Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Không gian văn hóa làng vạn phúc luận văn ths khu vực học 60 31 60

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.29 KB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
-------------------------

BÙI THỊ HƯƠNG

KHÔNG GIAN VĂN HÓA
LÀNG VẠN PHÚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyªn ngµnh: ViÖt Nam häc

Hµ Néi - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
1


VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
-----------------------------------------------------

BÙI THỊ HƯƠNG

KHÔNG GIAN VĂN HÓA
LÀNG VẠN PHÚC

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 31 60

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung

Hà Nội-2012


2


MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHÔNG GIAN VĂN HÓA LÀNG VẠN
PHÚC
1.1 . Một số vấn đề về không gian văn hóa làng: Khái niệm, nội dung và tiêu chí
xác định 10
1.2. Yếu tố địa lý, sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn cấu thành không gian văn
hóa làng Vạn Phúc
1.3 Điều kiện lịch sử
1.4 Điều kiện xã hội
CHƯƠNG 2: KHÔNG GIAN VĂN HÓA LÀNG VẠN PHÚC
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CHÍNH
2.1 Khía cạnh vật thể của không gian văn hóa
2.1.1 Tổ chức không gian sống
2.2 Khía cạnh phi vật thể của không gian văn hóa
2.2.1 Phong tục tập quán
2.2.2. Lễ thức cá nhân
2.2.3 Lễ thức cộng đồng
CHƯƠNG 3: KHÔNG GIAN VĂN HÓA LÀNG VẠN PHÚC: BIẾN ĐỔI, PHÁT
TRIỂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG BẢO TỒN GIÁ TRỊ
3.1 Xu hướng biến đổi: Theo hai hướng tích cực và tiêu cực
3.1. 2. Biến đổi văn hóa
3.2 Phương hướng bảo tồn giá trị
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo
PHỤ LỤC



Ảnh chụp 1. Sơ đồ Vạn Phúc trước năm 1945

Ảnh 2. Sơ đồ Vạn Phúc hiện nay qua ảnh vệ tinh
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Vạn Phúc ở phía Tây Bắc thị xã Hà Đông, trước đây là tỉnh lỵ Hà Đông,
nay là nội thành Hà Nội. Vạn Phúc có nghề dệt lụa cổ truyền nổi tiếng và có
truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường. Cảnh vật, con người và truyền
thống văn hóa nơi đây đã thu hút và thôi thúc tôi tìm hiểu về làng.
Làng Vạn Phúc đã có nhiều người nghiên cứu từ góc độ kinh tế, văn
hóa, xã hội. Tuy nhiên chưa có nhiều những nghiên cứu về không gian văn hóa
làng.
Vạn Phúc là một làng đặc biệt trong nghĩa vị thế địa lý văn hóa – làng
ven đô, làng nằm ở vùng tiếp giáp giữa không gian văn hóa xứ Đoài và không
gian văn hóa Thăng Long – Hà Nội.
3


Về kinh tế, Vạn Phúc cũng là dạng làng đặc biệt – làng nghề thủ công
thăng trầm cùng đất nước.
Nền kinh tế công nghệp hóa – hiện đại hóa và quá trình đô thị hóa đã
khiến cho không gian văn hóa làng Vạn Phúc biến đổi nhanh chóng, nhiều yếu
tố vật thể và phi vật thể bị mai một đi trước khi chúng ta kịp ghi nhận và
nghiên cứu.
Trước sự chuyển mình của nền kinh tế xã hội, việc nghiên cứu, tìm hiểu
về không gian văn hóa làng Vạn Phúc là một yêu cầu cấp thiết vừa đáp ứng cả
về khoa học, cả về thực tế.
2. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn
-


Việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị văn hóa làng như một không

gian hoàn chỉnh đòi hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện. Nghiên cứu không
gian văn hóa làng sẽ góp phần tìm hiểu những đặc trưng văn hóa của làng, hiện
diện lên bức tranh văn hóa của làng là một nhu cầu thiết yếu.
-

Việc nghiên cứu làng ngày càng nhiều, cộng với nhu cầu thăm quan,

du lịch, mua sắm sản phẩm lụa ngày càng tăng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để
có những giải pháp phát triển bền vững cho địa phương; đây là một đòi hỏi cần
giải quyết.
-

Ngày nay trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị

hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Những yếu tố truyền thống đang bị tác động và mai
một từng ngày. Việc nghiên cứu về làng Vạn Phúc đòi hỏi phải khẩn trương.
Đây là tính khoa học và thực tiễn của đề tài.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
* Về không gian văn hóa nói chung:
Nghiên cứu vùng văn hóa là một hướng nghiên cứu vừa truyền thống,
vừa hiện đại.

4


GS. Ngô Đức Thịnh trong công trình nghiên cứu “Văn hóa vùng và phân
vùng văn hóa ở Việt Nam”, gồm những bài nghiên cứu về: những nét lớn của
khuynh hướng nghiên cứu không gian văn hóa; phác thảo về phân vùng văn

hóa ở Việt Nam và trình bày một số vùng văn hóa tiêu biểu ở nước ta; cuối
cùng là thông qua một số hiện tượng văn hóa riêng lẻ coi đó như là sự bổ sung,
cụ thể hóa tính vùng, tính địa phương trong văn hóa Việt Nam.
Giáo sư Trần Quốc Vượng có công trình nghiên cứu về “Việt Nam cái
nhìn địa văn hóa”, gồm những bài viết về văn hóa các vùng miền: Cao Bằng,
Vĩnh Phú, Sơn Tây, Xứ Bắc – Kinh Bắc, Hà Nội, Hải Hưng, Xứ Thanh…trải
dài đến đất Cà Mau, địa cuối của Tổ Quốc.
Văn hóa xứ Quảng Nam cũng được GS Trần Quốc Vượng cùng đồng
nghiệp nghiên cứu đặc trưng ở văn hóa cư trú, văn hóa thương cảng, văn hóa
tiêu dùng ở các di tích, văn hóa ẩm thực. Giá trị đặc trưng của vùng văn hóa
Quảng Nam được lắng đọng trong lễ hội, phong tục tập quán, tâm lý truyền
thống, được kết tinh từ lao động sáng tạo, lối suy nghĩ, lối sống, lối ứng xử của
các dân tộc sống trên mảnh đất này.
Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc trong công trình nghiên cứu “Một số vấn
đề làng xã Việt Nam” đã nghiên cứu các vấn đề về làng xã Việt Nam, đặc biệt
tác giả nghiên cứu làng Đan Loan từ khi hình thành, phát triển, biến đổi, xưa
và nay trải dài theo thời gian dưới các góc độ lịch sử, kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
“Những sinh hoạt văn hóa dân gian của một làng ven đô” (làng Đăm)
của Lê Hồng Lý – Phạm Thị Thủy Chung cho thấy một cái nhìn sâu sắc và
tổng thể về làng Đăm: hội làng, di tích lịch sử văn hóa, sinh hoạt văn hóa dân
gian, kinh tế và sự phát triển kinh tế, văn hóa trong thời kỳ đô thị hóa.
Nghiên cứu về “không gian văn hóa làng Keo – Thái Bình” tác giả Trần
Thị Lệ Thủy trong khóa luận tốt nghiệp khoa Sử của mình đã nghiên cứu lịch
5


sử hình thành và phát triển làng Keo và nghiên cứu không gian văn hóa làng
dưới các góc độ đời sống kinh tế xã hội và sinh hoạt văn hóa.
PGS Nguyễn Hải Kế với công trình “Một làng Việt cổ truyền ở Đồng

Bằng Bắc Bộ” đã tiếp cận nghiên cứu làng Dục Tú, Hà Nội bằng phương pháp
định lượng và phương pháp so sánh hệ thống trong một khung thời gian nhất
định đã phát hiện ra nhiều vấn đề về sở hữu ruộng đất, kết cấu kinh tế, tổ chức
dân cư, về văn hóa tín ngưỡng…
Qua nghiên cứu những tác phẩm trên, chúng tôi đã kế thừa phương pháp
nghiên cứu văn hóa của một làng, một vùng, một xứ thông qua các đặc trưng
văn hóa và nghiên cứu văn hóa dưới cái nhìn địa – lịch sử.
* Về không gian văn hóa làng Vạn Phúc:
Các công trình nghiên cứu về làng Vạn Phúc dưới các khía cạnh:
Nghiên cứu về lịch sử đấu tranh cách mạng của làng Vạn Phúc: Hai
cuốn “Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Vạn Phúc” (tập 1
và 2), ghi lại lịch sử đấu tranh cách mạng của địa phương trong giai đoạn 1939
– 1954. Báo Hà Sơn Bình ngày 20-6-1987 có bài viết “Vạn Phúc an toàn khu
của cơ quan báo Đảng” viết về Vạn Phúc – cơ sở cách mạng, an toàn khu của
báo Đảng trong thời kỳ kháng chiến. Bài viết của các tác giả Anh Đức, Minh
Tâm: “Vạn Phúc – ATK – làng du lịch” giới thiệu làng Vạn Phúc trong những
ngày kháng chiến chống Pháp và những tiềm năng của làng lụa để phát triển du
lịch. Bài viết của tác giả Nguyễn Kiên in trên báo Sài Gòn giải phóng ngày
2/9/1985: “Những ngày thu cách mạng ở làng dệt lụa Vạn Phúc” là những hồi
ức về không khí tổng khởi nghĩa mùa thu năm 1945 tại Vạn Phúc.
Ngoài ra địa phương còn sưu tầm và xuất bản cuốn “Vạn Phúc xưa và
nay” năm 2001, sách là những bài viết, trang thơ, hồi ký, dòng bút tích…viết
về tổng thể các vấn đề của làng Vạn Phúc: chính trị, văn hóa, lịch sử đấu

6


tranh cách mạng của những nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa, các
lãnh đạo cách mạng của Đảng và nhà nước ta.
Nghiên cứu Vạn Phúc dưới góc độ du lịch có những bài nghiên cứu: Tác

giả Quang Hào với bài viết: “Vạn Phúc làng nghề làng du lịch” in trong báo
Doanh nghiệp ngày 10-5-2000, giới thiệu về làng Vạn Phúc và các loại lụa Vạn
Phúc, bên cạnh đó tác giả đánh giá mấy năm gần đây, Vạn Phúc là địa chỉ du
lịch quen thuộc của nhiều du khách. Tác giả Nguyễn Kim Khánh có bài viết:
“Vạn Phúc làng nghề, làng văn hóa du lịch” in trong báo Lao động xã hội ngày
28-10-2000, tác giả giới thiệu về làng dệt lụa tơ tằm Vạn Phúc cùng các thế
mạnh để làng nghề phát triển du lịch.
Viết về làng Vạn Phúc có rất nhiều các tác giả, tác phầm nhưng chỉ đi
sâu tìm hiểu về nghề dệt. Thời cận đại, làng Vạn Phúc được nhắc đến trong các
tác phẩm của Hoàng Trọng Phu như: “Những công nghệ gia đình ở Hà Đông”,
viết về kỹ thuật dệt lụa ở Vạn Phúc và cuốn “Các nghề thủ công truyền thống ở
Hà Đông”, giới thiệu về các nghề thủ công ở Hà Đông – một nguồn lợi kinh tế
của Pháp, mặt khác rút ra những biện pháp cai trị có hiệu quả của Pháp với các
làng thủ công Việt Nam. Sau cách mạng tháng Tám có cuốn: “Hà Tây làng
nghề làng văn” do Sở văn hóa thông tin Hà Tây xuất bản năm 1992, giới thiệu
về các làng nghề truyền thống: pháo Bình Đà, thêu Quất Động, khảm trai
Chuyên Mỹ, dệt lụa Vạn Phúc… Năm 2003, có cuốn luận văn thạc sĩ Văn hóa
học của tác giả Lê Hoài Linh viết về “Nghề dệt ở làng Vạn Phúc thị xã Hà
Đông, tỉnh Hà Tây”. Năm 2004, tác giả Quách Vinh có cuốn “Hành trình của
lụa” giới thiệu sơ qua về lụa làng Vạn Phúc…Viết về nghề dệt thì rất nhiều,
nhưng để đi sâu nghiên cứu về làng Vạn Phúc dưới góc độ văn hóa thì rất ít
người quan tâm đến. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi kế thừa những
nghiên cứu về làng Vạn Phúc và nghề dệt làm cơ sở đi sâu nghiên cứu Không
gian văn hóa làng Vạn Phúc để thấy được những nét văn hóa đặc trưng truyền
thống của làng nghề dệt nổi tiếng.

7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu: tập hợp những yếu tố địa lý, sinh thái nhân

văn, lịch sử, con người – tạo thành không gian văn hóa và những yếu tố tác
động tới biến đổi không gian văn hóa.
-

Phạm vi nghiên cứu: Không gian văn hóa làng Vạn Phúc – quá trình

hình thành và biến đổi. Luận văn nghiên cứu trong phạm vi làng Vạn Phúc
trước khi sát nhập thêm các khối dân cư: khối 6, khối 7, khối 8, khối 9 và khối
10, thuộc phường Yết Kiêu trước đây.
5. Mục đích nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu a.
Mục đích nghiên cứu
-

Nghiên cứu không gian văn hóa làng để thấy được những nét đặc

trưng văn hóa trên không gian sinh tồn mà từ bao đời nay, các thế hệ người
Vạn Phúc luôn sống kế tiếp nhau.
-

Nghiên cứu những nét đặc trưng văn hóa truyền thống, yếu tố đổi mới,

biến đổi văn hóa của làng Vạn Phúc. Qua đó, có những giải pháp nhằm bảo
tồn, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp.
-

Xác định được tổ hợp các yếu tố vật thể và phi vật thể tạo thành không


gian văn hóa làng Vạn Phúc. Ngoài ra, luận văn còn cố gắng hoạch định phạm
vi vật thể và phi vật thể của không gian văn hóa làng Vạn Phúc.
b. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu bước đầu để thu thập tài liệu,
phương pháp sử dụng là phương pháp điền dã, phỏng vấn, điều tra xã hội học.
Để tiến hành nghiên cứu, phương pháp khu vực học được sử dụng – một
phương pháp nghiên cứu mới đang được sử dụng rộng rãi. Phương pháp khu
vực học được áp dụng đó là lấy không gian xã hội, văn hóa, bao gồm các lĩnh
vực hoạt động của con người và quan hệ tương tác giữa con người và điều kiện
tự nhiên làm đối tượng để nghiên cứu.
Luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành.

8


Ngoài ra, các phương pháp chuyên ngành của văn hóa, lịch sử, xã hội,
địa lý…được sử dụng ở mức độ thích hợp.
6. Đóng góp
Luận văn bước đầu có được một bức tranh tương đối toàn diện về không
gian văn hóa làng Vạn Phúc: điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, kinh tế,
văn hóa và lịch sử hình thành.
Xác định những yếu tố tác động đến sự hình thành, phát triển và biến
đổi không gian văn hóa làng Vạn Phúc, đồng thời đưa ra một số giải pháp để
đảm bảo tính bền vững của quá trình phát triển làng nghề Vạn Phúc.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu; phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn
có bố cục gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Quá trình hình thành không gian văn hóa làng Vạn Phúc
Chương 2: Không gian văn hóa làng Vạn Phúc – những đặc trưng chính

Chương 3: Không gian văn hóa làng Vạn Phúc: biến đổi, phát triển và
phương hướng bảo tồn giá trị.

9


CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHÔNG GIAN VĂN HÓA
LÀNG VẠN PHÚC
1.1 . Một số vấn đề về không gian văn hóa làng: Khái niệm, nội dung và
tiêu chí xác định
a) Khái niệm văn hóa: Khái niệm văn hóa vẫn là vấn đề mà các học
giả trên thế giới luôn bàn cãi. Tùy theo góc độ tiếp cận sẽ có những định nghĩa
khác nhau về văn hóa.
- Từ góc độ lịch sử: văn hóa được hiểu là sự trao truyền, kế thừa văn hóa
giữa các thế hệ.
- Từ góc độ giá trị chuẩn mực: văn hóa chính là lối sống, là giá trị của
một cộng đồng người.
- Từ góc độ nhân học: Văn hóa là sản phẩm hoạt động tinh thần của con
người, phân biệt người với động vật…
Văn hóa theo định nghĩa của GS. Viện Sĩ Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác của con người với
môi trường tự nhiên và xã hội”.
Xung quanh khái niệm văn hóa còn có khái niệm văn hóa vật thể và văn
hóa phi vật thể hay còn gọi là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Theo sách
Culturologia1 của G.V. Drach thì văn hóa tinh thần “thuộc về văn hóa tinh thần
có hệ tư tưởng, khoa học, đạo đức, giao tiếp tinh thần, sáng tạo nghệ thuật và
tôn giáo”[tr 124 - 125] và “văn hóa tinh thần là hoạt động hướng đến sự phát
triển tinh thần của con người và xã hội, sáng tạo tư tưởng, tri thức, các giá trị
tinh thần – các kiểu ý thức xã hội” [tr 180]. Văn hóa vật chất, ông cũng cho

rằng: “Công cụ lao động, phương tiện sản xuất, quần áo, đời sống, nhà ở,
phương tiện giao thông – tất cả những gì được gọi là phương
1

G.V. Drach, 2003, Văn hóa học, tr 120 - 124

10


tiện nhân tạo để cư trú của con người và là quá trình và kết quả của hoạt động
vật chất của con người”[tr 120].
Như vậy, văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa thể hiện đời sống
tinh thần của con người dưới hình thức vật chất, là kết quả của hoạt động sáng
tạo, biến những vật chất trong tự nhiên thành những đồ vật có giá trị sử dụng.
Văn hóa phi vật thể là một dạng tồn tại của văn hóa dưới dạng vật thể có hình
khối tồn tại trong không gian và thời gian, mà nó thường tiềm ẩn trong trí nhớ,
hành vi ứng xử của con người. Thông qua các hoạt động sống của con người
trong sản xuất, lao động và giao tiếp…mà nó thể hiện ra, khiến con người nhận
biết được sự tồn tại của nó.
b) Khái niệm không gian văn hóa:
Không gian văn hóa là một khái niệm bao gồm một phạm vi trong đó có
những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống với những mối
quan hệ về nguồn gốc lịch sử, những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế
hình thành nên những đặc trưng văn hóa chung thể hiện cả ở lĩnh vực văn hóa
đảm bảo đời sống, văn hóa tâm linh cũng như các loại hình thuộc văn hóa quy
phạm. Không gian văn hóa không đơn thuần là một lãnh thổ địa dư nhất định,
nó là một môi trường thống nhất, rộng lớn do con người sống trong không gian
ấy sáng tạo nên.
Về khái niệm không gian văn hóa, theo GS.TS Ngô Đức Thịnh thì có
thể hiểu không gian văn hóa theo hai ý nghĩa, cụ thể và trừu tượng.

Theo ý nghĩa cụ thể, “coi văn hóa như là một không gian địa lý xác
định, mà ở đó mỗi hiện tượng hay một tổ hợp hiện tượng văn hóa nảy sinh, tồn
tại, biến đổi và chúng liên kết với nhau như một hệ thống. Trong đời sống xã
hội của con người, ít khi một hiện tượng văn hóa nảy sinh, tồn tại và biến đổi
một cách độc lập, mà chúng thường liên kết với nhau thành những tổ hợp. Với
ý nghĩa ấy, văn hóa tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa vùng, văn hóa làng, văn
11


hóa nghề nghiệp, văn hóa đô thị, văn hóa nông thôn…đều là những dạng khác
nhau của tổ hợp văn hóa”.2
Theo ý nghĩa trừu tượng, có thể hiểu không gian văn hóa như một
“trường”, để chỉ một hiện tượng hay một tổ hợp các hiện tượng (một nền văn
hóa của tộc người, quốc gia hay khu vực) có khả năng tiếp nhận và lan tỏa (ảnh
hưởng), tạo cho nền văn hóa đó một không gian (trường) văn hóa rộng hẹp
khác nhau.
Để xác định không gian văn hóa của một làng, một địa phương, một
vùng cụ thể, ta phải xét các yếu tố đặc trưng liên quan. Đó là các yếu tố:
-

Tính trội văn hóa: Dân gian Việt Nam luôn có cảm nhận về tính trội

trong tính cách con người, trong các sản vật thiên nhiên, trong nếp sống văn
hóa giữa làng này với làng kia, vùng kia tạo nên những đặc trưng văn hóa riêng
của một địa phương đó.3
-

Về tên gọi “xứ”: là một vùng đất có những tương đồng nhất định

phương diện phong thổ, khí hậu, dân cư và sinh hoạt văn hóa 4. Mỗi xứ có

những nét văn hóa tiêu biểu.
-

Vùng văn hóa: là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt

hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ
nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong
vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với vùng văn hóa khác.5

2

Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà
xuất bản Trẻ, Tr 6
3
Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà
xuất bản Trẻ, Tr 46
4
Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà
xuất bản Trẻ, Tr 49
5 Ngô Đức Thịnh (2005), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà
xuất bản Trẻ, Tr 10.

12


c) Khái niệm văn hóa làng:
Về phương diện hành chính, xã là thiết chế có tính chất pháp lý. Còn
đối với người dân, người nông dân bình thường của hàng bao thế kỷ, thì người

ta chỉ biết có làng. Tập tục làng, truyền thống làng là chất keo đặc thù gắn kết
mọi thế hệ thành viên của làng.
Làng người Việt có nội hàm phong phú, đa dạng, toàn diện trên các lĩnh
vực: văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự, nghệ thuật kiến trúc, lịch sử,
khảo cổ, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, nghi thức, lễ hội…
Tính chất khoa học của khái niệm văn hóa làng thể hiện ở chổ, dù phân
loại theo kiểu nào người ta cũng khó có thể đồng nhất phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, tâm lý, lối sống, phương thức hoạt động và ứng xử .... của cộng đồng
làng với các cộng đồng văn hóa khác, kể cả những cộng đồng đặc biệt gần gũi
như xã, hoặc các cộng đồng theo đơn vị hành chính, xã hội hoặc tôn giáo.
Vậy văn hóa làng đã hiện ra như là những khuôn thước ứng xử nằm ở tầng
sâu trong đời sống cộng đồng; như là hệ thống các giá trị đặc thù qui định và
ngầm điều khiển các quan hệ cộng đồng; như là sự tổng hợp của những kinh
nghiệm sống hình thành qua lịch sử của các cộng đồng.
Làng, có thể nói là cộng đồng văn hóa rất riêng, nhưng cũng rất chung
trong khuôn khổ của lề thói theo phương thức sản xuất châu Á. Cái riêng của
từng làng thì thể hiện tương đối rõ ở từng tập tục riêng, lễ hội riêng, cách thức
ứng xử riêng. Nhưng từng cái riêng ấy lại đều có một "mẫu số chung" làm nên
khuôn thước văn hóa làng.
1.2. Yếu tố địa lý, sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn cấu thành
không gian văn hóa làng Vạn Phúc
Vạn Phúc có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao lưu thương mại, phát
triển kinh tế khi nằm tiếp giáp với quốc lộ 6 - cửa ngõ trực tiếp nối quận Hà
Đông với thủ đô Hà Nội và có tuyến đường tỉnh ĐT 430 (TL 72 cũ) chạy qua.

13


Với vị trí thuận lợi như vậy, Vạn Phúc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển ngành thủ công truyền thống.

Về đặc điểm địa hình, Vạn Phúc nằm ở trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ
nên địa hình ở đây mang đặc điểm của địa hình vùng đồng bằng: địa hình
tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam. Địa
hình của làng được chia thành hai vùng: Vùng cao gồm các khu dân cư và các
cánh đồng Mân, Sen, Bồ Các, Tháp I, Tháp II và Dộc Chuôm. Vùng thấp gồm
cánh đồng Bún và cánh đồng Bồ nằm ở phía Tây Nam của làng.
Về thủy văn, làng giáp sông Nhuệ và sông đào La Khê nên việc tưới
nước cho đồng ruộng do hai con sông này cung cấp. Sông ngòi là đường giao
thông quan trọng để Vạn Phúc luân chuyển hàng hóa, phát triển nghề dệt cổ
truyền. Làng nằm bên bờ sông Nhuệ do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chế độ
thủy văn của dòng sông này.
Bảng 1.1: Mực nước lớn nhất trên sông Nhuệ (qua Hà Đông)
Năm
Mực nước sông Nhuệ qua 5,40
Hà Đông lớn nhất (m)
Nguồn: Quy hoạch thủy lợi tỉnh Hà Tây, tháng 12-2006, Thư viện Hà Tây
Về khí hậu làng mang sắc thái của kiểu khí hậu Bắc Bộ với đặc điểm là
khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh,
mưa ít. Nhưng nhìn chung khí hậu ở đây ôn hòa hơn các địa phương khác, rất
thuận lợi với điều kiện sống của con người. Nét đặc trưng của kiểu khí hậu
nhiệt đới là có lượng bức xạ mặt trời dồi dào quanh năm và có nền nhiệt độ
cao, thuận lợi cho việc phát triển các ngành kinh tế.
Ta có bảng số liệu nhiệt độ, không khí và độ ẩm tương đối của một số
vùng:
14


Bảng 1.2: Nhiệt độ không khí và độ ẩm tương đối

TRẠM


CHỈ TIÊU

Nhiệt độ (0C)
Sơn Tây

Độ ẩm (%)
Nhiệt độ (0C)

Ba Vì

Độ ẩm (%)
Nhiệt độ (0C)

Vạn Phúc

Độ ẩm (%)
Nhiệt độ (0C)

Hà Nội

Độ ẩm (%)

Nguồn: Tổng cục khí tượng thủy văn


15


Nhìn vào bảng ta thấy lượng mưa phân bố không đồng đều theo thời

gian và không gian. Do ảnh hưởng của chế độ gió mùa nên khí hậu làng cũng
giống như khí hậu của các làng khác thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ là có sự kế
tiếp nhau của hai mùa có đặc tính khác nhau rõ rệt là mùa hè và mùa đông.
Về diện tích và dân số: Trước năm 1945: diện tích của làng Vạn Phúc là
124,0 ha, trong đó diện tích đất ở: 18,5 ha; đất trồng trọt: 10,55 ha. Dân số của
Vạn Phúc: có 678 hộ và 3.000 nhân khẩu. Năm 2011: diện tích của làng là
143,97 ha, trong đó đất ở là 50,05 ha; đất nông nghiệp là 20,05 ha. Dân số Vạn
Phúc là 13.595 nhân khẩu, 3.209 hộ được chia thành 12 tổ dân phố. Như vậy,
Vạn Phúc là một phường đất chật người đông, đây là kết quả tất yếu của quá
trình đô thị hóa.
Năm 2004 có sự điều chỉnh và mở rộng ranh giới của phường Vạn Phúc
(ngày 1/11/2003), do đó sự tăng trưởng đột biến: năm 2003 dân số Vạn Phúc là
5.680 người, đến năm 2004 do có sự điều chỉnh và mở rộng ranh giới, dân số
tăng thành 9.429 người. Sự mở rộng không gian sống dẫn đến mở rộng về
không gian văn hóa, không gian văn hóa Vạn Phúc không chỉ còn bó hẹp trong
làng Vạn Phúc xưa mà đã thêm những yếu tố văn hóa mới từ các khu tập thể
liên quan đến lối sống của cán bộ và công nhân viên chức của nhà máy Len
Nhuộm Hà Đông, nhà máy Cánh Kiến, nhà máy dệt Hà Đông, nhà máy thuốc
lá Thăng Long.

16


Bảng 1.3: Hiện trạng dân số Vạn Phúc
Stt

Chỉ tiêu
1
2


Dân số trung bình
Mức gia tăng

2.1
2.2
3
3.1
3.2
4
4.1
4.2
4.3
4.4
4.5
4.6

Tăng tự nhiên
Tăng cơ học
Tỷ lệ gia tăng
Tỷ lệ gia tăng tự nhiên
Tỷ lệ gia tăng cơ học
Cơ cấu dân số
Số người dưới 15 tuổi
Dân số trên tuổi lao động
Dân số trong độ tuổi lao động
Tổng số cặp kết hôn
Tổng số hộ
Quy mô hộ bình quân

5


Mật độ dân số

Nguồn: UBND phường Vạn Phúc
17


Như vậy, Vạn Phúc có nguồn nhân lực khá dồi dào là điều kiện thuận lợi
để phát triển kinh tế xã hội, song nó cũng là một sức ép đáng kể lên địa phương
trong việc bố trí việc làm đáp ứng nhu cầu việc làm trong tương lai.
Tính cách con người: Là một xã ở gần tỉnh lỵ lại giao lưu trao đổi hàng
hóa với nhiều nơi, nhân dân Vạn Phúc có điều kiện tiếp thu và xây dựng cho
mình những nét hay nét đẹp trong cốt cách con người. Mặt khác, địa phương
có lịch sử lập cư gồm những người khảng khái không chịu khuất phục cường
quyền của giai cấp thống trị đã từ nhiều phương tới. Họ kéo đến đây dựng
thôn, lập ấp quần tụ, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Do vậy người Vạn Phúc có
đặc tính nổi bật là “đoàn kết, cương trực và tự trọng”.6
1.3 Điều kiện lịch sử
Làng Vạn Phúc xưa có tên là Vạn Bảo, vốn là trang Vạn Bảo, xã Thượng
Thanh Oai, trấn Sơn Nam. Hiện trên tấm bia đá Văn chỉ của làng được xây
dựng từ thời Tây Sơn, cũng ghi thôn Vạn Bảo, xã Thượng Thanh Oai. Sang
thời Nguyễn, xã Thượng Thanh Oai có bốn thôn là: Cầu Đơ, Văn Quán, Kiều
Trì, Vạn Bảo, riêng làng Vạn Bảo nằm biệt lập ở bên kia sông Cầu Am nên khi
chia lại địa giới hành chính, làng được đổi sang thuộc tổng Thiên Mỗ, huyện
Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Đến đầu thế kỷ XX, do kiêng húy tên
vua Thành Thái là Bảo Lân nên mới đổi thành Vạn Phúc. Sau cách mạng tháng
Tám 1945, Vạn Phúc thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây. Năm 2008, do sự sát
nhập tỉnh Hà Tây vào thành phố Hà Nội, nên Vạn Phúc trở thành phường Vạn
Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Theo các cụ trong làng kể lại, thì từ xa xưa, người Mỗ Lao ở bên kia

sông Nhuệ đã chuyển sang bên này sông lập trại sinh sống. Khi mới định cư,
người Vạn Phúc chỉ sống bằng nghề trồng cây lương thực và chăn nuôi. Hoàn

6

Ban chấp hành Đảng bộ xã Vạn Phúc (1986), Lịch sử đấu tranh cách mạng của
Đảng bộ và nhân dân Vạn Phúc, tập 1, tr 18.

18


cảnh kinh tế tự cấp, tự túc đã đưa người dân làng Vạn Phúc đến với nghề trồng
dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Trong quá trình phát triển kinh tế, bên cạnh nghề
nông, nghề dệt dần dần trở thành nguồn sống chính của làng. Theo nghiên cứu
của GS Nguyễn Quang Ngọc, sang thế kỉ XVI và nhất là vào các thế kỷ XVII,
XVIII, XIX bên cạnh các làng thủ công nghiệp chuyên nghiệp đã có từ trước,
xuất hiện thêm ngày một nhiều các làng, phường thủ công nghiệp trong đó có
Vạn Phúc.7
Từ lúc mới hình thành, làng Vạn Phúc là một làng nông nghiệp kết hợp
với nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, văn hóa làng có đặc trưng là văn hóa
nông nghiệp. Thời kỳ phát đạt của nghề dệt là những năm 1930 – 1940, sau khi
sản phẩm của làng mang dự hội chợ Mác -xây được chính phủ Pháp tặng huy
chương bội tinh và một số người được tặng chức danh Bá hộ, nghề dệt thịnh
đạt, buôn bán phát triển, văn hóa làng là sự kết hợp văn hóa nông nghiệp với
văn hóa thương mại.
Tính chất của không gian văn hóa làng Vạn Phúc: Không gian văn hóa
làng mang đậm yếu tố của văn hóa làng nghề. Không gian văn hóa làng Vạn
Phúc mang tính chất mở, luôn tiếp thu, học hỏi những yếu tố, nền văn hóa tiên
tiến ở trong và ngoài nước một cách có sàng lọc. Không gian văn hóa làng Vạn
Phúc so với không gian văn hóa của những làng nghề lân cận như La Cả, La

Phù…mang những đặc trưng chung của làng nghề Bắc Bộ, đó là: 1. Các làng
nghề tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp; 2. Công nghệ kỹ
thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề truyền thống thường là thô sơ, sử
dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu, ngày nay do việc áp dụng công nghệ kỹ
thuật vào sản xuất, máy móc đã thay thế bàn tay thủ công của con người. 3.
Phương pháp dạy nghề chủ yếu được thực hiện theo phương thức truyền
7
Nguyễn Quang Ngọc: Một số vấn đề làng xã Việt Nam, NXB Đại học quốc gia
Hà Nội, 2009, tr 112.

19


nghề. 4. Hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu ở qui mô hộ gia đình, một số đã có
sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.
Quá trình biến đổi không gian văn hóa làng diễn ra trên các mặt: không
gian sống, kinh tế, văn hóa. Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi không gian văn
hóa làng Vạn Phúc là do quá trình đô thị hóa mở rộng thủ đô Hà Nội, quá trình
đô thị hóa của chính làng Vạn Phúc cũng như của quận Hà Đông; quá trình sát
nhập 5 khối dân cư thuộc phường Yết Kiêu cũ vào phường Vạn Phúc; sự giao
lưu kinh tế, văn hóa của Vạn Phúc với các tỉnh, thành phố khác, với khách du
lịch nước ngoài…song song với nó là sự phát triển của truyền hình, internet,
truyền thông mang tính đại chúng.
Hiện ở đình làng Vạn Phúc còn lưu giữ được 11 đạo sắc phong, gồm
có đời Lê 3 đạo, đời Tây Sơn 2 đạo, đời Nguyễn 6 đạo. Trong điều kiện ít ỏi về
sự phát triển của làng Vạn Phúc trong thời kỳ phong kiến thì 11 đạo sắc phong
này cũng đưa lại cho chúng ta một số hiểu biết về sự phát triển và điều kiện
lịch sử hình thành nên không gian văn hóa làng. Đạo sắc phong năm Bảo Hưng
thứ nhất (1801) đời Tây Sơn ghi duệ hiệu Đức thánh với hơn hai mươi mỹ tự,
mà theo quy định xưa thì mỗi đợt gia phong thường chỉ là hai đến ba mỹ tự.

Đến triều Nguyễn, mặc dù đã có tiền lệ ban cấp sắc phong từ đời Lê, Tây Sơn
nhưng các vua đầu triều Nguyễn như Gia Long (1802 - 1820), Minh Mạng
(1821 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847) đều không ban sắc phong cho thành
hoàng làng Vạn Phúc. Mãi đến năm Tự Đức thứ 6 (1853), đình làng Vạn Phúc
mới tiếp tục nhận được sắc phong. Theo quy chế ban cấp sắc phong thời xưa,
một địa phương không nhận được sắc phong có hai lí do. Một là vị thần mà
dân làng tôn thờ không phải là chính thần mà là tà thần, dâm thần. Hai là dân
làng không chịu tuân theo giáo hóa của triều đình. Trường hợp làng Vạn Phúc
thuộc vào lí do thứ hai. Vì thời Tây Sơn, dân làng Vạn Phúc ra

20


sức ủng hộ phong trào. Nghĩa cử ủng hộ phong trào Tây Sơn ấy của dân làng
gây mối phản cảm đối với triều đình Nguyễn nên không có sắc phong.
1.4 Điều kiện xã hội
a) Phân tầng xã hội
Nền sản xuất tiểu thủ công nghiệp và quỹ ruộng đất của làng Vạn Phúc
có ảnh hưởng nhất định đến phân tầng xã hội trong làng. Do ruộng đất ít, nghề
dệt lại phát triển mạnh, nên ở Vạn Phúc không có địa chủ. Đây là nét khác biệt
giữa làng Vạn Phúc với các làng dệt khác trong khu vực, ví dụ làng Kiến Hưng
thời kỳ này có 11 địa chủ. Trong làng có 16 hộ tiểu chủ là khá giả nhất làng,
mỗi nhà có từ 4 đến 5 mẫu ruộng, có 5 – 6 khung dệt và thuê mướn khoảng
chục thợ làm việc. Là một làng dệt thủ công truyền thống nên tầng lớp đông
đảo nhất trong làng là thợ thủ công. Đây là lực lượng sản xuất chính của làng,
chiếm tới 85% số dân, chi phối hầu hết các mối quan hệ trong làng.
Ngoài các tầng lớp trên, Vạn Phúc còn có một số ít quan lại nặng đầu óc
phong kiến, thủ cựu. Tuy nhiên số này đã về hưu, kinh tế không thuộc loại giàu
có, không duy trì được uy thế chính trị.
Như vậy, trong cơ cấu tầng lớp xã hội ở làng Vạn Phúc thì tầng lớp thợ

thủ công là đông đảo nhất. Quan niệm về thứ bậc trong xã hội ở làng Vạn Phúc
trước 1945 có sự khác biệt so với những làng nông nghiệp khác ở đồng bằng
Bắc Bộ. Các làng nông nghiệp thì vai trò của hai tầng lớp sĩ và nông được đề
cao. Nhưng ở làng Vạn Phúc, có uy tín trong làng lại là những gia đình Bá
Hộ8, gia đình buôn bán lớn (tầng lớp tiểu chủ). Thứ bậc “Sĩ, nông, công
thương” trong quan niệm truyền thống chi phối quan hệ làng xã hàng ngàn năm
bị phá vỡ. Tầng lớp công thương được đề cao. Những người giàu có không chỉ
tính bằng số lượng ruộng đất, thóc gạo hay trâu bò mà tính bằng

8

Những người dệt gấm ở làng được thưởng mề đay và được phong chức Bá hộ như:
cụ Bá Vẽ, ông Bá Hai, ông Bá Ba, ông Bá Nhỡ…

21


số lượng khung cửi và sản phẩm dệt. Vì thế, trong thời kỳ này việc bầu các
chức vụ trong bộ máy thống trị làng như lý trưởng, phó lý…gặp nhiều khó
khăn. Hiện tượng này là do dân làng Vạn Phúc quan niệm ra làm lý dịch vừa
mất thời gian, không làm được nghề lại mất lòng bà con làng xóm. Vấn đề
chính ở làng làm nghề thủ công như Vạn Phúc là vấn đề kỹ thuật nghề nghiệp,
bởi kỹ thuật nghề nghiệp đem lại những nguồn thu nhập cao cho người thợ.
Những thợ dệt giỏi được phong làm Bá Hộ và có địa vị cao trong làng.
Mặt khác, ở Vạn Phúc ruộng đất ít nên tầng lớp nông dân chiếm một tỷ
lệ nhỏ trong dân số, khoảng 7% số hộ. Do số hộ ít và nguồn thu nhập thấp nên
nông dân có xu hướng chuyển sang làm nghề dệt. Tiểu thương, thợ thủ công là
hai tầng lớp chính và có uy tín trong làng.
b) Tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội của một làng Việt cổ truyền được chia thành hai loại: xã

hội trong gia đình (đi kèm với nó là dòng họ) và xã hội ngoài gia đình bao gồm
nhiều thiết chế khác nhau: xóm ngõ, phe giáp, phường hội, bộ máy chính trị xã
hội làng xã. Ở Vạn Phúc có các dòng họ: họ Nguyễn lớn nhất chiếm 61,3%
dân; họ Đỗ chiếm 24,9% dân; họ Đặng chiếm 4% dân; họ Triệu chiếm 4% dân,
và một số họ khác như: họ Phạm, họ Vũ, họ Cao, họ Bùi…Ở phần này của
luận văn, chúng tôi chỉ tìm hiểu hai hình thức tổ chức: phe giáp và phường hội
bởi đây là hai hình thức tổ chức có tính riêng biệt truyền thống của làng Vạn
Phúc, tổ chức phường hội chính là tổ chức phường cửi – một tổ chức mang tính
chất nghề nghiệp.
* Tổ chức phường cửi
Tầng lớp thợ dệt chiếm phần lớn trong dân cư làng Vạn Phúc và chi phối
hầu hết các mối quan hệ trong làng. Những gia đình làm nghề dệt tập hợp nhau
lại thành một tổ chức gọi là Phường cửi.

22


Tổ chức phường cửi ra đời là do sự cần thiết phải liên hiệp và giúp đỡ
lẫn nhau giữa những người sản xuất cá thể. Tổ chức phường dệt còn bảo vệ
nghề nghiệp chuyên môn của làng, tạo những điều kiện thuận lợi cho người lao
động trong tổ chức phường dệt, bằng cách cạnh tranh với bên ngoài, giúp đỡ
bạn nghề khi gặp khó khăn.
Phường dệt của làng Vạn Phúc có những luật lệ như sau:
-

Thành viên của phường cửi phải là những người dệt giỏi (thường là

ông chủ nhà hoặc con trai cả có tuổi từ 35 – 40 tuổi trở lên).
-


Tôn trọng và kính nể những người tài giỏi, nhất là những người được

phong chức Bá hộ.
-

Đoàn kết tương trợ lẫn nhau những lúc gặp khó khăn.

- Tuyệt đối giữ bí mật nghề nghiệp không tiết lộ cho các làng khác.
Vấn đề giữ bí mật còn được quy định cụ thể như sau:
-

Con gái chỉ được truyền bí quyết nghề nghiệp khi lấy chồng làng.

Nếu con gái lấy chồng, nhất quyết không được truyền bí quyết nghề.

Nếu họ muốn làm nghề để sinh sống phải quay về làng làm cùng với gia đình.
-

Nếu một trong những thành viên của phường cửi để lộ bí mật nghề

nghiệp ra bên ngoài thì sẽ bị đuổi ra khỏi làng và không bao giờ được sản xuất
những mặt hàng do phường cửi quy định.
-

Không được dựng máy dệt để bán cho người làng khác.

Bên cạnh đó, phường cửi còn quy định những gia đình nào làm nghề dệt
mà chưa phải là hội viên của phường thì không được đem hàng đi bán mà phải
nhờ hội viên của phường cửi đi bán hộ. Đây là một hình thức kiểm tra ban đầu;
hàng làm ra không đẹp thì không ai bán hộ cho, việc làm này nhằm giữ uy tín

cho làng nghề. Như vậy, ngoài chức năng quản lý, phường dệt còn có chức
năng bảo vệ, giữ gìn uy tín, chất lượng sản phẩm cho làng nghề.

23


×