho việc xác định các phương pháp giáo dục cụ thể.
Về nội hàm khái niệm lý luận và thực tiễn, trong bài Diễn văn khai mạc lớp học
lý luận khóa I trường Nguyễn Ái Quốc, Người nêu: “Lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử. Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm
2

của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước” . “Thực tế là các vấn
đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao
gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng,
3

kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới” .
Bàn về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh dùng nhiều cách
4

5

diễn đạt khác nhau: “lý luận đi đôi với thực tiễn” , “lý luận kết hợp với thực hành” ,
1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 14, 402- 403
2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 96
3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 95
4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 611
5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 400

22



1

“lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau” . Song, điều cốt lõi nhất mà
Người muốn nhấn mạnh là: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành
2

thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” .
Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh
thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định
hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn,
phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo
điều. Theo Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận
“như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế.
3

Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” . “Làm mà không có lý luận thì
4

không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp” . Làm mò mẫm
chính là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới
bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận
nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không thể
hiểu được bản chất những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Do đó, không vận dụng được
lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng
không sát thực tế, không phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn
nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế. Người
khẳng định: “Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích
5


để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên” . “Lý luận
cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế
là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết
6

đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách” . Như vậy, lý luận chỉ có ý
nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn đắt, chỉ
đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện
thực tiễn. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mỗi người phải quán triệt tốt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trên mọi lĩnh vực hoạt động, công tác, trong đó có công
1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 307
2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 95
3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 273- 274
4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 357
5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 275
6 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 274

23


×