Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Mối quan hệ giữa đảng viên với nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.64 KB, 111 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BỘ
MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ **********

NGUYỄN DUY QUỲNH

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN TRONG
ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.20

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Vĩnh

Hà Nội – 2009


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU:…………………............................................................................................................................. 2
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN
DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 10
1.1. Quan niệm chung về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa………………. .. 10
2.1. Quan niệm chung về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân…………………. . 17

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

34



2.1. Những điểm mạnh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ở Việt Nam
hiện nay ………………………………………………………………………….. .. 34

2.2. Những hạn chế về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ở Việt Nam hiện
nay ………………………………………………………………………………. .. 42

2.3. Những vấn đề đặt ra về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ở Việt Nam
hiện nay ………………………………………………………………………….. .. 51

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG
CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

61

3.1. Phương hướng tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay……. . 61

3.2. Một số giải pháp chủ yếu tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay ………………………………………………………………………….. .. 71

KẾT LUẬN............................................................................................104
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................106

1



MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gần 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân
dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước,
xoá bỏ hoàn toàn chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), tiến hành công
cuộc đổi mới, xây dựng đất nước theo còn đường xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phấn đấu hy sinh
vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, ngoài ra không có lợi ích nào khác. Mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ đặc biệt, không thể tách rời.
Đây là một trong những quy luật tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề phải xây dựng một Đảng sao cho
gắn bó máu thịt với nhân dân. Nếu khi nào đảng viên cộng sản, nhất là những
người giữ trọng trách trong các cơ quan Đảng và chính quyền xa rời quần chúng,
không sống với cuộc sống của nhân dân thì khi ấy Đảng sẽ đứng trước một nguy
cơ là mất ngay những điều kiện sống của chính bản thân mình. Điều ấy đã được
minh chứng qua sự tan rã của các Đảng Cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu kéo
theo sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Bởi thế, muốn gắn bó máu thịt với
nhân dân, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên nỗ lực, tự đổi mới và chỉnh đốn, tự
phê bình và phê bình, nghĩa là bản thân Đảng phải có đủ lương tri và trí tuệ
những điều kiện để nhân dân tin yêu và kính trọng. Theo Hồ Chí Minh, mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân được hình thành và phát triển cùng với quá
trình cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, Đảng chỉ là
người hướng dẫn, tổ chức và lãnh đạo mọi hoạt động của phong trào cách mạng.
Người còn nhắc nhở chúng ta phải hiểu sâu sắc ý nghĩa, vai trò của nhân dân
trong mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

2



Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc, do nhu cầu phải lãnh đạo
kịp thời cho kháng chiến, các chủ trương chính sách của Đảng được nhân dân
thực hiện trực tiếp. Sau khi hòa bình lập lại trên cả nước, những chủ trương của
Đảng về cơ bản đã dần được thể chế hóa thành pháp luật, người dân thực hiện
các chủ trương của Đảng thông qua các chính sách pháp luật của Nhà nước. Đến
thời kỳ chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, việc thể chế hóa chủ trương của
Đảng bằng pháp luật được thể hiện ngày càng đậm nét hơn, đặc biệt kể từ đầu
những năm 90 của thế kỷ XX khi Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thì vai trò của pháp luật ngày càng được coi trọng.
Trong hơn 23 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Ðảng, toàn dân,
công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Ðến nay, mặc dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta đã có sự thay đổi
cơ bản và toàn diện. Kinh tế có sự tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang được đẩy mạnh. Ðời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ
vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những thành quả to lớn đó là Đảng tin
dân, dân tin Đảng. Nhiều cán bộ, đảng viên, nhiều tổ chức đảng đã phát huy và
thực hiện tốt đường lối quần chúng của Đảng nên ở những nơi đó mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân ngày càng gắn bó chặt chẽ.
Trong những năm qua, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định. Luật pháp đang dần
dần giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Nhân dân thực hiện chủ trương
của Đảng thông qua việc thực thi pháp luật. Tuy nhiên, việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay vẫn đang bộc lộ những khó
khăn nhất định. Tình trạng mất dân chủ còn tồn tại, việc thực thi luật pháp ở nơi
này, nơi khác vẫn chưa nghiêm. Một số cán bộ đã lợi dụng chức quyền, nhân

3


danh Đảng, luật pháp để làm điều sai trái đã gây bất bình trong nhân dân. Kỷ
cương phép nước đôi lúc bị coi nhẹ. Chức năng của Đảng và Nhà nước đôi lúc
chưa được xác định rõ, nhiệm vụ còn chồng chéo. Tình trạng dân khiếu kiện
“biểu tình”, chống lại chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi trong thời
gian qua là tiếng chuông cảnh tỉnh về nguy cơ Đảng và chính quyền nơi đó đã
mất chỗ dựa ở dân, cũng như dân ở nơi đó không còn tin vào những con người
nhân danh đại diện cho Đảng. Thực tế đó nếu không được khắc phục kịp thời thì
hậu quả khôn lường. Bởi vì như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo rằng,
một Đảng, một dân tộc và mỗi cá nhân ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn, nhưng không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Thực trạng đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải tiếp tục tăng cường và củng cố
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng nhanh
chóng và sâu rộng thì mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân càng được coi trọng,
càng cần phải được củng cố và tăng cường hơn bao giờ hết. Đảng phải ra sức
chăm lo đến lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới, với tình
hình thế giới đang diễn ra phức tạp trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến,
nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình
thành đường lối đổi mới của Ðảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn
phong phú của nhân dân, thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố
mới, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi lên.
Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, góp phần
tìm ra những giải pháp để tăng cường mối quan hệ, gắn bó mật thiết giữa Đảng
với nhân dân trong điều kiện nước ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước

pháp quyền có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, vừa cấp thiết trước mắt,
vừa cơ bản lâu dài. Với tất cả những lý do đó, tôi đã lựa chọn đề tài: “Mối quan
4


hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Chính trị
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân cũng như nghiên cứu về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Đó là những kết quả bước đầu đáng trân trọng của các nhà
khoa học.
Mối quan hệ Đảng với nhân dân đã được đề cập trong các công trình
nghiên cứu của nhiều học giả, trong đó có một số cuốn sách như: Phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch
vững mạnh (Đỗ Mười, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); Đổi mới, chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng (Nxb. Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 2006); Mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong thời kỳ
đổi mới đất nước - Vấn đề và kinh nghiệm (Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm,
Lê Doãn Tá - đồng chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân (Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2003); Xây dựng Nhà nước Pháp quyền đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay (Lê
Minh Quân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); Mối quan hệ giữa Đảng và
Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, (Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 1997); Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng (Nguyễn Quốc Bảo,
Nxb. Lao Động, Hà Nội 2001) .
Đó là những công trình tiêu biểu viết về mối quan hệ Đảng với nhân dân.

Ngoài ra, còn một số bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành có đề cặp đến vấn
đề này như là: Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng: tăng
cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng – dân một ý chí (Lê Khả Phiêu,
Sinh hoạt lý luận, 1999, số 2, tr.7 - 12); Đảng gắn bó máu thịt với dân (Võ Văn
5


Kiệt, Xây dựng Đảng, 2005, số 4, tr.11- 14); Dân tộc Việt Nam, con người Việt
Nam, nguồn sức mạnh, trí tuệ, sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nguyễn
Văn Hồng, Thông tin lý luận, 2000, số 2, tr.13 -16); Đảng vừa là người lãnh đạo
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân (Mạch Quang Thắng, Tư
tưởng văn hoá, 2000, số 1, tr.16 – 18); Đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa
Đảng và quần chúng (Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1/1991)…
Bên cạnh đó, vấn đề về nhà nước pháp quyền cũng như xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả
nghiên cứu. Trong số những cuốn sách nghiên cứu về vấn đề này, có một số tác
phẩm tiêu biểu như: Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
(Nguyễn Trọng Thóc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005); Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân (Trần Hậu Thành, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội 2005);
Xây dựng Nhà nước Pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay (LêMinh Quân, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2003; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 2003); Xây dựng Nhà
nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng (Nguyễn Văn Thảo, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội 2006; Triết học Chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam (Lê Tuấn Huy, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2006).
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khái quát, đề cập tương đối
rộng và phản ánh được nhiều khía cạnh của mối quan hệ Đảng với nhân dân
cũng như những lý thuyết về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quá trình

xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, cụ thể là:
Thứ nhất, đã cơ bản thấy rõ được tầm quan trọng của Đảng trong việc
lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh
giành độc lập tự do cho Tổ quốc, thống nhất nước nhà và thực hiện công cuộc
6


đổi mới xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Từ ngày có Đảng,
nhân dân ta một lòng theo Đảng, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
tiến bước vững chắc, viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Đảng vì dân,
dựa vào dân, dân tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đi theo Đảng, đoàn kết xung
quanh Đảng làm cách mạng.
Thứ hai, đã cơ bản làm rõ được vai trò quan trọng của mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, đã nhận thức được mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân
là cội nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Gắn bó mật thiết với nhân dân
là bản chất của Đảng. Ngoài việc phục vụ nhân dân, Đảng ta không có lợi ích
nào khác. Dân gắn bó mật thiết với Đảng vì Đảng là lực lượng tinh hoa, là trí tuệ
lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu lý tưởng của mình.
Thứ tư, các tác giả còn đề cập đến cơ sở khoa học của mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân; tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
với nhân dân; những điều kiện đảm bảo giữ vững mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng và nhân dân; về phương thức lãnh đạo của Đảng để tăng cường mối quan
hệ giữa Đảng với nhân dân…
Thư năm, đã bước đầu làm sáng tỏ hơn trên phương diện lý luận về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam…
Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào đề cập một cách
có hệ thống về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay; xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra vấn đề gì cho mối quan hệ Đảng - nhân dân
hay ảnh hưởng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối với mối quan hệ
Đảng – nhân dân. Trong khi, nghiên cứu mối quan hệ này sẽ góp phần tìm ra
những giải pháp để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân trong điều kiện
mới, trong điều kiện mà Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện việc xây dựng
7


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như hội nhập sâu rộng với thế giới,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

-

Mục đích: Trên cơ sở làm rõ quan niệm chung về mối quan hệ giữa

Đảng với nhân dân, phân tích thực trạng và vấn đề đặt ra hiện nay về mối quan
hệ giữa Đảng với nhân dân, luận văn đề xuất phương hướng và một số giải pháp
chủ yếu tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
-

Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ

thể sau đây:
+

Làm rõ quan niệm chung về Đảng Cộng sản, về nhân dân, về mối quan


hệ giữa Đảng với nhân dân, quan niệm chung về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
+


Phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế

những vấn đề đặt ra về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ở nước ta hiện nay.
+

Đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa

Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn xác định giới hạn nghiên cứu là mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân trong điệu kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam từ khi đổi mới (1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

-

Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản về Đảng kiểu mới của

8



giai cấp công nhân, về vai trò của quần chúng nhân dân, về mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
-

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu

biện chứng duy vật Mác xít và kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành chính trị học như: phương pháp lịch sử, so sách, lôgíc, hệ thống, cấu trúc,
quan sát thực tiễn …
6. Đóng góp của luận văn

-

Góp phần làm rõ thêm những quan điểm và nội dung chủ yếu về mối

quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa,
Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu rộng với quốc tế.
-

Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra về mối quan hệ giữa Đảng

với nhân dân ở nước ta kể từ khi bắt đầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đến nay.
-

Góp phần đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường

mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp

quyền ở nước ta hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo
cho
việc nghiên cứu và giảng dạy Chính trị học và Xây dựng Đảng; đồng thời làm
tài liệu tham khảo cho các nhà lãnh đạo, quản lý trong việc nghiên cứu đổi mới
hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được cấu trúc thành 3 chương, 7 tiết.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Quan niệm chung về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã ra đời sớm
trong các học thuyết triết học, pháp luật của các nhà tư tưởng cổ đại Hy Lạp, La
Mã. Nhà nước pháp quyền được tạo bởi hai thành tố "nhà nước" và "pháp
quyền". Sự phức tạp, mâu thuẫn là ở chỗ, nhà nước đặt ra pháp luật nhưng nhà
nước lại phải tôn trọng pháp luật, đặt mình dưới pháp luật, coi pháp luật là
những chuẩn mực cho mọi hành vi hoạt động của mình. Chỉ quyền lực chính trị
sử dụng pháp luật vẫn chưa đủ để có nhà nước pháp quyền. Khi nào nhà nước
được thiết lập như một tổ chức pháp lý nhằm thực hiện công quyền thì khi đó tư
tưởng nhà nước pháp quyền mới trở thành hiện thực.
Điều cốt yếu khi xây dựng nhà nước pháp quyền là cần phải giải quyết
trên thực tế: quan hệ nhà nước và pháp luật; quan hệ nhà nước với dân cư; tạo

được các bảo đảm pháp lý, các tiền đề, điều kiện cho xây dựng nhà nước pháp
quyền. Nhà nước pháp quyền thực chất là việc nhận thức đúng mối quan hệ giữa
nhà nước và pháp luật. Hoặc là nhà nước đứng trên pháp luật hoặc là nhà nước
hoạt động tuyệt đối tuân theo pháp luật. Nội dung quan trọng của vấn đề nhà
nước pháp quyền là tính tối cao của hiến pháp, sự bảo vệ chặt chẽ, triệt để các
quyền công dân, bất cứ một quyết định nào của cơ quan nhà nước cũng đều bị
đưa ra xét xử tại tòa án, nếu nó vi phạm hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp
quyền đòi hỏi phải thiết lập sự kiểm tra và phán quyết tính hợp hiến của các đạo
luật và kiểm tra tính hợp pháp của các hành vi hành chính.


những nước theo chủ nghĩa xã hội, người ta không nói đến nhà nước

pháp quyền mà chỉ nói đến nhà nước chuyên chính vô sản, cho đến 1988, trong
10


quá trình thực hiện kế hoạch cải tổ đất nước, Đảng Cộng sản Liên Xô đã bắt đầu
nói đến khái niệm "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" để chỉ một nhà nước
pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


nước ta, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập rất sớm tư tưởng về

nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, trong các Văn kiện của Đảng từ khi giành
được chính quyền đến Đại hội VII (1991), vấn đề xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa chưa được chính thức đặt ra. Phải đến Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta mới chính thức đưa vấn đề xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào văn kiện của Đảng.
Phần thứ hai của Văn kiện Hội nghị đã nêu ra nhiệm vụ: "Xây dựng Nhà nước

pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" với nội dung chủ
yếu là: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt
đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa" [5, tr.56]. Có thể khẳng định, đây là lần đầu tiên trong Văn kiện quan
trọng của Đảng chính thức sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền và nêu cụ
thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam. Với cách thể hiện này trong Văn kiện này, tư tưởng về Nhà
nước pháp quyền Việt Nam đã có bước phát triển rõ nét và toàn diện. Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam trở thành chủ trương có tầm chiết lược,
bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của nhà nước, trở thành định hướng cho
toàn bộ quá trình và nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của nhà nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây
dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
Tiếp tục phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, và vì dân” [6, tr.40]. Nghị
quyêt chỉ rõ: “Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn
11


ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm” [6, tr.42]. Như vậy,
Đại hội VIII đã khẳng định một bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng
về xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đảng đã xác định rõ đây là một nhiệm vụ
mới mẻ cần phải được tập trung nghiên cứu một cách nghiêm túc để áp dụng
một cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định và nhấn mạnh thêm: "Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có

sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành
Hiến pháp và pháp luật" [7, tr.131]. Như thế, từ khi ra đời cho đến nay, trong
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng
nhà nước của dân, do dân và vì dân, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật - phương tiện quan trọng trong quản lý nhà nước.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã tiếp tục khẳng định:
“Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế
vận hành của nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp" [8, tr.45].
Như vậy, có thể nói, kết quả nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Đảng ta là quá trình không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa của nhân loại, không sao chép, rập khuôn, giáo điều, mà luôn
sáng tạo để vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn lịch sử cách mạng Việt
Nam. Chỉ có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
mới là công cụ có đầy đủ hiệu lực để quản lý sự nghiệp xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

12


Khi đề cập tới Nhà nước pháp quyền tức là nói về mối quan hệ giữa Nhà
nước và công dân phải dựa trên cơ sở pháp luật, những giá trị bảo đảm sự bình
đẳng, dân chủ. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dựa trên
tiền đề rất quan trọng là: Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, quyền lực nhân dân là một yếu tố quan trọng trong nhà nước pháp
quyền. Quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân đỏi hỏi phải có

những thiết chế nhằm đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Nguyên tắc tổ chức ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp chính là sản phẩm
của nhà nước pháp quyền, khẳng định giá trị của pháp luật và xác lập được
những giá trị đó trên thực tế, cũng như mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân,
tổ chức. Thiết chế nhà nước là những mặt khác nhau của vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hình thành ở Việt Nam là tất yếu
và khách quan. Tính tất yếu và khách quan xuất phát từ định hướng xã hội chủ
nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng và nhân dân ta ý thức sâu sắc rằng,
để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương
tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với
xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp
tục đẩy mạnh cải cách Nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước
không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ
phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội
nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Từ những phân tích nêu trên, có thể nêu lên một số đặc trưng cơ bản của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt nam, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
13


nhân dân, khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và thiết lập cơ chế
bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân. Lấy liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát

triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là nhà nước đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân. Để làm
được điều này, nhất thiết phải giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển
sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế… tất cả các yếu tố đó phải tiến hành đồng thời,
nhưng phải ưu tiên cho những vấn đề kinh tế, chăm lo tốt hơn đến cuộc sống
hạnh phúc và mọi nhu cầu phong phú, đa dạng của con người. Tất cả những điều
đó phải dựa trên cơ sở của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, nếu thoát ly sự tăng
trưởng kinh tế, đặt ra những yêu cầu quá cao đối với các lĩnh vực văn hoá – xã
hội là không thực tế. Nhưng cũng sẽ là sai lầm, nếu chỉ coi trọng phát triển kinh
tế mà không quan tâm đến lợi ích về văn hoá – xã hội của nhân dân. Thực tiễn
những năm qua cho thấy, nếu không chú trọng xây dựng và phát triển giáo dục,
văn hoá, y tế, phúc lợi công cộng, để cho những mặt này yếu kém và xuống cấp
thì chẳng những ảnh hưởng xấu tới việc chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố
con người, mà còn kìm hãm nguồn lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước được tổ chức
và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và thể hiện địa vị tối cao của Hiến
pháp và pháp luật trong đời sống xã hội; là nhà nước trong đó mọi quyền lực đều
thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân;
là nhà nước ở đó nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp
luật. Mọi cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ công chức nhà nước và các thành
viên khác của xã hội phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm
minh, tự giác. Nhà nước phải quản lý xã hội theo pháp luật và bằng pháp luật.
Mọi vi phạm pháp luật phải được pháp luật xử lý nghiêm minh, kịp thời, thực
hiện nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật. Việc đề cao pháp luật
14


cũng là đề cao đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng. Đảng luôn luôn yêu

cầu cán bộ, đảng viên của mình phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp
và pháp luật. Sau khi Hiến pháp và pháp luật ra đời, đảng viên phải nghiêm
chỉnh chấp hành, phải tôn trọng Hiến pháp và pháp luật, chấp hành pháp luật
cũng tức là chấp hành đường lối của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng.
Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí cao nhất trong điều chỉnh các quan hệ
thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp và pháp luật phải thể
hiện đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Pháp luật phải được chính Nhà nước, cán bộ, công chức trong các
cơ quan nhà nước và mọi người, mọi tổ chức trong xã hội tôn trọng và nghiêm
chỉnh chấp hành. Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta, đặc
biệt Hiến pháp - đạo luật cơ bản đã xác định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân
phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật” (Điều 12 Hiến pháp
1992). Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật không loại trừ đối với bất cứ ai.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước mà
ở đó quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải
cách bộ máy nhà nước. Quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất sẽ
tác động trực tiếp đến việc tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ
cấu thực hiện quyền lực của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước
vận hành đồng bộ, thống nhất và có hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, tăng cường
việc phân công, phân nhiệm rành mạch, hợp lý, rõ ràng và chú trọng phối hợp
chặt chẽ trên tinh thần “vì nhân dân, do nhân dân” giữa các cơ quan trong việc

15



thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chính là điều kiện để phát
huy tốt hiệu lực của quyền lực nhà nước.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam- đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và
của cả dân tộc. Đây là những vấn đề mang tính nguyên tắc có tính chính trị- xã
hội định hướng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trên thực tế.
Khi nói rằng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì ở đó đã bao
hàm sự thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước pháp
quyền, bởi vì nếu không có sự lãnh đạo, không dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản thì Nhà nước không phải là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, không
phải là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì đây cũng
chính là một đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng
cường kỷ cương, kỷ luật; bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và sự giám sát của nhân dân.
Qua bốn đặc trưng nêu trên, có thể thấy rằng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Đó là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp,
pháp luật và thể hiện địa vị tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã
hội. Mọi cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ công chức nhà nước và các thành
viên khác của xã hội phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm
minh tự giác. Mọi vi phạm pháp luật phải được pháp luật xử lý nghiêm minh,
kịp thời, thực hiện nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật. Trong giai
đoạn trước đây, các cơ quan nhà nước có thói quen sử dụng chỉ thị, nghị quyết
của Đảng trong quản lý kinh tế - xã hội và do đó không có cơ sở pháp lý cần
thiết để xử lý những hệ quả của việc quản lý này. Các cấp ủy đảng có thói quen
quyết định trực tiếp hầu hết các vấn đề mà không có cơ sở để chịu tránh nhiệm
pháp lý về những quyết định mà mình đưa ra. Những tồn tại đó đã dần được

16


khắc phục kể từ khi nước ta xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đến nay, việc sử dụng nghị quyết của Đảng trong quản lý kinh tế - xã hội đã dần
được thay bằng chính sách pháp luật của Nhà nước. Mọi tổ chức, cá nhân trong
xã hội được bình đẳng trước pháp luật, không khí dân chủ trong quan hệ giữa
Đảng với nhân dân ngày càng được khẳng định.
1.2. Quan niệm chung về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
1.2.1. Quan niệm chung về Đảng Cộng sản Việt Nam
Hiến pháp năm 1992 có ghi “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[29, tr.137]. Đảng Cộng sản
Việt Nam được thành lập năm 1930 (Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam đầu năm 1930). Sau khi thành lập được ít lâu, lấy tên là Đảng Cộng sản
Đông Dương; từ 1951, đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam; đến tháng 12
năm 1976, đổi lại là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng đất nước Việt Nam
dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa
trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn
của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn và
phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Đảng kết hợp chặt chẽ chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, ủng hộ
sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của
nhân dân trên toàn thế giới. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng quyền
làm chủ và chịu sự giám sát của nhân dân, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến

hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành độc lập tự do và tổ
chức nhân dân thành lực lượng cách mạng, hoàn thành nhiệm vụ từng giai đoạn
17


để đi tới chủ nghĩa xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ
phận của hệ thống chính trị. Đảng tôn trọng vai trò của Nhà nước, của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách,
tự phê bình và phê bình, thực hiện dân chủ đầy đủ và kỷ luật chặt chẽ trong sinh
hoạt đảng; giữ vững đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị và Điều lệ Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên là tấm gương, là ngọn cờ
chiến đấu để nhân dân noi theo.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, giải phóng đất nước, xoá bỏ chế độ thực
dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc, đưa cả nước chuyển sang thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng Việt Nam và góp phần tích cực
vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ
chức chính trị gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân tin yêu kính trọng.
Điều này được thể hiện rất rõ qua hai luận điểm của Người: Một là, “Đoàn thể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, thì
việc Đảng trực tiếp lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác là

tất yếu. Sự lãnh đạo ấy bao gồm hầu hết các vấn đề quan trọng nhất của đời sống
nhân dân, sự sinh tồn, hưng vong của quốc gia, nói một cách khác là toàn bộ
những vấn đề thuộc về quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, còn có cơ chế và
phương pháp để nhân dân góp ý xây dựng đối với tổ chức đảng cũng như đối với
18


từng đảng viên. Sự đóng góp của nhân dân sẽ làm cho bản thân Đảng trong sạch
vững mạnh, đồng thời tạo ra sự đồng cảm giữa Đảng với nhân dân. Qua đó nhân
dân luôn thấy Đảng là của chính mình, vì mình, nhờ vậy Đảng ngày càng gắn bó
máu thịt với nhân dân, được nhân dân tin yêu, kính trọng; hai là Đảng cũng ở
trong xã hội. Đây là một chân lý lớn, sâu sắc, Đảng không phải “ở trên trời rơi
xuống”. Mỗi một đảng viên đều là con em của nhân dân, đều sinh ra và lớn lên,
đều chịu sự chi phối về tất cả các mặt tâm lý, kinh tế - xã hội, thói quen… trong
những điều kiện lịch sử nhất định.
Xét về mặt khách quan, thì điều kiện ra đời và tồn tại của Đảng là do nhu
cầu của xã hội, do nhân dân. Đảng cũng là một hiện tượng lịch sử và được sinh
ra trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, nó bị những điều kiện lịch sử chế định.
Xã hội vận động, phát triển đòi hỏi Đảng với tư cách là đội tiên phong chính trị
của nhân dân, phải biết vượt lên trước, biết đoán định xu thế phát triển của lịch
sử để dẫn dắt nhân dân. Nói sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu lịch sử nghĩa là
tất yếu Đảng phải là một đội tiên phong chính trị. Bất cứ giai đoạn nào, Đảng
cũng chỉ có thể tồn tại khi Đảng là đội tiên phong chính trị không những của giai
cấp tiên tiến nhất (giai cấp công nhân) mà còn phải là đội tiên phong chính trị
của toàn thể dân tộc. Theo Hồ Chí Minh thì “Đảng phải trở thành hình thức cao
nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của
dân tộc” [20, tr.517].
Có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã bắt nhịp hài hòa
với chủ nghĩa Mác-Lênin thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của
Đảng với mục đích, tôn chỉ rõ ràng, với nguyện vọng thiết tha muốn giành độc

lập, tự do cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân đã kêu gọi được hàng triệu
người dân Việt Nam đi theo. Với tư cách là một Đảng cách mạng chân chính,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ tập hợp những lực lượng ưu
tú nhất của dân tộc vì sự nghiệp chung. Trong Đảng, có mặt hầu hết những danh
nhân ưu tú của đất nước, đó là những nhà quân sự tài ba, những nhà chính trị lỗi
lạc, những nhà khoa học uyên thâm và những chiến sĩ dũng cảm nhất trong cuộc
19


đấu tranh vì sự phồn vinh của đất nước. Họ đến với Đảng theo con đường của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và trở thành những người chiến sĩ kiên định,
chính vì vậy mà mỗi khi đất nước lâm nguy thì những người đảng viên của
Đảng lại thể hiện rõ nhất bản chất cách mạng của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện vài trò lãnh đạo chính trị thông qua
việc đưa ra những đường lối, chiến lược và định hướng phát triển của xã hội về
lâu dài cũng như từng giai đoạn cụ thể. Sứ mệnh của Đảng là vạch ra những
đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và được tất cả
các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn nhân dân chấp nhận, cũng như cùng
thực hiện. Khi giành được quyền lãnh đạo, Đảng Cộng sản luôn luôn hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật, vì Đảng cũng là một bộ phận của xã hội.
Các đảng viên trước hết phải là một mẫu mực sống và làm việc theo pháp luật,
phải là một tấm gương sáng để mọi tầng lớp trong xã hội noi theo. Mọi chủ
trương, chính sách của Đảng khó đi vào cuộc sống và khó được nhân dân chấp
nhận, nếu đội ngũ đảng viên non yếu về năng lực, suy thoái đạo đức, không chấp
hành pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng đã lập ra chính quyền
cách mạng, lập ra các tổ chức chính trị khác và cùng các tổ chức ấy hình thành
nên hệ thống chính trị. Do vậy, Đảng cũng là một bộ phận của hệ thống chính trị.
Đảng không phải là một tổ chức đứng trên hay đứng ngoài hệ thống chính trị mà
ở bên trong hệ thống chính trị. Hơn nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò
lãnh đạo hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay, không có

một chính đảng nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo xã
hội, lãnh đạo hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng cương
lĩnh, đường lối chiến lược, các định hướng về chủ trương, chính sách đúng đắn,
có cơ sở khoa học, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng, cán bộ Đảng viên không phải là người làm quan
cách mạng, vì Đảng không phải là tổ chức làm quan phát tài. Cần phải có thái độ
kính yêu nhân dân, học hỏi nhân dân, thật thà, ngay thẳng, không giấu dốt, giấu
khuyết điểm, phải gần gũi nhân dân. Với trách nhiệm cầm quyền, đảng phải
chăm lo đến đời sống nhân dân.
20


1.2.2. Quan niệm chung về nhân dân
Dân là một khái niệm mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, nó tồn tại trong xã
hội đã có giai cấp và có nhà nước. Đó là khái niệm chỉ những người lao động
bình thường, đông đảo, đối diện những người cầm quyền cai trị ở các địa bàn
lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt
động tinh thần của một xã hội nhất định. Dân không đồng nhất với dân cư, nó
bao gồm những người thuộc giai cấp và tầng lớp lao động không bóc lột, trực
tiếp sản xuất ra của cải trong xã hội. Trong tiến trình phát triển nhân loại, đã có
nhiều quan niệm về dân, mỗi quan niệm đều có cách nhìn khác nhau về dân.
Khổng Tử, nhà triết học lớn thời Xuân Thu của Trung Quốc, một người có
trí tuệ và học vấn uyên bác, được tôn là bậc thánh nhân của Nho giáo đã có tư
tưởng đề cao vai trò của nhân dân. Ông cho rằng, dân là gốc của đất nước. Điều
quan trọng nhất đối với nhà cầm quyền là phải thu phục được lòng dân. Nếu
nhân dân ủng hộ thì làm việc gì cũng được, ngược lại nếu nhân dân không ủng
hộ thì làm việc gì cũng sẽ thất bại. Theo Khổng Tử, để có được lòng dân, nhà
cầm quyền cần phải lo việc dưỡng dân, có nghĩa là phải biết định hướng, giáo
dục, dạy dỗ cho nhân dân biết việc gì phải làm là hợp thời, việc gì không nên
làm. Mặt khác, cũng cần phải đảm bảo cho người dân có cuộc sống no đủ, có

như vậy thì nhà cầm quyền mới có thể nắm và giữ quyền lực của mình một cách
lâu dài.
Mạnh Tử, một đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc đã bàn rất
nhiều về nhân dân. Ông cho rằng mọi chế độ đều phải nhằm vào lợi ích của nhân
dân; vì lợi ích của nhân dân cũng là lý do tồn tại của thiên tử, chư hầu. Mạnh tử
đã khẳng định vị trí hàng đầu của nhân dân trong mối quan hệ giữa nhân dân với
xã tắc và vua quan: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” – nghĩa là dân là
quý nhất, xã tắc thu hai, vua là thường. Chính Mạnh Tử đã giải thích vua là
thường hơn xã tắc vì có thể thay đổi vua; quan trọng nhất là được dân hay mất
dân, mà sở dĩ được dân là vì được lòng dân và mất dân vì mất lòng dân. Ông so
sánh và giải thích: “Được lòng dân thì làm đến ngôi thiên tử; được
21


lòng thiên tử chẳng qua làm đến chư hầu; được lòng chư hầu chẳng qua làm đến
quan đại phu”[38, tr.852].
Trong lịch sử chính trị Việt Nam, nhiều triều đại phong kiến đã có quan
điểm trọng dân, tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với nhân dân, chăm lo đến lợi ích
của nhân dân nên đã được nhân dân ủng hộ, tập trung sức mạnh, đánh thắng
được giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng đất nước, đồng thời củng cố được
vương triều vững mạnh. Nhà Trần thế kỷ XIII đã ba lần đại thắng quân xâm lược
Nguyên – Mông hung hãn. Nguyên nhân cơ bản của thắng lợi đó là do vua tôi
đồng tâm, anh em hòa thuận, nhân dân ủng hộ. Mặt khác cũng do Vua quan nhà
Trần biết quan tâm đến lợi ích của nhân dân, coi trọng nhân dân. Điều này phần
nào được thể hiện qua lời khuyên tấu của Trần Quốc Tuấn đối với vua Trần rằng
khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước. Bên
cạnh đó, cũng có những triều đại đã không thu phục được lòng dân, không biết
chăm lo đến lợi ích của nhân dân, dẫn đến những kết cục không mấy tốt đẹp.
Đầu thế kỷ XIV, Hồ Quý Ly chuẩn bị kháng chiến chống quân Minh xâm lược,
xây dựng lực lượng quân thường trực khá đông, có súng thần công, có nhiều

chiến thuyền, nhưng không đoàn kết được toàn dân, lòng dân ly tán, nên đã thất
bại, cha con Hồ Quý Ly đều bị giặc Minh bắt. Nhà Hồ mất nước bởi vì Nhà Hồ
mất dân.
Nguyễn Trãi, một nhà văn hóa lớn, một anh hùng của dân tộc ta thể kỷ
XV, đã nêu ra những tư tưởng sâu sắc về vai trò và sức mạnh của nhân dân. Sau
khi cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh thắng lợi,
ông viết bài “Bình Ngô đại cáo” hùng tráng với hai câu mở đầu nói về tư tưởng
an dân; muốn an dân thì trước hết phải trừ bạo ngược:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nói về sức mạnh của nhân dân, Nguyễn Trãi đã tiếp thu và nêu lên tư
tưởng tiến bộ, ví dân như nước, các triều đại phong kiến như những còn thuyền;
22


thuyền nổi được là nhờ nước. Nước có tác dụng chở thuyền nhưng cũng có sức
mạnh lật thuyền: “Chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là dân”[37, tr.203].
Đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt ách thống trị lên đất nước ta, phong
trào yêu nước của nhân dân ta bùng lên mạnh mẽ, như phong trào Cần Vương,
Đông Kinh Nghĩa Thục, khởi nghĩa Yên Thế, đặc biệt là phong trào vận động
cách mạng của Phan Châu Trinh. Ông đã đưa ra bản “ Thất điều trần” nổi tiếng,
gồm bẩy điều kết tội vua Khải Định, và nêu cao tư tưởng “Trọng dân”, đề xướng
tư tưởng dân chủ, quy kết trách nhiệm đối với giới cầm quyền.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, nhân dân là người sáng tạo và quyết
định sự phát triển của lịch sử. Nhân dân là những người trực tiếp lao động sản
xuất để tạo ra của cải vật chất trong xã hội. Bằng lao động cần cù, sáng tạo của
mình, nhân dân đã làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Ngoài việc tạo ra
của cải vật chất, nhân dân còn là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội, đóng vai trò quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội. Đối với tất cả
các cuộc cách mạng, nhân dân luôn luôn là lực lượng nòng cốt, tham gia đông

đảo, tự giác tích cực dẫn đến sự thắng lợi cuối cùng; nhân dân còn là người sáng
tạo ra các hoạt động chính trị xã hội, giá trị văn hoá tinh thần của nhân loại.
Nhân dân là lực lượng làm hiện thực hoá tư tưởng, chuyển sức mạnh tinh thần
thành sức mạnh vật chất nhằm cải biến lịch sử và thúc đẩy tiến trình lịch sử.
Hồ Chí Minh đã có một quan niệm về nhân dân với nội hàm rộng rãi và
phong phú hơn, phù hợp với đặc điểm, truyền thống yêu nước, sự gắn bó cộng
đồng và tinh thần cách mạng của dân tộc Việt Nam. Trong quan niệm của mình
về nhân dân, Hồ Chí Minh luôn đề cao vài trò của nhân dân. Người nói: "Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân... Trong xã hội, không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng
phục vụ lợi ích của nhân dân" [21, tr.276]. Đây là một tư tưởng tổng quát, có
tính triết lý sâu sắc, thể hiện một quan niệm đúng đắn về nhân dân. Cũng giống
như các vị tiền bối của mình, Hồ Chí Minh luôn coi con người là yếu tố quan
trọng nhất. "Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời,
23


địa lợi, nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không
quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa
là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí. Nhân hòa là quan trọng
hơn hết" [21, tr.479].
Người còn đề cao vấn đề dân chủ, dân là chủ, mọi quyền hành, lực lượng,
lợi ích đều ở nơi dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân bầu
cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã, do dân tổ chức. Dân bầu ra người đại diện
và có quyền kiểm sát, giám sát và bãi miễn khi không làm tròn sự uỷ thác. Nhà
nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả nhất định phải dựa
vào dân. Người cũng chỉ ra rằng nhân dân có quyền làm chủ thì phải có nghĩa vụ
làm tròn bổn phận công dân.
Hồ Chí Minh đề cao vài trò của nhân dân. Người khẳng định cách mạng là
sự nghiệp của nhân dân chứ không phải sự nghiệp của một cá nhân anh hùng

nào. Nhưng cách mạng muốn bảo đảm thắng lợi phải tập hợp nhân dân thành
một khối thống nhất và tổ chức lãnh đạo nhân dân đi theo cách mạng. Chỉ có
đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân mới đủ khả năng để thực
hiện nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Từ niềm tin mãnh liệt vào sức
mạnh của nhân dân, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường
xuyên gần gũi với nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân. Người khẳng định
cán bộ phải giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến
của nhân dân, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà giành được
thắng lợi.
Nhân dân trong tư tưởng của Người còn là nhân nghĩa. Người đã từng nói
nhân nghĩa là nhân dân. Nắm vững quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng,
Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề nhân dân một cách rõ ràng, có sức thuyết phục, thu
phục lòng người, xây dựng mặt trận đoàn kết thống nhất dân tộc rộng rãi, một
trong những nhân tố đảm bảo thắng lợi cách mạng. Hồ Chí Minh không coi nhân
dân là một khối đồng nhất, mà là một cộng đồng, bao gồm nhiều dân tộc, giai
cấp, tầng lớp. Các nhóm xã hội ấy có lợi ích chung và lợi ích riêng, có vai trò và
24


×