Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Chiến lược an ninh quốc gia liên bang nga dưới chính quyền tổng thống v PUTIN 2000 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.67 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ MINH PHƯỢNG

CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA
LIÊN BANG NGA DƯỚI CHÍNH QUYỀN
TỔNG THỐNG V.PUTIN 2000 - 2008

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------------------NGUYỄN THỊ MINH PHƯỢNG

CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA
LIÊN BANG NGA DƯỚI CHÍNH
QUYỀN TỔNG THỐNG V.PUTIN
2000 - 2008

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ
QUỐC TẾ MÃ SỐ: 60.31.40

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS NGUYỄN QUỐC HÙNG


HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1
2
3
4
5
CHƢƠNG 1 Những nhân tố tác động tới việc hình thành Chiến lƣợc

1.1
1.2
1.3
1.4
CHƢƠNG 2 Nội dung cơ bản của Chiến lƣợc an ninh quốc gia Liên

2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.4
2.4.1

1



2.4.2
2.4.2.1
2.4.2.2
2.4.2.3
2.4.3
2.4.4
2.4.5
CHƢƠNG 3
3.1
3.2
3.2.1
3.2.2
3.3
3.4
3.5
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

2


MỞ ĐẦU
Theo nguyên bản tiếng Nga, “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga” là
“Концепция национальной безопасности Российской Федерации”. Và từ
“Концепция” trong tiếng Việt có nghĩa là quan điểm, quan niệm (Từ “Chiến lược”
trong tiếng Nga là стратегия). Như vậy cũng hoàn toàn có thể dịch là “Quan điểm
về an ninh quốc gia của Liên bang Nga”. Tuy nhiên, để tiếp nối những nghiên cứu
liên quan đến văn kiện này đã có từ trước, học viên sử dụng thống nhất trong toàn
luận văn là “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga”.

1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong cục diện của Trật tự thế giới hai cực thời kỳ Chiến tranh lạnh, Liên
bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô) có vị thế quốc tế đặc
biệt quan trọng. Sự tan rã của Liên Xô đã tác động lớn đến những thay đổi trong
tương quan lực lượng trên thế giới, đồng thời tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ
trong nền chính trị thế giới và quan hệ quốc tế của các nước cũng như các khu vực
trên phạm vi toàn cầu.
Liên bang Nga, khi còn là một trong mười lăm nước Cộng hòa thuộc Liên
Xô, đã luôn có tiếng nói quyết định trong hầu hết các công việc nội trị và giữ vai trò
quan trọng trên trường quốc tế. Từ sau năm 1991, bước lên vũ đài quốc tế với tư
cách là một quốc gia độc lập, Liên bang Nga đã trải qua những giai đoạn khó khăn,
thăng trầm và đang không ngừng cố gắng để lấy lại hình ảnh là một cường quốc thế
giới - người kế tục Liên Xô. Đặc biệt, dưới chính quyền của Tổng thống Vladimir
Putin (V.Putin) - vị Tổng thống thứ hai của Liên bang Nga (2000 - 2008), với tiềm
năng sẵn có về địa lý tự nhiên, tài nguyên, dân số... và bằng hàng loạt các biện pháp
cải cách được tiến hành trong mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội đến
an ninh, quân sự, ngoại giao, Liên bang Nga đã từng bước tăng cường sức mạnh

3


quốc gia và vị thế quốc tế của mình. Từ một nước Nga hỗn loạn với một nền kinh tế
lạc hậu, nền chính trị rệu rã và quân sự bị thách thức nghiêm trọng, chính quyền
Tổng thống V.Putin đã vực dậy Liên bang Nga để trở thành một nước Nga tự tin
tiến bước trên con đường phát triển.
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, để đạt được những thành công như
vậy, chính quyền Tổng thống V.Putin đã có những bước điều chỉnh các chính sách
của quốc gia một cách đúng đắn, kịp thời. Ngay sau khi trở thành quyền Tổng thống
Liên bang Nga tháng 12 năm 1999, V.Putin ra chỉ thị số 24 ngày 10/01/2000 phê
duyệt “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga”. Văn kiện này là hệ thống các

quan điểm chính trị cơ bản trong chính sách của nhà nước Liên bang Nga về bảo
đảm an ninh cho cá nhân, xã hội và nhà nước, bảo vệ đất nước trước những mối đe
dọa từ bên ngoài và bên trong trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Chiến lược an ninh
quốc gia Liên bang Nga năm 2000 đã được sử dụng làm cơ sở hoạch định chính
sách đối nội và đối ngoại của nhà nước Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng
thống V.Putin nhằm nâng cao nội lực cũng như ảnh hưởng của Liên bang Nga trên
trường quốc tế khi bước vào thế kỷ XXI.
Cũng trong giai đoạn Tổng thống V.Putin lãnh đạo nước Nga, quan hệ hợp
tác giữa Liên bang Nga với Việt Nam đã có những thay đổi tích cực. Sau một thời
kỳ ngưng trệ do hậu quả của việc Liên Xô tan rã, với những điều chỉnh trong các
chính sách của chính quyền Tổng thống V.Putin, quan hệ với Việt Nam đã dần phục
hồi và có những bước phát triển tốt đẹp. Trước nhiều biến động phức tạp của tình
hình thế giới, hai nước đều đang tiếp tục tiến hành các biện pháp cải cách trên mọi
lĩnh vực cả đối nội và đối ngoại. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường quan hệ đối tác
chiến lược đã được khẳng định vào năm 2001 có ý nghĩa quan trọng đối với cả Liên
bang Nga và Việt Nam góp phần vào việc duy trì môi trường hòa bình, ồn định
nhằm củng cố, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.

4


Xuất phát từ vị trí quốc tế của Liên bang Nga trong quá khứ, hiện tại và
tương lai, từ ý nghĩa của mối quan hệ Việt - Nga cùng với mong muốn tiếp tục phát
triển mối quan hệ ấy, việc nghiên cứu tình hình, chính sách đối nội và đối ngoại
cũng như những thay đổi lớn lao của đất nước này, đặc biệt dưới chính quyền Tổng
thống V.Putin 2000 - 2008 có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với
Việt Nam. Nghiên cứu về nước Nga sẽ góp phần nhận thức đúng đắn những thay
đổi trong tình hình mọi mặt của Liên bang Nga, chính sách qua các thời kỳ Tổng
thống cũng như tìm hiểu và xác định những cơ sở từ việc thực thi các chính sách
của Liên bang Nga nhằm thúc đẩy mối quan hệ hợp tác với Việt Nam trong những

năm tới.
Với những lý do trên, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài “Chiến lược an ninh
quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008” - văn
kiện bao gồm những đường hướng quan trọng nhất trong chính sách của nhà nước
Liên bang Nga giai đoạn 2000 - 2008 - làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, kể từ khi V.Putin xuất hiện trên chính
trường nước Nga với tư cách là vị Tổng thống thứ hai, Liên bang Nga đã khoác lên
mình một diện mạo mới, nhiều đổi thay về mọi mặt. Cũng từ thời điểm này, có rất
nhiều nghiên cứu xoay quanh nhân vật V.Putin - vị Tổng thống được người dân Nga
và thế giới nhìn nhận là đã góp phần quan trọng làm nên những thay đổi đó. Những
học giả ở nhiều nước trên thế giới, bằng nhiều thứ tiếng khác nhau đã nghiên cứu về
tiểu sử của V.Putin, về con đường đến với cương vị Tổng thống Liên bang Nga, về
các chính sách của nhà nước giai đoạn những năm ông cầm quyền và thành quả của
những chính sách đó…


Việt Nam, những nghiên cứu về Liên bang Nga không phải là mới mẻ.

Đây là đề tài mà các nhà nghiên cứu Việt Nam luôn quan tâm, nghiên cứu, phân tích
xuất phát từ vị thế của Liên bang Nga trên trường quốc tế cũng như từ vị trí của

5


mối quan hệ Việt - Nga, Nga - Việt trong chính sách của hai nước. Đặc biệt, những
năm đầu thế kỷ XXI, trước những thay đổi của nước Nga dưới chính quyền Tổng
thống V.Putin, các nhà nghiên cứu đã tiếp tục lựa chọn đề tài về nước Nga giai đoạn
này và con người của V.Putin nhằm bổ sung thêm vào kho kiến thức về Liên bang
Nga qua các thời kỳ lịch sử.

Có thể chia những nghiên cứu xoay quanh nhân vật V.Putin theo hai nhóm:
Nhóm thứ nhất là những nghiên cứu về Tổng thống V.Putin như các cuốn
sách Putin - Sự trỗi dậy của một con người của Trương Dự (2006), Bản lĩnh Putin
của Đường Anh Hào - Triệu Anh Ba (2008), Các đời Tổng thống Nga của Leonid
Mlechin (2008)… Những tác phẩm này tìm hiểu về tiểu sử của V.Putin, về con
đường từ một nhà tình báo KGB đến với cương vị Thủ tướng rồi Tổng thống Liên
bang Nga và cũng đề cập đến một số chính sách quan trọng trong những năm lãnh
đạo đất nước của Tổng thống V.Putin. Các nghiên cứu đã cho chúng ta thấy được
con người từ tính cách, sở thích, bản lĩnh đến con đường sự nghiệp của V.Putin.
Nhóm thứ hai là những nghiên cứu về các chính sách của Liên bang Nga và
về tình hình mọi mặt của nước Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin. Có thể
kể đến các cuốn sách: Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI của A.P. Côchétcốp (2004),
Chuyển đổi kinh tế thị trường của Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI của
Nguyễn Đình Hương (2005), Nước Nga trên trường quốc tế hôm qua, hôm nay và
ngày mai của Hà Mỹ Hương (2006), Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan
hệ với Việt Nam của Nguyễn Xuân Sơn - Nguyễn Văn Du (đồng chủ biên) (2006),
Liên bang Nga trên con đường phát triển những năm đầu thế kỷ XXI của Nguyễn
An Hà (chủ biên) (2008), Kinh tế - xã hội Liên bang Nga thời kỳ hậu Xô viết của
Nguyễn Thị Huyền Sâm (2009),.. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp
chí của Nga cũng như trên các tạp chí của Việt Nam: Россия 2004 của Примаков
Е., Русская Газета (№ 17/1 - 2005), Россия в 2000 - 2004 годах на пути к
государственному капитализму của Радыгин А., Вопросы экономики

6


(№ 4 - 2004), Российские интересы в АТР của М. Титаренко, Азия и Африка
(№ 4 - 2005), Kinh tế Liên bang Nga hai thập niên đầu thế kỷ XXI của Nguyễn Văn
Tâm, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (Số 44 - 2004), Liên bang Nga
những năm đầu thế kỷ XXI: thực trạng và triển vọng của Nguyễn Quang Thuấn,

Tạp chí Thông tin đối ngoại (Số 3 - 2006),… Đây là mảng đề tài rất rộng được
nhiều nhà nghiên cứu đi sâu phân tích tìm hiểu về các chính sách của Liên bang
Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin trong nhiều lĩnh vực, cả đối nội, đối
ngoại, từ kinh tế, đến chính trị, ngoại giao… và nêu lên những thay đổi trong các
chính sách đó so với các giai đoạn trước. Đồng thời các nghiên cứu cũng nhằm mục
đích phác họa bức tranh mọi mặt của đất nước Liên bang Nga dưới chính quyền
Tổng thống V.Putin để từ đó cho thấy các yếu tố cấu thành nên nội lực quốc gia
cũng như vị thế quốc tế của đất nước này trong giai đoạn 2000 - 2008.
Có thể thấy rằng đã có rất nhiều nghiên cứu về Liên bang Nga và về Tổng
thống V.Putin. Tuy có khác nhau về quy mô công trình, phạm vi nghiên cứu nhưng
các nhà khoa học đều thống nhất rằng các chính sách của chính quyền Tổng thống
V.Putin đã giúp Liên bang Nga có những thay đổi tích cực về mọi mặt và mặc dù
còn rất nhiều khó khăn nhưng nước Nga ngày nay đang ngày càng lấy lại được ảnh
hưởng đối với thế giới và khu vực.
Liên quan đến văn kiện “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga” năm
2000, các nhà nghiên cứu phân tích Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga
nhằm mục đích làm rõ các chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực khác nhau để đi
đến khẳng định vai trò quan trọng của văn kiện là cơ sở hoạch định các chính sách
của nhà nước dưới chính quyền Tổng thống V.Putin. Luận văn mong muốn bổ sung
những nghiên cứu toàn diện về Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga, việc
thực thi và những thành quả cũng như những vấn đề còn tồn tại dưới chính quyền
Tổng thống V.Putin 2000 - 2008.

7


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang
Nga dưới Chính quyền Tổng thống V.Putin.
Luận văn sẽ trình bày, phân tích các nội dung sau:

-

Những nhân tố tác động tới việc hình thành Chiến lược an ninh quốc gia

Liên bang Nga năm 2000.
-

Nội dung văn kiện “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga” được công

bố kèm theo chỉ thị số 24 ngày 10/01/2000, với các nội dung cơ bản như: vị thế
quốc tế và các lợi ích quốc gia của Liên bang Nga; những mối đe dọa đối với an
ninh quốc gia cùng các chính sách của nhà nước và việc thiết lập hệ thống thực hiện
các chính sách đó nhằm đảm bảo an ninh quốc gia Liên bang Nga.
-

Việc thực thi và đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược an ninh quốc gia

dưới chính quyền Tổng thống V.Putin cũng như những điều chỉnh trong thời kỳ
Tổng thống kế nhiệm - Dmitri Medvedev (D.Medvedev).
Đồng thời, luận văn cũng phân tích tác động của việc thực thi Chiến lược an
ninh quốc gia Liên bang Nga tới mối quan hệ giữa Liên bang Nga với một số đối
tác và quan hệ với Việt Nam trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống V.Putin.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tìm hiểu Chiến lược an ninh quốc gia Liên
bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008. Tuy nhiên để làm rõ
hơn Chiến lược an ninh quốc gia trong giai đoạn này, luận văn sẽ phân tích tình
hình thế giới, khu vực và Liên bang Nga từ những năm cuối thế kỷ XX.
Từ những phân tích trên, luận văn mong muốn trả lời câu hỏi: Nước Nga
dưới chính quyền Tổng thống V.Putin đã có những thành công và hạn chế gì trong
việc bảo vệ an ninh quốc gia để góp phần quan trọng vào việc nâng cao nội lực
cũng như vị thế trên trường quốc tế?


8


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Từ các nguồn tài liệu sưu tầm được, luận văn được thực hiện trên cơ sở vận
dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp logic, phương pháp
lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, hệ thống….Trong đó, phương
pháp lịch sử và phương pháp so sánh là chủ yếu.
Bằng các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã luận giải về sự hình thành,
quá trình thực thi và đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược an ninh quốc gia Liên
bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin, góp phần làm sáng tỏ những điều
chỉnh về chiến lược, chính sách và những thay đổi tích cực cũng như những vấn đề
còn tồn tại của nước Nga trong những năm đầu thế kỷ XXI.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, luận văn gồm ba chương:
* Chƣơng 1 trình bày những nhân tố tác động tới việc hình thành Chiến lược

an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008.

Chương này tập trung phân tích những nhân tố từ tình hình thế giới, tình hình khu
vực và nước Nga vào những năm cuối của thế kỷ XX. Đồng thời, cũng đề cập đến
nhân tố cá nhân nhà lãnh đạo - Tổng thống V.Putin trong việc hình thành Chiến lược
an ninh quốc gia Liên bang Nga.
*

Chƣơng 2 giới thiệu những nội dung cơ bản trong văn kiện “Chiến lược an

ninh quốc gia Liên bang Nga” được công bố kèm theo chỉ thị số 24 ngày
10/01/2000 của Tổng thống V.Putin.

*

Chƣơng 3 phân tích các chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực nhằm thực

thi Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga và đánh giá về thành tựu, thách thức
trong quá trình thực thi đó cũng như tác động tới mối quan hệ giữa Liên bang Nga
với một số đối tác, khu vực. Ngoài ra, cũng trình bày về mối quan hệ Nga - Việt
trong giai đoạn 2000 - 2008, dưới chính quyền Tổng thống V.Putin. Phần cuối cung

9


cấp một số điều chỉnh của Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga trong giai
đoạn sau khi kết thúc nhiệm kỳ Tổng thống của V.Putin.
***
Với tất cả những nghiên cứu, phân tích được trình bày, luận văn “Chiến lược
an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008”
mong muốn trở thành một tài liệu tham khảo cho bạn đọc rộng rãi có quan tâm tới
Liên bang Nga cũng như tới mối quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia Việt Nam và
Liên bang Nga trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

10


CHƢƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆC HÌNH
THÀNH CHIẾN LƢỢC AN NINH QUỐC GIA LIÊN
BANG NGA DƢỚI CHÍNH QUYỀN TỔNG THỐNG
V.PUTIN 2000 - 2008
Chiến lược an ninh quốc gia phản ánh lợi ích của quốc gia - dân tộc đồng thời

là công cụ bảo vệ lợi ích đó, là đường lối chỉ đạo việc huy động và phối hợp mọi
nguồn lực quốc gia, mọi điều kiện khách quan bên trong và bên ngoài để bảo vệ lợi
ích quốc gia, chủ yếu là đảm bảo an ninh, môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát
triển, bảo đảm khẳng định và nâng cao địa vị của nước đó trên trường quốc tế.
Để hình thành chiến lược an ninh quốc gia, bất kỳ một quốc gia nào cũng
phải xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực cũng như dựa trên thực lực của đất
nước và quan điểm lãnh đạo của giới cầm quyền.
Tháng 12 năm 1997, Tổng thống B.Yeltsin đã phê duyệt “Học thuyết an ninh
quốc gia Liên bang Nga” với nội dung bao gồm các định hướng, nguyên tắc chính
của nền chính trị quốc gia, làm cơ sở cho việc tổ chức triển khai các kế hoạch thuộc
lĩnh vực bảo đảm an ninh quốc gia. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước, quốc tế lúc
bấy giờ cùng với sự suy giảm uy tín của Tổng thống B.Yeltsin và Chính phủ của
ông, văn kiện này đã mất đi vai trò là văn kiện chủ đạo trong việc lãnh đạo đất nước
thoát khỏi khó khăn về mọi mặt và tìm lại vị trí xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.
“Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga” được Tổng thống V.Putin phê
duyệt vào tháng 1 năm 2000 có nghĩa là chỉ hơn 2 năm sau khi “Học thuyết an ninh
quốc gia Liên bang Nga” của Tổng thống B.Yeltsin được thông qua. Mặc dù vậy,
nếu xem xét những nhân tố tác động tới việc hình thành Chiến lược an ninh quốc
gia Liên bang Nga (2000) cần phải xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và tình

11


hình Liên bang Nga suốt thập niên cuối cùng của thế kỷ XX - từ sau khi Liên Xô
tan rã.
1.1 Tình hình thế giới
Tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XX có nhiều diễn biến phức tạp.
Cuối năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,
tƣơng quan lực lƣợng quốc tế và trật tự thế giới đã thay đổi căn bản. Cuộc
chiến tranh lạnh kéo dài trong nhiều năm giữa hai phe đứng đầu là Liên Xô và Mỹ

đại diện cho hai chế độ xã hội khác nhau, một bên là Xã hội chủ nghĩa và một bên
là Tư bản chủ nghĩa đã chấm dứt. Một môi trường quốc tế mới được mở ra vừa tạo
những cơ hội, vừa tạo những thách thức đối với các nước trên thế giới cũng như đối
với Liên bang Nga.
Trước hết, chiến tranh lạnh chấm dứt cho thấy xu hướng đối thoại, hợp tác
đang thay thế dần xu hướng đối đầu trước kia. Đây là điều kiện thuận lợi để Liên
bang Nga cũng như nhiều nước trên thế giới thuộc phe xã hội chủ nghĩa trước đây
và các nước đang phát triển hay chậm phát triển mở rộng quan hệ hợp tác trên mọi
lĩnh vực với tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước tư bản chủ nghĩa.
Mặt khác, chiến tranh lạnh kết thúc đánh dấu khởi điểm thế giới bước vào
một quá trình hình thành trật tự thế giới mới chưa xác định rõ ràng với sự nổi trội
của Mỹ.
Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ có cơ hội thực hiện mưu đồ chi phối và bá chủ
thế giới. Mỹ tiến hành điều chỉnh các chiến lược quốc gia, chính sách đối nội cũng
như đối ngoại nhằm củng cố vị trí siêu cường duy nhất của mình. Với chiến lược
toàn cầu, Mỹ đã cho thấy tham vọng mở rộng bá quyền khắp thế giới, từ Âu sang Á
nhằm xây dựng một trật tự thế giới mới do Mỹ đứng đầu.
Bên cạnh một siêu cường - nước Mỹ, vũ đài chính trị quốc tế còn ghi nhận sự
nổi lên của một Liên minh Châu Âu (EU) với cố gắng ổn định và đẩy mạnh liên kết

12


để phát triển, một Đông Á với Nhật Bản vẫn tiếp tục phát triển, Trung Quốc, Hàn
Quốc đang trên đà đi lên như vũ bão, Ấn Độ như một ẩn số khó dự đoán… và một
nước Nga với rất nhiều kế thừa và cả gánh nặng từ Liên Xô đang từng bước khắc
phục những khó khăn để cố gắng vươn mình tìm lại vị trí xứng đáng trên trường
quốc tế.
Trong bối cảnh đó, quan hệ lợi ích và sự nảy sinh mâu thuẫn lợi ích giữa các
nước lớn diễn biến đầy phức tạp: Quan hệ Trung - Mỹ nhiều lúc căng thẳng, có lúc

dịu đi xung quanh vấn đề Đài Loan; quan hệ Nga - Nhật về tranh chấp quần đảo
Kurin; thái độ khác nhau của các nước lớn về vấn đề hai miền Triều Tiên và vấn đề
hạt nhân ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên; vấn đề tranh chấp Biển
Đông,.v.v. [23, tr. 35]. Mặt khác, các nước lớn lại cần hợp tác với nhau. Các quan hệ
tay đôi như Mỹ - Trung, Mỹ - Nga, Nga - Trung, Trung - Nhật, Nhật - Nga, Trung Ấn, Mỹ - Ấn, Ấn - Nga, các quan hệ tay ba như Mỹ - Nhật - Trung, Mỹ - Nhật Nga,…đan xen nhau, trong đó có những quan hệ đồng minh, đối tác và đối thủ, hợp
tác và cạnh tranh, kiềm chế và tiếp xúc.
Với bối cảnh chính trị thế giới như vậy, hầu như các nước, đặc biệt là các
nước lớn đều có sự thay đổi căn bản hoặc điều chỉnh với mức độ lớn các chiến lược,
chính sách quốc gia của mình. Đây cũng chính là việc mà Tổng thống V.Putin đã
làm với nước Nga trước những biến động chung của thời đại.
Việc hoạch định chiến lược của các quốc gia còn chịu sự chi phối bởi những
xu hướng phát triển của kinh tế thế giới và các khu vực. Những xu hướng lớn của
nền kinh tế thế giới từ cuối thế kỷ XX là toàn cầu hóa kinh tế, tự do hóa thƣơng
mại, những tiến bộ vƣợt bậc về khoa học và công nghệ và tác động của chúng
đối với kinh tế thế giới hay sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức.
Hiện nay, với các xu hướng này, các quốc gia có thể nhanh chóng hội nhập và tiếp
cận thị trường thế giới, tiếp cận được những thành quả sáng tạo về khoa học công
nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất và kinh doanh nhằm thúc đẩy cải cách sâu

13


rộng nền kinh tế quốc gia và sự hợp tác khu vực, nâng cao khả năng cạnh tranh
trong nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, các nước đều hiểu rằng với những xu hướng
đó không chỉ tạo ra những khả năng, địa bàn rộng lớn cho sự phát triển kinh tế mà
còn dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột, những cạnh tranh gay gắt, những biến
động về thị trường, về cung cấp nguyên vật liệu, năng lượng hay những thay đổi đột
ngột về tương quan lực lượng kinh tế trên thế giới.
Trên bản đồ kinh tế thế giới sau chiến tranh lạnh không thể không nhắc đến
nhân tố Mỹ với vị trí đứng đầu thế giới về kinh tế, dẫn đầu trong lĩnh vực khoa học

-

công nghệ cao. Mỹ vừa là đối tác lớn nhất, thị trường lớn nhất và cũng là đối thủ

cạnh tranh lớn nhất của các nước lớn. Giờ đây, sức mạnh kinh tế của Mỹ đang bị
cạnh tranh bởi EU, Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ. EU là một siêu cường kinh tế,
không thua kém Mỹ về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chỉ số xuất nhập khẩu…,
nhưng về vốn vẫn thua kém Mỹ và nhiều mặt quan trọng khác, đặc biệt về khoa học
-

công nghệ [23, tr. 32]. Trung Quốc - xét riêng trên lĩnh vực kinh tế - có một vị trí

rất quan trọng, là một thị trường lớn với khoảng 1,3 tỷ dân, là nước có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao nhất thế giới trong hàng chục năm qua. Nhật Bản vẫn là một
người khổng lồ về kinh tế, là một trong ba trụ cột của kinh tế thế giới. Ấn Độ cũng
đang có những bước phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là phát
triển dịch vụ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các dịch vụ hiện đại. Những
trung tâm này đang đe dọa tới vị trí đứng đầu của Mỹ trong nền kinh tế thế giới
đồng thời cũng đang cạnh tranh với nhau để củng cố vị thế của mình.
Trong cục diện kinh tế thế giới như vậy, để hoạch định được các chiến lược
quốc gia, các nước lớn đều nỗ lực tối đa trong việc dự báo những biến động của
kinh tế thế giới và những diễn biến về tương quan lực lượng giữa các cường quốc,
các khối trong lĩnh vực kinh tế. Trên bản đồ kinh tế thế giới đó, nước Nga chưa thể
khắc phục được hết khó khăn để trở thành siêu cường kinh tế song với việc hình
thành Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga, Tổng thống V.Putin hướng tới

14


ổn định an ninh kinh tế, ngày càng nâng cao địa vị kinh tế của nước Nga trong

tương quan giữa các nước lớn.
Trong quá trình hoạch định chiến lược quốc gia, các quốc gia còn phải chú
trọng tới các nhân tố như tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt là dầu mỏ), tài nguyên
chất xám.v.v. Từ những năm cuối thế kỷ XX và trong nhiều thập niên tới, cuộc
cạnh tranh để giành giật tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên chất xám còn diễn ra
và ngày càng gay gắt hơn. Bên cạnh đó, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột
vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp, lật đổ còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày
càng tăng và khó dự đoán. Cục diện thế giới là bất ổn, không thái bình, căng thẳng,
luôn xáo trộn với sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh, xung đột cục bộ dưới nhiều
hình thức, cả về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống [32, tr. 64]. Đồng
thời, thế giới cũng phải đối diện với nhiều nguy cơ gây bất ổn khác. Chủ nghĩa
thực dân cũ đã bị sụp đổ lại gia tăng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly
khai dân tộc, phân biệt chủng tộc và cực kỳ dã man là chủ nghĩa phát xít mới,
chủ nghĩa khủng bố. Nạn buôn lậu vũ khí, các tổ chức maphia và tội phạm
quốc tế, nạn ô nhiễm môi trƣờng và các dịch bệnh lạ.v.v cũng ngày càng gia
tăng trên phạm vi toàn cầu. Những nguy cơ này đang trở thành mối đe dọa lớn đối
với hòa bình, an ninh và sự phát triển bền vững của toàn nhân loại.
Những đặc điểm tình hình thế giới như vậy có tác động tới tất cả các quốc gia
trên thế giới, đòi hỏi các quốc gia đều phải có sự điều chỉnh các chiến lược, chính
sách cho phù hợp với tình hình mới. V.Putin phê duyệt Chiến lược an ninh quốc gia
Liên bang Nga với mục đích đưa đất nước từng bước khắc phục khó khăn, ổn định
tình hình trong nước và hướng tới vị trí xứng đáng trong một trật tự thế giới mới.
1.2 Những xung đột trong Cộng đồng các quốc gia độc lập
Ra đời tháng 12 năm 1991, Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) gồm
nhiều nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây được coi như là sự cứu vãn việc sụp

15



đổ của Liên bang Xô viết. Cùng với thời gian, SNG đã có những bước phát triển
mới với sự liên kết chặt chẽ hơn, nhất là về kinh tế và an ninh quốc phòng. Tuy
nhiên, trong quan hệ giữa các nước SNG vẫn còn tồn tại các cuộc xung đột - tranh
chấp phức tạp trên nhiều lĩnh vực.
Trước hết phải kể đến vấn đề người Nga ở các nước “cận ngoại biên”. Vấn đề
quyền của các dân tộc thiểu số nói chung, người Nga nói riêng ở các nước “cận
ngoại biên” đã trở thành nguyên nhân hoặc là một trong những nhuồn gốc quan
trọng nhất của phần lớn các cuộc xung đột trong không gian hậu Xô Viết. Nước Nga
luôn quan tâm sâu sắc tới vấn đề quyền công dân của những người nói tiếng Nga
trong SNG. Do chịu sự phân biệt đối xử ở một số nước SNG, nhiều người Nga đã
hồi hương về nước. Chỉ tính riêng năm 1994, dòng người hồi hương đã lên đến gần
ba triệu người [10, tr. 88]. Nước Nga mong muốn việc bảo vệ quyền con người và
các dân tộc thiểu số trở thành một trong những hoạt động chủ yếu của SNG. Do
vậy, đó cũng là một trong những ưu tiên cơ bản trong các chính sách của Nhà nước
Liên bang Nga đặc biệt là chính sách đối ngoại.
Vấn đề nổi cộm thứ hai tại khu vực này là tranh chấp giữa Nga và Ucraina.
Đây là hai nước cộng hòa lớn thuộc Liên Xô, hơn hẳn các quốc gia mới khác về dân
số, tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự. Quan hệ giữa hai nước này chứa đựng
nhiều yếu tố bất lợi nhất cho xu hướng liên kết SNG mà tập trung là vấn đề xử lý
kho vũ khí hạt nhân ở Ucraina, vấn đề Krym với hạt nhân là cảng Sevastopol và
hạm đội Biển Đen. Đây chính là ngòi nổ cho sự xung đột giữa hai quốc gia. Tuy
nhiên, do những khó khăn về kinh tế, sự bất ổn về chính trị và nhiều vấn đề phức
tạp khác trong tình hình khu vực đặc biệt là chiến lược mở rộng của Khối quân sự
Bắc Đại Tây Dương (NATO), các nước SNG nói chung, Nga và Ucraina nói riêng
đã có những nhượng bộ nhất định trong chiến lược và chính sách của từng quốc gia
hướng tới cải thiện mối quan hệ giữa các nước.

16



Một điểm nóng nữa trong khu vực chính là vùng Kavkaz. Vì đây là địa bàn
chiến lược quan trọng đối với cả Nga và các nước phần châu Á của Liên Xô, là cửa
ngõ đi vào thế giới đạo Hồi, nên ở đây có nhiều nước tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào các xung đột (Ví dụ như xung đột giữa Azerbaijan và Armenia ở Nargonoi
Karabakh, xung đột giữa Abkhazia đòi độc lập với Gruzia, giữa Chechnya muốn
tách khỏi Liên bang Nga…). Do vậy, việc giải quyết xung đột ở khu vực này trở
nên vô cùng phức tạp và luôn được sự quan tâm của các quốc gia.
Sự mất ổn định trong SNG rõ ràng còn lâu dài và vai trò của Liên bang Nga
thực sự quan trọng trong việc giảm thiểu phạm vi và kiềm chế xung đột trong
những giới hạn nhất định. Đó cũng chính là mong muốn của nước Nga được thể
hiện trong việc hoạch định các chiến lược quốc gia của mình với mục đích vì một
nền hòa bình chung trong không gian hậu Xô Viết.
1.3 Khó khăn chồng chất trong nƣớc
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Liên bang Nga là quốc gia kế thừa chủ yếu Liên Xô
với 70% lãnh thổ, 61% dân số, 70% ngoại thương, 60% công nghiệp, 90% dầu khí,
70% lực lượng quân sự, 80% kho vũ khí hạt nhân và 10/17 nhà máy điện hạt nhân
[20, tr. 16]. Ngoài ra, Liên bang Nga còn nhanh chóng kế thừa quyền lợi và nghĩa
vụ của Liên Xô trên tất cả các bình diện. Phương Tây và các nước lớn cũng tiếp
nhận quy chế Liên bang Nga với tư cách là quốc gia kế tục Liên Xô, mà trước hết là
chuyển giao cho nước Nga chiếc ghế Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc. Và chỉ đến tháng 1 năm 1992, tức là rất nhanh sau khi Liên Xô tan rã, đã
có 131 nước trên thế giới công nhận nước Nga, còn các Đại sứ của Liên Xô được
thừa nhận là Đại sứ Nga mà không cần chuyển giao đặc nhiệm - trao lại ủy nhiệm
thư [22, tr. 10].
Tuy nhiên, trong thực tế, những năm cuối của thế kỷ XX, Liên bang Nga chỉ
được biết đến với tư cách là một “quốc gia hạng hai” cùng hàng loạt các khó khăn
chồng chất về nhiều mặt.

17



* Về chính trị
Nền chính trị Liên bang Nga vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX có đặc
điểm nổi bật là sự mất ổn định và sự đối đầu tranh giành quyền lực giữa các thế lực.
Năm 1991, sau cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên, B.Yeltsin đã đắc cử Tổng
thống với 57% số phiếu bầu. Và cũng từ đó, cuộc tranh giành quyền lực diễn ra gay
gắt trong chính quyền mới của nước Nga. Mâu thuẫn giữa lực lượng của Tổng
thống B.Yeltsin (chủ trương thiết lập thể chế nhà nước Cộng hòa tổng thống) với
lực lượng do Chủ tịch Xô Viết tối cao R.Khasbulatov và Phó Tổng thống A.Ruskoi
đứng đầu (chủ trương thiết lập thể chế Cộng hòa nghị viện), được đẩy đến đỉnh
điểm là cuộc xung đột vũ trang vào tháng 9 năm 1993. Cuối cùng, phe nhóm của
Tổng thống B.Yeltsin đã giành thắng lợi.
Ngày 12 tháng 12 năm 1993, Tổng thống B.Yeltsin tổ chức trưng cầu dân ý,
thông qua Hiến pháp và bầu Quốc hội mới. Với chế độ cộng hòa tổng thống và
Quốc hội gồm hai viện là Thượng viện (Hội đồng liên bang) và Hạ viện (Đuma
quốc gia), quyền lực tập trung chủ yếu trong tay Tổng thống, trực tiếp chỉ huy các
Bộ Quốc phòng, An ninh, Ngoại giao, Nội vụ. B.Yeltsin đã dàn xếp với các lực
lượng chính trị, ký kết thỏa ước cam kết không dùng vũ lực để giành chính quyền.
Tổng thống tiến hành thay đổi, đưa một số người có quan điểm cải cách ôn hòa vào
chính phủ để giảm bớt sức ép của phe đối lập đối với chính phủ và Tổng thống. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của tình hình kinh tế và việc đưa quân vào Chechnya (121994), uy tín của Tổng thống và chính phủ sụt giảm nghiêm trọng. Trong nội bộ
chính phủ và giữa các phe phái diễn ra sự phân hóa gay gắt. Tháng 6 năm 1995,
Duma ra Nghị quyết bất tín nhiệm chính phủ Chernomyrdin. Để tránh đổ vỡ và một
phần do tương quan lực lượng chưa đủ áp đảo, hai bên đã phải đi đến một sự thỏa
hiệp. Tổng thống B.Yeltsin phải cách chức Bộ trưởng An ninh, Nội vụ và Bộ trưởng
phụ trách các vấn đề dân tộc và chính sách khu vực, còn chính phủ Chernomyrdin
được tiếp tục duy trì.

18



Năm 1996 diễn ra cuộc bầu cử tổng thống nhiệm kỳ 4 năm (1996 - 2000), và
B.Yeltsin lại tái đắc cử sau hai vòng bỏ phiếu để tiếp tục giữ chức Tổng thống Liên
bang Nga nhiệm kỳ hai đến tháng 6 năm 2000. Trong nhiệm kỳ hai này, B.Yeltsin
đã làm nhiều việc để xoa dịu mâu thuẫn giữa các lực lượng chính trị nhưng đều
không đạt được ý muốn. Lực lượng cánh tả, lực lượng đối lập vẫn tiếp tục đấu tranh
quyết liệt đòi thay đổi đường lối, luận tội và phế truất Tổng thống. Bên cạnh đó là
cuộc tranh giành giữa các đảng phái và đặc biệt là mâu thuẫn giữa chính quyền
trung ương với các chủ thể của Liên bang. Các khu vực, các nước Cộng hòa tự trị
đấu tranh với chính quyền trung ương để đòi quyền tự chủ, tự quyết lớn hơn hoặc
đòi ly khai. Nóng bỏng và phức tạp nhất là vùng Bắc Kavkaz với vấn đề Chechnya.
Trước tình hình tiềm ẩn nhiều nhân tố bất trắc như vậy, Tổng thống B.Yeltsin
đã tuyên bố từ chức trước thời hạn 6 tháng và đề nghị V.Putin, lúc đó là Thủ tướng
lên nắm quyền Tổng thống Liên bang Nga. Sau cuộc bầu cử tổng thống nhiệm kỳ
BI

ngày 26/3/2000, V.Putin đã thắng cử và trở thành Tổng thống, chính thức mở ra

một giai đoạn mới của đất nước Liên bang Nga.
* Về kinh tế
Đặc điểm của nền kinh tế Liên bang Nga vào thập niên 90 của thế kỷ XX là
bất ổn với hàng loạt các chỉ số lạm phát cao, tăng trưởng liên tục ở mức âm, các
ngành sản xuất đều giảm sút, thiếu hụt triền miên tư liệu sản xuất và các mặt hàng
thiết yếu phục vụ nhu cầu trong nước như lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng.
Căn nguyên của những bất ổn đó có nguồn gốc từ thời kỳ Xô viết trước đây.
Hậu quả của thời kinh tế bao cấp và 5 năm cải tổ thời Gorbachev (1986 - 1991) đã
để lại cho Liên bang Nga một di sản nặng nề trên mọi mặt của nền kinh tế. Năm
1991, nước Nga bắt tay vào cải cách kinh tế trong điều kiện hết sức khó khăn.
Chương trình cải cách kinh tế “Liệu pháp sốc”, thả nổi giá cả, tư nhân hóa ồ ạt, cơ
cấu lại nền kinh tế, tự do hóa kinh tế, bãi bỏ kiểm soát hối đoái, đã bị thất bại thảm


19


hại. Thêm vào đó, xung đột vũ trang và khủng hoảng chính trị càng làm cho nền
kinh tế nước Nga tiếp tục suy giảm.
Mặt khác, việc Liên Xô tan rã làm cho quan hệ liên kết kinh tế giữa nước Nga
với các nước Cộng hòa Xô viết trước đây - vốn là mối liên kết của một nền kinh tế
thống nhất trong đa dạng - bị phá vỡ và gián đoạn. Cùng với đó, sự giải thể của Hội
đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã ảnh hưởng lớn làm nước Nga mất đi phần thị
trường nước ngoài truyền thống, nơi chiếm 2/3 hoạt động xuất nhập khẩu của Liên
Xô trước đây.
Từ vô vàn những khó khăn như thế nên điểm nổi bật của nền kinh tế Liên
bang Nga trong giai đoạn này là lạm phát phi mã và luôn có nguy cơ trở thành siêu
lạm phát. Cùng với lạm phát cao, nền kinh tế Liên bang Nga rơi vào tình trạng suy
thoái kéo dài, GDP luôn tăng trưởng âm trừ năm 1997 và 1999 nhưng cũng chỉ đạt
được ở mức thấp (0,4% năm 1997 và 1,8% năm 1999) [19].
Nền công nghiệp Liên bang Nga sa sút nghiêm trọng. Việc sử dụng không hết
công suất của các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp trở nên phổ biến. Kéo theo đó là
sự giảm sút công việc và khối lượng lao động ở nhiều ngành khác nhau. Năng suất
lao động trong công nghiệp cũng liên tục giảm. Vì vậy, sản lượng công nghiệp của
Liên bang Nga trong tổng sản lượng công nghiệp toàn thế giới thời gian 1992 - 1997
giảm 2 lần (từ 3,5% xuống 1,8%) [19].
Trong nông nghiệp, mặc dù là nước có tiềm năng phát triển nông nghiệp,
nhưng vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, Liên bang Nga lại luôn phải đối mặt
với tình trạng thiếu hụt lương thực, thực phẩm. Năng suất, sản lượng nông nghiệp
và chăn nuôi đều giảm. Do đó, trong nhiều năm, Liên bang Nga đã buộc phải ưu
tiên chiến lược nhập khẩu lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu trong nước.
Cơ cấu kinh tế của Liên bang Nga thời kỳ này thay đổi theo hướng không
hợp lý. Tỷ trọng các ngành công nghiệp nhiên liệu, năng lượng, điện, kim loại màu

và đen giữ vai trò lớn trong tổ hợp kinh tế quốc dân (chiếm 15% GDP, 50% tổng

20


sản lượng công nghiệp và 70% tổng sản phẩm xuất khẩu). Hàm lượng kỹ thuật,
công nghệ trong các sản phẩm của nền kinh tế rất thấp [19].
Đối lập với thực trạng kinh tế trên, nền kinh tế ngầm lại phát triển rất nhanh
(từ 1992 - 1994, kinh tế ngầm chiếm 9 - 10% GDP, năm 1995 là 20%, 1996 là 23%
[19]) mà nổi bật là sự liên quan giữa hàng loạt ngân hàng và các xí nghiệp liên
doanh với các nhóm tội phạm có tổ chức. Hoạt động kinh tế ngầm còn có sự câu kết
chặt chẽ giữa các nhà chính trị và thương nhân ở các khu vực thuộc Liên bang. Sự
phát triển của kinh tế ngầm làm tăng thất thu ngân sách và cũng là nguồn gốc của
tình trạng chảy vốn ra nước ngoài với số lượng lớn - khoảng 20 tỷ đôla Mỹ mỗi
năm chủ yếu để tẩu tán tài sản hoặc để rửa tiền.
Thêm vào đó, nước Nga phải đối mặt với một tình hình tài chính phức tạp, nợ
nước ngoài chồng chất. Vào thời điểm này, Liên bang Nga nợ các nước phương Tây
hơn 150 tỷ đôla Mỹ và vay Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) gần 20 tỷ đôla Mỹ.
Có thể thấy rằng, nước Nga đứng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng
xa so với các nước công nghiệp phát triển. Và theo những chỉ số khách quan của
tiềm lực kinh tế (GDP, tăng trưởng GDP/năm, GDP/người), Liên bang Nga đang bị
đẩy vào số các “quốc gia hạng hai” và rơi vào vị trí bất lợi trong phân công lao
động quốc tế.
* Về xã hội
Khủng hoảng chính trị, khủng hoảng kinh tế và công cuộc cải cách kinh tế
bất thành đã tác động sâu sắc đến tình hình xã hội Liên bang Nga những năm cuối
thế kỷ XX. Đây là giai đoạn mà đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, giáo dục và
khoa học xuống cấp nghiêm trọng, xuất hiện nhiều xung đột dân tộc dẫn đến hiện
tượng đòi ly khai khỏi nhà nước Liên bang.
Trong tiến trình cải cách, tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội Liên

bang Nga ngày càng lớn. Sự chênh lệch thu nhập năm 1992 không vượt quá 4,5 lần
nhưng đến năm 1993 đã tăng lên 7,8 lần và đến năm 1995 là 10 lần. Việc thực hiện

21


tư nhân hóa một cách ồ ạt các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn đến tình trạng thất
nghiệp tăng nhanh ở Liên bang Nga. Số người thất nghiệp năm 1993 chiếm 5% lực
lượng lao động, năm 1996 chiếm 8,9% (số liệu thống kê của Tổ chức Lao động
quốc tế). Đến năm 1999, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, tỷ lệ
thất nghiệp tăng, chiếm tới 14,2% lực lượng lao động (số liệu của Ủy ban Thống kê
nhà nước Liên bang Nga) [19]. Đa phần dân số ở tầng lớp bình dân và tầng lớp dưới
có tâm trạng không hài lòng với công cuộc cải cách và tiếc nuối cuộc sống thời kỳ
Xô viết. Và hậu quả tất yếu là các cuộc đấu tranh của các tầng lớp này đã nổ ra dưới
hình thức chủ yếu là mít tinh, biểu tình.
Tội phạm cũng là vấn đề nhức nhối trong xã hội Liên bang Nga thời kỳ này.
Nhiều tổ chức maphia Nga xuất hiện, không chỉ là dạng tội phạm có tổ chức mà còn
thực hiện hành vi chiếm hữu và phân phối lại một cách bất hợp pháp tài sản xã hội,
phản ánh những đặc quyền hoặc quyền lực của các nhóm, các phe phái cũng như
mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo cao cấp và các nhóm hay phe phái đó. Nạn tham
nhũng đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Bên cạnh đó, tình trạng vi
phạm pháp luật và phạm tội nghiêm trọng của trẻ em cũng tăng cao. Tội phạm vị
thành niên ngày càng tăng. Trong thời gian từ 1991 - 1998, số tội phạm nghiêm
trọng do trẻ em gây ra như giết người, cướp của, phá hoại tăng 2,9 lần, số tội phạm
vị thành niên tăng 28% trong tổng số các vụ phạm pháp [19].
Tình trạng sức khỏe của nhân dân Nga xấu đi nhanh chóng. Nguyên nhân là
do thay đổi mức sống, chế độ lao động, chế độ trợ cấp, chế độ ăn uống sút kém gây
ra. Một bộ phận lớn dân cư Nga không kịp thích nghi với điều kiện mới đã bị bần
cùng hóa, dẫn đến làm chấn động tâm lý và thần kinh của họ. Nhiều người Nga mắc
các bệnh tâm thần khác nhau hoặc đang cần có sự trợ giúp về liệu pháp tâm lý.

Nghiên cứu của các nhà khoa học trong những năm 1992 - 1993 kết luận rằng, cứ 3
người lớn tuổi thì có 1 người cần đến sự giúp đỡ về tâm lý để đối phó với chứng
trầm cảm [20, tr. 23]. Tuổi thọ trung bình giảm rõ rệt, đứng vào vị trí thấp nhất

22


châu Âu: Trung bình tuổi thọ nam giới là 57 - 58, nữ giới là 70 - 71, kém các nước
phát triển ở châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản khoảng 8 - 10 năm [19].
Cùng với khủng hoảng về kinh tế, chính sách giáo dục thay đổi, chất lượng
của hệ thống giáo dục Liên bang Nga - một thế mạnh trong thời kỳ Xô viết bị giảm
sút nghiêm trọng. Ở tất cả các cấp giáo dục từ mầm non đến chuyên nghiệp, dạy
nghề và giáo dục đại học, số học sinh, sinh viên đến trường giảm. Kéo theo đó là số
lượng các trường giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề giảm. Chất lượng giảng dạy
của nhiều ngành học cũng sút kém nghiêm trọng. Một phần nguyên nhân của tình
trạng này là do mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục và khoa học mà khoa học thời
kỳ này đang chịu thiệt hại khủng khiếp do nạn “chảy máu chất xám”. Trong thời
gian từ 1992 - 1996, số lượng các nhà khoa học ra nước ngoài tương đối lớn, dao
động ở mức 7000 - 40.000 người. Nhiều nghiên cứu viên bỏ ra nước ngoài làm việc
lâu dài hoặc làm việc theo hợp đồng. Trong số đó có cả những nhà khoa học đầu
ngành đã từng có đóng góp lớn cho nền khoa học Liên Xô trước kia và khoa học
Liên bang Nga sau này, nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ bản (vật lý lý thuyết, hóa
học…). Nạn “Chảy máu chất xám” đã làm giảm hẳn số lượng cán bộ khoa học
trong các cơ sở nghiên cứu (từ 1991 đến 1999, số lượng cán bộ nghiên cứu giảm
41,4%). Điều này đã làm suy thoái tiềm năng trí tuệ của Liên bang Nga và dẫn đến
sự suy thoái về kỹ thuật, suy giảm khả năng giúp đất nước thoát khỏi khủng hoảng.
Ngoài ra, Liên bang Nga vốn là một quốc gia rộng lớn, đa dân tộc với lịch sử,
văn hóa phong phú, đa dạng nên việc duy trì một trật tự xã hội ổn định trên toàn
Liên bang sau hàng loạt các biến động chính trị, xã hội vào giai đoạn này là hết sức
khó khăn. Các mâu thuẫn về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo … bùng phát là nguy cơ tiềm

ẩn để chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa khủng bố xuất hiện. Để giải quyết vấn đề này,
Chính phủ Liên bang Nga đã tiến hành các cuộc chiến tranh nhưng hậu quả của nó
rất nặng nề. Những thương vong, mất mát của quân đội, dân thường và cuộc sống

23


×