Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh thái bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.6 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐÀO THỊ TÂN

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐÀO THỊ TÂN

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGÔ NGỌC THẮNG

HÀ NỘI - 2012

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Ngô
Ngọc Thắng.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2012.

Tác giả luận văn

Đào Thị Tân

3



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN................................................ 7

1.1. Một số khái niệm liên quan..................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm Nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực.............................7
1.1.2. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn................................................................ 13
1.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta và tính tất yếu khách
quan về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay................................ 17
1.2.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...17
1.2.2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển nguồn nhân lực
phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn......................................................................................................................... 27
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

30

2.1. Những yếu tố tác động trực tiếp tới nguồn nhân lực và phát triển nguồn
nhân lực của tỉnh......................................................................................................... 30
2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của tỉnh............................................................................................................ 36
2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay................................................................. 36

2.2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực............................................................... 48
2.2.3. Đánh giá chung............................................................................................................. 60
2.2.4. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn phát triển nguồn nhân lực của
tỉnh...................................................................................................................................... 61

4


Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH THÁI
BÌNH HIỆN NAY........................................................................................................... 63

3.1. Mục tiêu, phương hướng và quan điểm......................................................................... 63
3.2. Các giải pháp chủ yếu.............................................................................................................. 66
3.2.1. Về nâng cao nhận thức của Hệ thống chính trị và của người dân
về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ mới.......................................... 66
3.2.2. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tăng cường thu hút
vốn đầu tư........................................................................................................................ 67
3.2.3. Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của địa phương.................................................................................. 71
3.2.4. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề gắn với yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương...................................................................................... 74
3.2.5. Gia tăng tốc độ giải quyết việc làm................................................................... 77
3.2.6. Phát triển y tế, văn hóa nâng cao chất lượng dân số, sức khỏe cải
thiện đời sống và tinh thần cho người lao động
80
3.2.7. Phát triển, thu hút và sử dụng hiệu quả nhân tài......................................... 80
3.2.8. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của nhà nước

về phát triển nguồn nhân lực................................................................................. 82
3.3. Một số kiến nghị......................................................................................................................... 85
KẾT LUẬN............................................................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 89

5


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Bình qua các năm............................... 31
Bảng 2.2: Lực lượng lao động tỉnh Thái Bình (2006 - 2010)...................................... 37
Bảng 2.3: Phân bố lao động theo địa giới hành chính của tỉnh Thái Bình............38
Bảng 2.4: Cơ cấu độ tuổi của lực lượng lao động Thái Bình....................................... 39
Bảng 2.5: Trình độ học vấn của lực lượng lao động Thái Bình.................................. 42
Bảng 2.6: Số người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên chia
theo trình độ văn hóa

43

Bảng 2.7: Lao động có việc làm phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật:
người có việc làm +>=15 tuổi 44
Bảng 2.8: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Thái Bình......46
Bảng 2.9: Lao động có việc làm phân theo loại hình công việc................................. 55
Bảng 2.10: Cơ cấu lao động có việc làm theo lĩnh vực đào tạo.................................. 57
Bảng 2.11: Lao động có việc làm phân theo vị thế công việc..................................... 59

6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNH
CMKT
HĐH
NNL

7


MỞ ĐẦU

1. Lí do và tính cấp thiết của đề tài
Trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn khẳng định vị trí then chốt của CNH, HĐH nhằm sớm đưa
đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, chuyển từ một nước nông nghiệp
thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Trục xuyên suốt quan trọng nhất
của tiến trình xây dựng và phát triển đất nước không thể không là quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Định hướng trên xuất phát từ nhận thức
điều kiện thực tiễn Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, nông dân chiếm
80% dân số cả nước, 70% lao động sống ở nông thôn. Bên cạnh đó, tình trạng
đất chật người đông, dân số và lực lượng lao động không ngừng gia tăng, đất
sản xuất lại có xu hướng ngày càng thu hẹp… cơ sở hạ tầng yếu kém, ngành
nghề chủ yếu thuần nông, dịch vụ kém phát triển.
Để đảm bảo thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thắng lợi,
cần phát huy tối đa vai trò của các nguồn lực: Vốn, nguồn nhân lực, tài
nguyên thiên nhiên, khoa học kĩ thuật và công nghệ... trong đó nguồn nhân
lực đóng vai trò quyết định. Nguồn nhân lực là thế mạnh cơ bản của nội lực
đất nước, là nhân tố nòng cốt trong tiến trình CNH, HĐH. Vì vậy, Đảng ta đã
xác định: “ Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững” [13, tr.85] .

Thực tiễn quá trình CNH, HĐH nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Bình
nói riêng và cả nước nói chung đang đứng trước thực trạng nguồn nhân lực:
“dồi dào nhưng khan hiếm”, thiếu đội ngũ lao động có trình độ cao đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, sự phân bố nhân lực chưa hợp lý… đã cản
trở quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp.
Làm thế nào để có thể sử dụng và phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực
đầy tiềm năng để không những tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội địa

8


phương mà còn giải quyết được những vấn đề xã hội trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn hiện nay, đây là nỗi
trăn trở của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thái Bình. Vì những lí do đó, chúng tôi
chọn vấn đề: “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái Bình hiện nay” làm nội
dung nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là một đề tài nghiên cứu
thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu khoa học với nhiều
góc độ khác nhau.
Một số nhà nghiên cứu đi sâu nghiên cứu vấn đề con người nói chung
gắn với động lực, chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH.
-

Trong công trình khoa học "Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH,

HĐH" tác giả Phạm Minh Hạc đã khẳng định tính tất yếu khách quan của việc
đào tạo, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội; đề cao giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng

và đào tạo lại chất lượng đội ngũ nhân lực.
-

Tác giả Đoàn Văn Khái, trong cuốn "Nguồn lực con người trong quá

trình CNH, HĐH ở Việt Nam" đã làm rõ khái niệm CNH, HĐH và mô hình
CNH, HĐH để từ đó đưa ra quan niệm rằng đất nước ta đang trong thời kỳ
CNH, HĐH theo mô hình tổng hợp (kết hợp giữa phát huy nội lực và lợi thế
so sánh), đi liền với hiện đại hóa. Đồng thời, công trình trên đặc biệt nhấn
mạnh đến vị trí, vai trò then chốt của nguồn lực con người trong quá trình
CNH, HĐH đất nước.
Một số tác giả đề cập đến nhân tố con người, đến nguồn nhân lực trẻ.
-

Trong công trình khoa học năm 2007 “Phát huy nhân tố con người

trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” tác giả Phạm Công

9


Nhất đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của nhân tố con người, những giải
pháp của việc phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện nay.
-

Tác phẩm “Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để CNH, HĐH

nông thôn nước ta” của Nguyễn Văn Trung, tập trung nghiên cứu về lực
lượng lao động ở nông thôn, chủ yếu là thanh niên và các giải pháp nhằm tạo
công ăn việc làm tại chỗ nâng cao thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, tác giả

chưa đi sâu vào thực trạng phát triển nguồn nhân lực nói chung ở nông thôn.
Hiện nay vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta
gắn với quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế được một số nhà nghiên cứu
quan tâm sâu sắc.
-

Ở bài viết Phát" triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập

kinh tế - vấn đề cấp bách sau khủng hoảng"đăng trên Tạp chí Kinh tế đối
ngoại số 38 năm 2009, khi đề cập đến các yếu tố cần thiết để phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, tác giả Hoàng Văn Châu đã nhấn mạnh tới vai trò và
cách thức của giáo dục và đào tạo trong việc bồi dưỡng nhân tài.
-

Tác giả Trần Mai Ước trong bài Đẩy" mạnh phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao phục vụ CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội"
năm 2010 đã cho rằng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về thực chất
là phát triển và hoàn thiện chất lượng con người theo yêu cầu của thời kỳ
CNH, HĐH.
Đặc biệt nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận, nghiên cứu sâu về vị trí, vai trò
nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH nói chung và nông nghiệp, nông
thôn nói riêng.
-

Trong “Đề án về lao động và phát triển nguồn nhân lực trong nông

nghiệp, nông thôn thời kỳ CNH, HĐH” Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn năm 2000, đã khái lược tiềm năng lao động nước ta nói chung và trong
khu vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng.


1


-

Bài viết CNH," HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam: cách thức,

bước đi, nguồn lực và chính sách"đăng trong hội thảo lý luận lần thứ tư giữa
Đảng cộng Việt Nam với Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2008, tác giả Bùi
Bá Bổng đã nêu ra tính tất yếu khách quan của mối quan hệ phát triển nguồn
nhân lực gắn chặt với đào tạo; chỉ có thể đa dạng hóa nội dung đào tạo, nâng
cao chất lượng giáo dục mới có thể đẩy mạnh hiệu quả sử dụng nhân lực.
Các công trình nghiên cứu trên đều ít nhiều đề cập đến việc phát triển
nguồn nhân lực và đã chỉ ra vấn đề có tính bức thiết hiện nay là thực trạng
nguồn nhân lực nước ta thiếu về số lượng, yếu về chất lượng; để đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH đất nước không thể không nâng cao chất lượng NNL. Tuy
vậy chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về việc
phát triển NNL phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên
địa bàn các địa phương, đặc biệt là tỉnh có đặc thù là một tỉnh thuần nông như
Thái Bình.Vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài này với mong muốn góp
phần tìm ra những giải pháp có tính ứng dụng trực tiếp trong quá trình phát
triển nguồn nhân lực của tỉnh hiện nay.
3.
*

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn: Góp phần tìm giải pháp phát triển nguồn


nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái
Bình hiện nay.
*

Để có thể đạt được mục đích trên đề tài tập trung thực hiện những

nhiệm vụ sau:
+
Hệ thống hóa những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước
ta về
CNH, HĐH đất nước nói chung và trong lĩnh vực nghiên cứu nông
thôn, nông nghiệp nói riêng.
+ Tìm hiểu thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Thái Bình trước yêu cầu
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và những vấn đề đặt ra.

1


+

Bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn

nhân lực của tỉnh Thái Bình phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nói chung và đối
với nông nghiệp, nông thôn Thái Bình nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nguồn nhân lực vừa là chủ thể sản xuất vừa là lực lượng sản xuất hàng
đầu, là yếu tố năng động sáng tạo quyết định sự phát triển của xã hội. Phát
triển nguồn nhân lực là nội dung trọng tâm để thực hiện những chủ trương,
chiến lược kinh tế đối với các quốc gia.
Đề tài luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn

nhân lực gắn với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ năm
2000 trở lại đây nhằm phát huy được vị trí, vai trò nguồn lực con người để
xây dựng địa phương giàu mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị và toàn diện
về xây dựng nông thôn mới.

-

5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

*

Cơ sở lý luận:

Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

về con người, vai trò của nguồn nhân lực trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-

Dựa trên đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về con người

và nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay.
*

Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp luận duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp hệ thống

hóa, khái quát hóa, phân tích, tổng hợp, nghiên cứu văn bản.
6. Đóng góp của luận văn
-

Dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, hoạch định chính

sách phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước và phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
1


-

Dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy một số

chuyên đề của CNXH trong các nhà trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái Bình hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Thái Bình hiện nay.

1


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm Nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực
*

Khái niệm Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực hay nguồn lực con người là một vấn đề nổi lên hàng
đầu trong thế kỷ XXI, được thế giới quan tâm sâu sắc. Cho đến nay, nguồn
nhân lực là một khái niệm đa dạng được đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau.
Nhưng nói tới nguồn nhân lực là chúng ta đề cập đến một yếu tố quan trọng
nhất, năng động nhất của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nó
khác so với các nguồn lực khác (tài chính, đất đai, công nghệ, vốn…) ở chỗ
nguồn nhân lực cùng với hoạt động có tính sáng tạo, đã biết tác động vào giới
tự nhiên, làm biến đổi giới tự nhiên, trên cơ sở đó mà hình thành nên các quy
luật lao động và quan hệ xã hội.
-

Trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như một loại vốn

(vốn người, tư bản người) là một trong những thành tố cơ bản của quá trình
sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng thế giới đã cho rằng: Nguồn lực con người được hiểu là toàn
bộ vốn người (trí lực, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể
huy động được trong quá trình sản xuất kinh doanh hay một hoạt động nào đó.
Theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam: "Nguồn lực con người là
vốn quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta khi nguồn

lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp", đó là "người lao động có trí
tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng

1


và phát huy bởi nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học hiện đại"
[15, tr.69].
-

Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi thành tố

hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của
lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó quyết định năng
suất lao động và tiến bộ xã hội.
Với góc độ tiếp cận nguồn nhân lực là lực lượng lao động, theo đánh
giá của Liên Hợp Quốc thì nguồn nhân lực bao gồm những người đang làm
việc và những người đang trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
Nguồn nhân lực được hiểu theo các nghĩa sau:
+

Với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động để phát triển kinh tế xã

hội, NNL bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động, không phân biệt
ngành nghề, lĩnh vực; ở trong độ tuổi lao động, tham gia hoạt động kinh tế và
dữ trữ [39, tr.7].
+

Với tư cách là khả năng đảm đương chính của lao động xã hội thì


nguồn nhân lực được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, là toàn bộ dân cư trong độ tuổi
lao động và có khả năng lao động (do pháp luật lao động quy định). Trên cơ
sở cách hiểu này, nguồn nhân lực tương đương với khái niệm nguồn lao động;
tuy nhiên nguồn lao động hiện hữu là toàn bộ những người đang làm việc và
tích cực tìm việc làm, còn nguồn nhân lực còn bao hàm cả một bộ phận tiềm
tàng chưa tham gia vào quá trình lao động [39, tr.8].
+

Trong giai đoạn hiện nay, một số nhà khoa học Việt Nam cho rằng

nguồn nhân lực bao gồm cả số lượng và chất lượng con người, trong đó thể
hiện cả trên phương diện thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và
phẩm chất, trình độ và phong cách làm việc.
Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc cùng các nhà khoa học tham
gia chương trình KX - 07 thì: "Nguồn nhân lực cần được hiểu là số dân và
chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ,

1


năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể nguồn
nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia
phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó…" [23,
tr.323].
Như vậy, khái niệm nguồn nhân lực có nội dung rất rộng song về cơ
bản nguồn nhân lực không chỉ được được cấu thành từ dân số, hay nguồn lao
động của một quốc gia dân tộc mà nó bao hàm cả tiềm năng lao động của con
người. Vậy, có thể hiểu rằng:
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của con người, là
tổng thể số lượng dân, cơ cấu số dân, đặc biệt là chất lượng người với sức

mạnh và kỹ năng của nó có thể huy động vào quá trình phát triển kinh tế và
xã hội.
Nguồn nhân lực được cấu thành bởi các thành tố: số lượng, cơ cấu, chất
lượng và mối quan hệ giữa chúng hợp thành một chỉnh thể thống nhất tạo nên
sức mạnh của con người và cộng đồng xã hội.
Về số lượng
Đây là thành tố đóng vị trí quan trọng đầu tiên của nguồn nhân lực, một
quốc gia nếu không có số lượng cần thiết thì không thể phát huy được sức
mạnh của nguồn nhân lực, tác động xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Số lượng nguồn nhân lực của bất kỳ quốc gia nào cũng đều được hình
thành dựa trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính và sự phân bố dân cư
theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân số… Trong đó số dân trong độ tuổi lao
động là chỉ số phản ánh một cách rõ nhất về số lượng nguồn nhân lực.
Về cơ cấu
Cơ cấu nguồn nhân lực là cơ cấu về số dân, về độ tuổi, giới tính; cơ cấu
về thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo; cơ cấu về trình độ học vấn; trình độ
chuyên môn nghề nghiệp, cơ cấu vùng miền… Toàn bộ cơ cấu đó phản ánh
tính hợp lý hay không hợp lý, sự phù hợp hay không phù hợp của nguồn nhân
1


lực trong một quốc gia, trong một ngành, một lĩnh vực nhất định, trong một
giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.
Về chất lượng
Chất lượng nguồn nhân lực là sự tổng hợp, kết tinh của rất nhiều yếu tố
và giá trị cùng tham gia tạo nên. Trong đó, gồm ba yếu tố cơ bản: thể lực, trí
lực và tâm lực.
Thể lực là tình trạng sức khỏe của con người, biểu hiện ở sự phát triển
bình thường, có khả năng lao động. Thể lực được phản ánh bởi những chỉ tiêu
về thể trạng (chiều cao, cân nặng), bệnh tật, tuổi thọ. Đây là cơ sở quan trọng

cho hoạt động thực tiễn của con người, có thể đáp ứng được những đòi hỏi về
hao phí sức lao động trong quá trình sản xuất với những công việc cụ thể khác
nhau và đảm bảo cho con người có khả năng học tập và lao động lâu dài.
Trí lực là năng lực trí tuệ, khả năng nhận thức và tư duy mang tính sáng
tạo thích ứng với xã hội của con người. Trí lực được phản ánh bởi những chỉ
tiêu về yếu tố trí tuệ, tinh thần, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, chuyên môn kĩ thuật của người lao động. Trí lực là yếu tố quyết
định phần lớn tiềm lực sáng tạo ra các giá trị vật chất, văn hóa, tinh thần của
con người, chiếm vị trí trung tâm chỉ đạo hành vi của con người trong mọi
hoạt động.
Tâm lực là những giá trị chuẩn mực đạo đức, phẩm chất đạo đức tốt đẹp
và sự hoàn thiện nhân cách của con người, được biểu hiện trong thực tiễn lao
động sản xuất và sáng tạo cá nhân. Tâm lực được kết tinh bởi hàng loạt các
giá trị: Đạo đức, tác phong, tính tự chủ và năng động, kỷ luật và tinh thần
trách nhiệm trong công việc; khả năng hợp tác, làm việc theo nhóm, khả năng
hòa nhập với môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc. Tâm lực tạo ra động cơ bên
trong của chủ thể, thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của con người. Nói cách
khác, tâm lực góp phần vào việc phát huy vai trò của các yếu tố thể lực và trí
lực của con người với tư cách nguồn nhân lực của xã hội.

1


*

Khái niệm phát triển Nguồn nhân lực

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, thuật ngữ phát triển nguồn nhân lực
hay phát triển nguồn tài nguyên người (Human Resources Development HRD) được hình thành và phát triển dựa trên lý thuyết phát triển của Liên hợp
quốc về vị trí của con người, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng

con người nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đến năm 1990, khái niệm "phát triển con người" (Human
Development) mới xuất hiện trên thế giới gắn với báo cáo về phát triển con
người trong chương trình phát triển của Liên hợp quốc công bố. Theo đó, của
cải đích thực của mỗi quốc gia là con người của quốc gia ấy và mục đích phát
triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người được hưởng
cuộc sống lâu dài, mạnh khỏe. Quan điểm của Liên hợp quốc về "phát triển
con người" nhấn mạnh đến mục tiêu hơn là phương tiện của sự phát triển.
Các nhà khoa học Việt Nam hiện nay đã đưa ra khá nhiều quan điểm về
"phát triển nguồn lực con người" hay "phát triển nguồn nhân lực" trong các
công trình nghiên cứu, dưới các góc độ khác nhau. Nhưng tựu trung lại, đều
nhấn mạnh đến quá trình gia tăng về giá trị cho con người Việt Nam gắn với
các mặt: thể lực, trí lực, đạo đức…, tạo ra môi trường ngày càng thuận lợi cho
sự phát triển con người, đáp ứng ngày càng tốt hơn với những đòi hỏi tất yếu
của công cuộc đổi mới đất nước.
Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc: "Phát triển nguồn nhân lực
được hiểu về cơ bản là gia tăng các giá trị đạo đức cho con người, trên các
mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực... làm cho con người trở
thành những người lao động có những năng lực phẩm chất mới và cao, đáp
ứng được những yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, của sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước" [23, tr.285].
Giáo sư - Tiến sĩ khoa học Nguyễn Minh Đường phát triển quan điểm
trên gắn với thành tố môi trường xã hội: "Phát triển nguồn nhân lực được hiểu

1


là gia tăng giá trị cho con người trên các mặt trí tuệ, kỹ năng lao động, thể lực,
đạo đức, tâm hồn… để cho họ có thể tham gia vào lực lượng lao động, làm
giàu cho đất nước, góp phần cải tạo xã hội, cũng như truyền thống dân tộc và

góp phần tô điểm thêm bức tranh muôn màu của nhân loại. Do đó, phát triển
nguồn nhân lực phải được tiến hành trên cả ba mặt: phát triển nhân cách, phát
triển sinh thể, đồng thời tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho nguồn nhân
lực phát triển"… [20, tr.8]
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình phát triển toàn diện con người cả
về thể lực, trí lực, nhân cách, cả khai thác, sử dụng, tái tạo và phát triển tiềm
năng, năng lực của mỗi người của cả cộng đồng người nhằm đóng góp nhiều
nhất vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nhà nghiên cứu Phạm
Khánh Đức nhấn mạnh hơn nữa đến cách thức phát triển nguồn nhân lực:
"Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi, chuyển biến
số lượng, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực, phù hợp với từng giai đoạn
phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp độ khác nhau (quốc gia, vùng miền, địa
phương…) đáp ứng nhu cầu nhân lực cần thiết cho các lĩnh vực hoạt động lao
động và đời sống xã hội, nhờ vậy mà phát triển được năng lực, tạo được công
ăn việc làm, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống, địa vị kinh tế, xã
hội của các tầng lớp dân cư và cuối cùng là đóng góp chung cho sự phát triển
của xã hội" [21, tr.489].
Tóm lại, có thể hiểu: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự
biến đổi phù hợp về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực đồng thời
không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng chúng nhằm đáp ứng những yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vùng miền.
Vậy, quá trình phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng chính là việc
hình thành quy mô dân số hợp lý, cơ cấu về giới với tốc độ tăng dân số phù
hợp với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, vùng miền, địa
phương.

1


Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng được cải biến trên các

phương diện: Phát triển thể lực gắn với quá trình gia tăng chiều cao, cân nặng,
tuổi thọ, sức mạnh, cơ bắp… Phát triển trí lực với sự gia tăng năng lực trí tuệ
thể hiện trong quá trình tích lũy và khả năng vận dụng, định hướng, sáng tạo
từ trình độ văn hóa, trình độ học vấn ra hành vi con người nhằm đạt được mục
tiêu. Phát triển tâm lực chính là sự gia tăng những giá trị chuẩn mực đạo đức,
sự hoàn thiện nhân cách cá nhân.
Bên cạnh quá trình cải biến các thành tố cấu thành nguồn nhân lực cần
song hành quan tâm tới hiệu quả sử dụng chúng như thế nào? Hiệu quả chính
là kết quả đích thực như hiệu quả kinh tế, lao động có hiệu quả cao. Nâng cao
hiệu quả nguồn nhân lực không chỉ căn cứ vào sự gia tăng số lượng, chất
lượng nguồn nhân lực mà quan trọng hơn đó là những lợi ích, những tiến bộ,
những giá trị mà nó đem lại tạo thành cơ sở, động lực cho quá trình tạo lập và
sử dụng nguồn nhân lực toàn diện vì sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
1.1.2. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
*

Khái niệm CNH, HĐH

CNH, HĐH là xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới. Để
trở thành một đất nước phát triển, giàu có mỗi dân tộc đều phải trải qua quá
trình trên. Chỉ với CNH, HĐH các nước mới gắn liền với tiến trình xóa bỏ
nghèo nàn, lạc hậu chuyển từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và tự
động hóa; từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và dịch
vụ; xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Lịch sử công nghiệp hóa thế giới đã trải qua chiều dài 300 năm, diễn ra
ở các nước khác nhau, những thời điểm lịch sử và những điều kiện kinh tế xã
hội khác nhau, vì vậy nội dung khái niệm có sự khác nhau. Tổ chức Phát triển
công nghiệp của Liên hợp quốc đã đưa ra quan niệm: Công nghiệp hóa là một
quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng


2


các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển một cơ cấu kinh tế
nhiều ngành với kỹ thuật hiện đại. Quan niệm trên đã đưa công nghiệp hóa là
một quá trình bao trùm bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt nhiều
mục tiêu (cả kinh tế và xã hội), chứ không chỉ là mục tiêu kinh tế - kỹ thuật;
nó chỉ phù hợp với các nước phát triển.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam
xác định: "Công nghiệp hóa là quá trình thực hiện cách mạng khoa học kỹ
thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích lũy
xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng" [27, tr.32].
Đảng ta đã nhấn mạnh đến mục tiêu, nội dung, tính lịch sử của quá trình công
nghiệp hóa; vai trò của Đảng Cộng sản, của Nhà nước và của nhân dân lao
động trong công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ mới... tuy nhiên, quan điểm
trên dường như đã đồng nhất công nghiệp hóa với cách mạng kỹ thuật.
Tác giả Đỗ Quốc Sam đã đưa ra quan điểm công nghiệp hóa theo hai
khía cạnh nghĩa hẹp và nghĩa rộng, trong bài "Về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam" đăng trên Tạp chí Cộng sản số 11, tháng 6 - 2006. Theo
nghĩa hẹp, "Công nghiệp hóa được hiểu là quá trình chuyển dịch từ nền kinh
tế trong đó nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo sang nền kinh tế công nghiệp là
chủ đạo"; còn theo nghĩa rộng "Công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ
kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) sang kinh tế công nghiệp, từ xã
hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang xã
hội công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp sang văn minh công nghiệp". Theo tác
giả, công nghiệp hóa ở đây đã bao hàm cả một phần nội dung của hiện đại
hóa, không chỉ giới hạn ở khía cạnh kinh tế mà còn cả mặt xã hội và văn hóa.
Trên cơ sở những quan niệm của các tác giả trong và ngoài nước dù có
những điểm khác nhau vẫn thống nhất ở những điểm chung. Vậy, công nghiệp

hóa được khái quát như sau: Công nghiệp hóa là quá trình tạo sự chuyển biến
từ nền kinh tế nông nghiệp với cơ cấu kinh tế lạc hậu, dựa trên

2


lao động thủ công, năng suất thấp sang nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu
kinh tế hiện đại, dựa trên lao động sử dụng bằng máy móc, tạo ra năng suất
lao động cao.
Vào những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX, sự phát triển mạnh
mẽ của xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đã làm thay đổi tiến trình công
nghiệp hóa. Đó là, các nước công nghiệp hóa muộn đã không thể tiến hành
công nghiệp hóa tuần tự từ cơ khí hóa đến tự động hóa như những nước đi
trước, mà phải lồng ghép hai quá trình đó để tiến kịp thời đại. Vì vậy, tại Việt
Nam đã xuất hiện khái niệm mới: CNH, HĐH, thực chất là quá trình công
nghiệp hóa rút ngắn hiện đại.
Về ý nghĩa kinh tế, hiện đại hóa được quan niểm là quá trình chuyển
dịch căn bản từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại gắn với việc sử dụng
công nghệ tiên tiến hiện đại phù hợp với công nghệ của thế giới để chuyển đổi
cơ cấu kinh tế, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân
loại về CNH, HĐH vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa VII của Đảng ta chỉ rõ:
CNH," HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng
suất lao động cao"[12, tr.42]
Có thể khẳng định rằng CNH, HĐH là một cuộc cách mạng toàn diện

và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. CNH, HĐH trong
thời kỳ đổi mới ở nước ta là quá trình kết hợp chặt chẽ hai nội dung CNH và
HĐH, không chỉ dừng lại đơn thuần ở phát triển công nghiệp mà còn phải

2


thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền
kinh tế quốc dân theo hướng kĩ thuật và công nghệ hiện đại.
Sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải có những nguồn
lực cần thiết, tất yếu. Trong đó, yêu cầu cấp bách nhất hiện nay chính là
nguồn nhân lực phải đủ, phải mạnh hay chính là động lực phát triển.
*

Khái niệm CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một quá trình tất yếu để chuyển
một nền nông nghiệp lạc hậu thành một nền nông nghiệp hiện đại. Bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu,
sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là
nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt hàng đầu của toàn Đảng, toàn
dân. Là con đường nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập cho nông dân, làm cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội, củng cố liên minh công nông, đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Không thể đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại trong khi chưa thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra khái niệm CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn:
"CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản

toàn diện các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp và bộ mặt kinh tế xã hội nông thôn biến lao động thủ công thành lao động cơ giới đưa
sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn hàng hóa, là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng các hoạt
động sản xuất phi nông nghiệp nhằm khai thác mọi tiềm năng tạo ra
với lao động hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất trong nông nghiệp,
nông thôn từ đó biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội nông thôn tiến gần đến
thành thị"[16, tr.704].

2


Như vậy, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo định
hướng sản xuất hàng hóa lớn hiện đại gắn nông nghiệp với công nghiệp dịch
vụ cho phép phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông
nghiệp đất nước.
Muốn có quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đưa phương pháp
sản xuất công nghiệp máy móc thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ và tạo
ra cơ sở hạ tầng thích ứng trong sản xuất nông nghiệp và sản xuất ở nông
thôn. Nó không chỉ dừng lại ở quá trình nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật
vào công nghệ sản xuất vật chất, tạo ra một nền sản xuất có trình độ ngày
càng cao; mà còn không ngừng nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, phát
triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, hệ thống giáo dục đào tạo, y tế và các dịch
vụ khác của nông thôn, tổ chức đời sống ở nông thôn ngày càng văn minh,
tiến bộ. Như V.I.Lênin đã chỉ ra tầm quan trọng của khoa học kỹ thuật dẫn đến
sự thay đổi của người nông dân Nga: "Đối với những người tiểu nông thì chỉ
có cơ sở vật chất, kỹ thuật, những máy kéo và những máy móc quy mô lớn
trong nông nghiệp, điện khí hóa trên quy mô lớn… mới có thể làm cho toàn
bộ tâm lý có thể trở thành lớn mạnh được" [30, tr.72].
1.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta và tính tất

yếu khách quan về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay đang là nhiệm vụ trung tâm của
cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta. Chỉ có CNH, HĐH mới đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu;
như Các Mác khẳng định, những thời đại kinh tế khác nhau không phải chúng
sản xuất cái gì, mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào với những tư

2


liệu lao động nào. Vì vậy, trong thời đại ngày nay, CNH phải gắn với HĐH, là
vấn đề có tính quy luật nhằm xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ những năm 1960 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, lần
đầu tiên đường lối về công nghiệp hóa được Đảng đề ra. Đảng Lao động Việt
Nam khẳng định muốn cải biến tình trạng lạc hậu của nền kinh tế nước ta
không còn con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa; trong đó vấn đề quan trọng có tính chất quyết định là thực hiện trang bị
kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất,
nâng cao năng suất lao động.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện
trong nước và quốc tế, Đảng ta đã nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá
trình thực hiện CNH, HĐH đất nước. Những quan điểm CNH, HĐH được hội
nghị lần thứ 7, BCH TW khóa VII nêu ra và được phát triển bổ sung qua các
Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng.
Thứ nhất, CNH gắn với HĐH; công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức.
Với yêu cầu của thời đại, công nghiệp hóa không chỉ gắn với các mục

tiêu và giải pháp mang tính truyền thống như trước, mà phải đạt tới mục tiêu
hiện đại và dựa vào các công cụ hiện đại. Trong bối cảnh nước ta tiến hành
công nghiệp hóa thì điều kiện khoa học - kỹ thuật của thế giới phát triển
nhanh chóng; nhiều nước đã đi vào nền kinh tế tri thức, chu kỳ công nghệ, kỹ
thuật và sản phẩm ngày càng rút ngắn, đòi hỏi sự thường xuyên thay thế, nâng
cấp, hiện đại hóa những công nghệ thiết bị đã được đầu tư. Vì vậy, nếu không
kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa thì nền kinh tế Việt Nam không
những không đuổi kịp các nước xung quanh mà ngày càng tụt hậu xa hơn.
Thực chất đó là sự kết hợp giữa những bước phát triển tuần tự (công nghiệp
hóa) với những bước phát triển nhảy vọt (hiện đại hóa), hay đó chính là bước
"đi tắt, đón đầu" để đẩy nhanh thời gian xây dựng và hoàn bị sự nghiệp công

2


×