Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Về những đặc trưng cơ bản của nhà nước kiến tạo phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.98 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

Nguyễn Thế Nam

VỀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
CỦA NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

Nguyễn Thế Nam

VỀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
CỦA NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số:
60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Minh Quân
XÁC NHẬN HỌC VIÊN ĐÃ CHỈNH SỬA THEO GÓP Ý CỦA HỘI ĐỒNG

Giáo viên hướng dẫn



Chủ tịch hội đồng chấm luận văn

thạc sĩ khoa học

PGS.TS. Lê Minh Quân

TS. Lưu Minh Văn

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lê Minh Quân. Các dẫn chứng trong
luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học, dựa trên kết quả
thu thập từ các tư liệu và tài liệu tham khảo có trích nguồn và có xuất xứ rõ
ràng!
Hà Nội, ngàytháng
Học viên

Nguyễn Thế Nam


LỜI CẢM ƠN
Học viên xin bày tỏ sự biết ơn trân trọng đến các thầy giáo, cô giáo và
cán bộ của khoa Khoa học Chính trị - Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; đến PGS.TS. Lê Minh Quân - Người
hướng dẫn khoa học của luận văn; đến người thân và bạn bè đã quan tâm,
giúp đỡ học viên trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này!

Hà Nội, ngàytháng
Học viên

Nguyễn Thế Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1
1. Lý do lựa chọn đề tài.......................................................................................1
2. Tổng quan tình hình hình nghiên cứu..............................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................. 13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 13
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 14
6. Đóng góp của luận văn................................................................................... 15
7. Kết cấu của luận văn...................................................................................... 15
Chƣơng 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƢỚC KIẾN TẠO
PHÁT TRIỂN....................................................................................................... 16
1.1. Khái niệm nhà nước kiến tạo phát triển........................................................... 16
1.1.1. Quan niệm về nhà nước kiến tạo phát triển trên thế giới.........................16
1.1.2. Quan điểm về nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam...........................20
1.1.3. Khái niệm về nhà nước kiến tạo phát triển............................................... 22
1.2. Bản chất nhà nước kiến tạo phát triển............................................................. 23
1.3. Phân loại nhà nước kiến tạo phát triển............................................................. 26
1.3.1. Phân loại dựa trên tiêu chí về vị trí địa lý................................................ 26
1.3.2. Phân loại dựa trên tiêu chí về mức độ dân chủ........................................ 30
1.3.3. Phân loại dựa trên tiêu chí về mức độ thành công................................... 31
Chƣơng 2: NHỮNG CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ NHÀ NƢỚC KIẾN TẠO
PHÁT TRIỂN....................................................................................................... 34
2.1. Nhà nước kiến tạo phát triển ở một số nước trên thế giới................................ 34
2.1.1. Nhà nước kiến tạo phát triển ở Nhật Bản................................................. 34

2.1.2. Nhà nước kiến tạo phát triển ở Hàn Quốc............................................... 40
2.1.3. Nhà nước kiến tạo phát triển ở Singapore................................................ 49
2.2. Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam........................................................ 58
2.2.1. Bối cảnh xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam...................58
2.2.2. Thực tế xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam......................66


Chƣơng 3: NHÀ NƢỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN - MỘT SỐ ĐẶC TRƢNG

CƠ BẢN................................................................................................................ 75
3.1. Nhà nước chủ động định hướng phát triển nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng
những nguyên tắc, quy luật của thị trường............................................................. 75
3.2. Nhà nước và tư nhân hợp tác chặt chẽ, nhà nước định hướng dẫn dắt tư nhân
thông qua một cơ quan điều phối có quyền lực...................................................... 81
3.3. Nhà nước do đội ngũ tinh hoa chính trị lãnh đạo, bộ máy hành chính
chuyên nghiệp, có thẩm quyền, độc lập tương đối và bảo đảm tính chính đáng
chính trị thông qua hiệu quả hoạt động.................................................................. 83
3.4. Nhà nước phát triển và trọng dụng nhân tài, đầu tư vào các chính sách xã hội,
thúc đẩy giáo dục, y tế và đảm bảo công bằng trong phát triển..............................88
3.5. Một số liên hệ về việc xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam
từ những đặc trưng của nhà nước kiến tạo phát triển và bối cảnh Việt Nam
hiện nay.................................................................................................................. 92
3.5.1. Xây dựng bộ máy quản lý hành chính nhà nước chuyên nghiệp,
đủ năng lực theo hướng kiến tạo phát triển............................................................ 93
3.5.2. Bảo đảm sự nhất quán giữa chính quyền trung ương và địa phương
trong việc chủ động dẫn dắt, triển khai các chiến lược phát triển..........................95
3.5.3. Xác định đúng vai trò của Nhà nước và của thi trường trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa................................................................. 95
3.5.4. Xây dựng xã hội vận hành dựa trên luật pháp, pháp luật phải trở thành
phương tiện quyết định trong quản lý đời sống xã hội............................................ 97

3.5.5. Tăng cường trách nhiệm giải trình của Nhà nước trước nhân dân..........98
KẾT LUẬN.........................................................................................................100
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................103


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AS Hiệp hội các quốc gia
EA Đông Nam Á
N:
Hội Đồng Phát Triển
CD Cộng Đồng ở
C: Singapore

CPI Ban điều tra chống
B: tham nhũng
Singapore
EP
B: Ủy ban Kế hoạch
Kinh tế Hàn Quốc
FDI
: Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài
GC
I: Chỉ số cạnh tranh
toàn cầu
GII
: Chỉ số đổi mới sáng
tạo toàn cầu
HD
B: Uỷ ban phát triển nhà

ở Singapore
MI
TI: Bộ Thương mại và
Công nghiệp Quốc tế
Mo
Nhật Bản
F:
Bộ tài chính Hàn
OE
Quốc
CD
: Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế
PA
P: Đảng Nhân dân Hành
động Singapore
R&
D: Nghiên cứu và phát
triển
UN
DP: Chương trình Phát
triển Liên Hiệp Quốc


MỞ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài

Sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã gặt hái được nhiều

thành tựu lớn, theo số liệu thống kê mới đây nhất của World bank [29, tr.9]:
kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng quý I cao nhất trong thập kỷ qua. Sau khi
đạt thành tích 6,8 % trong năm 2017, GDP theo giá so sánh tăng gần 7,4 %
(so với cùng kỳ năm trước) trong quý I năm 2018. Vị thế kinh tế đối ngoại
của Việt Nam tiếp tục được cải thiện do kết quả xuất nhập khẩu và dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vững mạnh. Thu nhập bình quân đầu người
tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2011-2017 đạt trên 5%, năm 2017 đạt cao
nhất (7,6%), với mức 53,5 triệu đồng (tương đương với 2385 USD, tăng 170
USD so với năm 2016). Tỷ lệ lạm phát được khống chế ở mức thấp, thường
xuyên ở mức dưới 5%, năm 2017 chỉ là 1,7%, tạo điều kiện để nâng cao mức
thu nhập thực của dân cư. Tỷ lệ nghèo đói vì thế giảm đi khá lớn. Theo chuẩn
nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ hộ nghèo năm
2017 ước tính chỉ còn 8% [20, tr.15]. Những con số thống kê trên thật sự rất
đáng mừng, là thành quả của quá trình điều hành kinh tế với những giải pháp
mới và hữu hiệu của Chính phủ Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận một thực tế rằng mức độ và chất lượng
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, theo báo cáo tham
luận của GS.TS. Ngô Thắng Lợi và PGS.TS. Trần Thị Vân Hoa thuộc trường
Đại học Kinh tế Quốc dân tại hội thảo quốc gia “Kinh tế Việt Nam năm 2017
và triển vọng năm 2018, tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển của doanh
nghiệp” có tên “Những khoảng tối của bức tranh tăng trưởng kinh tế Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2017 và một số kiến nghị”, hai giáo sư cho rằng tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017 dựa trên các ngành kinh tế
gia công và các doanh nghiệp gia công đó lại chủ yếu là các doanh nghiệp
1


FDI (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) chứ không phải các doanh
nghiệp Việt Nam, điều này cho thấy nền tảng sự tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam giai đoạn hiện nay còn phụ thuộc phần lớn vào doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài, các ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất dựa trên nguồn
nguyên liệu đầu vào trong nước tăng trưởng thấp, chỉ bằng 1/3 so với ngành
gia công, công nghiệp gia công chứ không phải công nghiệp chế tạo tăng
trưởng cao ở Việt Nam phản ánh trình độ phát triển công nghệ ở Việt Nam
còn rất thấp. Bên cạnh đó là hiệu quả tăng trưởng còn không cao, năng suất
lao động của người lao động Việt Nam so với các nước trong khu vực và quốc
tế còn thực sự thua kém.
Trong suốt giai đoạn sau đổi mới tới nay, nền kinh tế Việt Nam tăng
trưởng phần nhiều dựa trên nguồn vốn đầu tư nước ngoài (các nhà đầu tư
nước ngoài đổ tiền vào Việt Nam do chính sách thu hút vốn của Chính phủ
Việt Nam và nguồn nhân công đang ở giai đoạn vàng, đông đảo, giá rẻ) và
xuất khẩu khoáng sản. Sản xuất, chế tạo hàng hóa của các doanh nghiệp trong
nước phát triển ì ạch, cốt lõi của nền sản xuất là yếu tố công nghệ còn ở trình
độ thấp.
Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam kêu gọi thực hiện công nghiệp
hóa hiện đại hóa và đặt mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, song đến nay mục tiêu này đã
không thực hiện được, mốc thời gian năm 2020 được chuyển đến năm 2030.
Việt Nam thậm chí đang phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đứng trước bài toán với đầy rẫy những thách thức đã nêu trên, người ta
bắt đầu nói về một mô hình nhà nước mà đã đưa nhiều quốc gia Đông Á cất
cánh trở thành những con Rồng con Hổ về kinh tế của châu Á, một mô hình
quản trị được xem là cần thiết và rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện
nay, mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển.
2


Vài năm trở lại đây khái niệm nhà nước kiến tạo xuất hiện với tần suất
liên tục và nhiều chưa từng thấy ở Việt Nam. Khái niệm này khởi nguồn đầu

tiên từ bài phát biểu của nguyên Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
trong một hội nghị nhằm xác định nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm
kỳ 2011 - 2016, trong bài viết này nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng nhấn mạnh: “Phải chuyển mạnh từ nhà nước điều hành nền kinh tế
sang nhà nước kiến tạo phát triển” như một cách thay đổi tư duy về mối quan
hệ giữa nhà nước và thị trường. Và một khái niệm khác rất gần gũi với khái
niệm nhà nước kiến tạo là Chính phủ kiến tạo (ở Việt Nam khi nhắc đến Nhà
nước, người ta thường nghĩ đến nhiều nhất là bộ máy hành pháp-Chính phủ)
đã xuất hiện trong phiên họp thường kỳ tháng 4 năm 2016 của Chính phủ, nơi
người đứng đầu Chính phủ nhiệm kì kế tiếp, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
khẳng định: Chính phủ đẩy mạnh việc chuyển phương thức chỉ đạo điều hành
từ mệnh lệnh hành chính sang Chính phủ kiến tạo và phục vụ.
Cho đến nay nhà nước kiến tạo phát triển vẫn là vấn đề còn nhiều tranh
luận, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam còn chưa thống nhất quan điểm về nhà
nước kiến tạo phát triển, chưa nói đến là xây dựng được một hệ thống lý
thuyết phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các nghiên cứu ở Việt Nam phần lớn
là các bài viết đăng trên các tạp chí nghiên cứu, các tham luận tại các hội thảo
khoa học và các bài báo trích dẫn các ý kiến của các chuyên gia, nhà lãnh đạo
chính trị; hiếm hoi có một công trình nghiên cứu lớn nhưng lại tập trung vào
các giải pháp thể chế là “Báo cáo từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến
tạo phát triển” do Nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2016.
Vậy “nhà nước kiến tạo phát triển” là gì và có nguồn gốc từ đâu? Nhà
nước kiến tạo phát triển có những đặc trưng gì? Làm thế nào để Việt Nam xây
dựng thành công nhà nước kiến tạo phát triển? Để góp phần giải đáp những
câu hỏi trên, học viên lựa chọn đề tài “Về những đặc trƣng cơ bản của nhà
nƣớc kiến tạo phát triển” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ chính trị
3


học của mình. Lựa chọn nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn góp phần

tạo nên sự thống nhất nhận thức về nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam,
bởi chỉ khi có sự thống nhất về nhận thức mới có sự thống nhất về hành động,
nhận thức và hành động thống nhất từ đó mới có thể tập trung ý chí của giới
nghiên cứu, giới hoạt động chính trị thực tiễn và các tầng lớp nhân dân khác
nhằm quyết tâm thực hiện các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng và văn minh.
2. Tổng quan tình hình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới khái niệm nhà nước kiến tạo phát triển không còn là mới
mẻ, người khởi đầu cho khái niệm này là Chalmers Johnson trong cuốn sách
MITI and the Japanese Miracle; The Growth of Industrial Policy 1925-1975,
xuất bản năm 1982 để nói về sự kỳ diệu của Nhật Bản. Cuốn sách bàn về nền
kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là về vai trò của Bộ Thương mại và Công nghiệp
(MITI), cơ quan nhà nước giữ vai trò hàng đầu trong nền kinh tế. Mặc dù
MITI không phải là tác nhân quan trọng duy nhất ảnh hưởng đến nền kinh tế
nhưng tốc độ, hình thức và hiệu quả tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản có sự
đóng góp rất lớn của MITI.
Tiếp theo đó có nhiều nhà nghiên cứu nối tiếp Chalmers Johnson như
Adrian Leftwich với bài tạp chí “Bringing Politics Back in:Towards a Model
of the developmental state”, xuất bản ở The Journal of Development Studies.
Tác giả khác là Peter Evans trong cuốn “Embedded Autonomy, State and
industrial transformation”, do nhà xuất bản đại học Princeton University
Press xuất bản đã phân tích các trường hợp phát triển kinh tế thần kỳ của Đài
Loan và Hàn Quốc.
Các báo cáo của UNDP và một số tổ chức của Liên hợp quốc xuất bản
về chủ đề này như báo cáo “Democratization in a Developmental State: The
Case of Ethiopia-Issuaes, Challenges, and Prospects”. Báo cáo “Economic
4



Report on Africa (2011): Governing Development in Africa- the Role of the
State in Economic Tranformation” do Hội đồng kinh tế Châu phi của Liên
hợp quốc và Liên minh Châu Phi cùng nghiên cứu và xuất bản đều có những
bàn thảo đến mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển và là những cơ sở lý luận
cho các nghiên cứu sau này ở Việt Nam.
Tác giả Ha Joon Chang với bài viết “How to “do” a developmental
state: Political, Organizational, and Human Resource Requirements for the
Developmental State”. Tạm dịch “Làm thế nào để “làm” một nhà nước phát
triển: Các yêu cầu về nguồn lực chính trị, nguồn lực tổ chức, và nguồn nhân
lực cho Nhà nước phát triển”. Bài viết này được O. Edigheji biên soạn trong
cuốn sách “Constructing a Democratic Developmental State in South Africa Potentials and Challenges” (Human Science Research Council Press, Cape
Town, 2010). Bài viết đề cập đến các hoạt động tranh luận về chi phí cạnh
tranh, điều phối, quản lý xung đột cũng như thảo luận về phát triển kinh tế
Đông Á hiệu quả, về khuyến khích các chính sách công nghiệp, công nghiệp
hóa gắn với đổi mới thể chế, vấn đề chế độ sở hữu trí tuệ ở Nhật Bản và Hàn
Quốc.
Cuốn sách “Globalisation, Economic Development and the Role of the
State” xuất bản bởi Zed Books (2003). Trong cuốn sách, Ha Joon Chang đã
đánh giá vai trò của nhà nước trong kinh tế và phát triển, ông đánh giá các lý
thuyết và sự can thiệp thực tế của nhà nước đối với phát triển trong hơn hai
thế kỷ của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Ông đã phát triển một phương pháp tiếp
cận thể chế về vai trò của nhà nước trong sự thay đổi kinh tế, và xem xét các
vấn đề liên quan đến các sắp xếp cụ thể bao gồm cả chính sách công nghiệp,
chính sách thương mại, quyền sở hữu trí tuệ, quy định, và các chiến lược đối
với các tập đoàn xuyên quốc gia.
Báo cáo “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi” (Báo cáo về
tình hình phát triển thế giới 1997) của WB, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc
5



gia phát hành đã cung cấp cho người đọc tư liệu nghiên cứu và tham khảo về
tình hình thế giới, đặc biệt là vai trò và chức năng hoạt động của một số nhà
nước trên thế giới. Trọng tâm của báo cáo tập trung vào vấn đề: Nhà nước cần
phải làm gì và làm như thế nào để đạt hiệu quả trong tình hình một thế giới
đang có những chuyển đổi sâu sắc. Báo cáo đã đưa ra những ví dụ điển hình
về một số nhà nước hoạt động có hiệu quả cũng như một số nhà nước kém
hiệu quả, từ đó đề xuất chiến lược hai phần để nhà nước đạt hiệu quả.
Bên cạnh đó còn nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu liên quan
khác
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Hiện nay chủ đề về nhà nước kiến tạo phát triển đang là vấn đề lý
thuyết được tranh luận rộng rãi và sôi nổi, giới khoa học Việt Nam nói chung
chưa thống nhất một cách hiểu cố định nào về nhà nước kiến tạo phát triển,
những người lãnh đạo mà nổi bật là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thường
xuyên nhắc đến vấn đề nhà nước kiến tạo phát triển hay chính phủ kiến tạo
phát triển, chính phủ liêm chính, hành động, nhưng Chính phủ cũng chưa đưa
ra một khái niệm đầy đủ nào hay một tập hợp những đặc trưng nào về nhà
nước kiến tạo phát triển trên văn bản giấy tờ hay một tuyên bố chính thức. Có
nhiều bài báo, sách đã được xuất bản bàn về nhà nước kiến tạo phát triển có
thể kể đến những nghiên cứu sau:
Tác giả Vũ Minh Khương với bài viết “Việt Nam trước thách thức xây
dựng Nhà nước kiến tạo phát triển” được đăng tải trên TuanVietnamnet năm
2009, các bài viết trao đổi, bình luận về chủ đề này của nghiên cứu sinh Phạm
Hưng Hùng (nghiên cứu sinh tại Đại học Birmingham - Vương Quốc Anh),
Bàn thêm về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển; Nhà nước kiến tạo phát
triển phải từ quyết tâm chiến lược cùng được đăng tải trên TuanVietnamnet.
Tác giả Nguyễn Chính Tâm trong “Thông điệp của Thủ tướng và bước
ngoặt 2014” đã nêu về ba đặc tính tiền phong của mô hình nhà nước kiến tạo
6



phát triển, bao gồm: (1) Chuyển từ chức năng kiểm soát sang quản trị và kiến
tạo; (2) Nhà nước sẽ mạnh khi mỗi người dân cảm thấy đây là thiết chế đại
diện cho mình; và (3) Quản trị rủi ro (hơn là giải quyết sự việc khi đã rồi).
Báo cáo “Từ nhà nước điều hành sang Nhà nước kiến tạo phát triển” là
sản phẩm của nhóm các chuyên gia nghiên cứu độc lập đến từ bốn cơ quan
nghiên cứu và tư vấn kinh tế có uy tín tại Hà Nội - Viện Nghiên cứu quản lý kinh
tế trung ương (CIEM), Viện Kinh tế Việt Nam (VIE), Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách
(VEPR) thuộc trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội công bố năm
2016. Báo cáo cung cấp những luận cứ khoa học, cả lý thuyết lẫn kinh nghiệm
thực tiễn, để xây dựng những thể chế chính thức theo hướng thúc đẩy sự phát
triển một nền kinh tế thị trường đẩy đủ cho Việt Nam. Những chính thể chính
thức này, một khi được hình thành, sẽ đóng vai trò xương sống để tạo dựng ra
một nhà nước kiến tạo phát triển như các nhà lãnh đạo của Việt Nam mong
muốn. Báo cáo này nhằm cung cấp cơ sở lý thuyết cũng như kinh nghiệm thực
tiễn của nhiều quốc gia trên thế giới để giúp Việt Nam có thể lựa chọn một cách
duy lý con đường phát triển của riêng mình, chọn cách xây dựng những thể chế
góp phần hình thành cái gọi là nhà nước kiến tạo phát triển, tức là giúp nhà nước
Việt Nam thay đổi chức năng của mình với nền kinh tế và với thị trường, từ vị
thể điều hành trực tiếp bằng các mệnh lệnh hành chính, sang kiến tạo một môi
trường phù hợp để nuôi dưỡng thị trường phát huy hết sức mạnh của mình. Báo
cáo này tiếp cận vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường dựa trên khung
khổ lý thuyết về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển từ góc nhìn kết hợp của lý
thuyết kinh tế học thể chế mới và lý thuyết phát triển năng lực của Sen (1991,
2001). Khác với cách tiếp cận khác, cách tiếp cận từ lý thuyết thể chế kinh tế
mới và phát triển năng lực được xem như là phiên bản mềm hơn về nhà nước
kiến tạo phát triển được Jonhson đưa ra năm 1982, sau khi nghiên cứu mô hình
của Nhật Bản và một
7



số học giả khác tiếp tục nghiên cứu như Amsden (1989) Wade (1990) Evans
(1995). Cách tiếp cận của báo cáo này nhìn nhận thị trường, nhà nước, và xã
hội dân sự như các hệ thống thể chế song hành bổ trợ lẫn nhau. Vai trò nhà
nước là phải tạo dựng được các thể chế song hành bổ trợ cho các khiếm
khuyết của các thể chế thị trường và xã hội dân sự, chứ không phải thay thế,
đè nén kiểm soát sự phát triển của các thể chế này. Đặc biệt đối với các nước
đang phát triển, nơi các thị trường yếu tố sản xuất còn kém phát triển, nhà
nước cần phải đứng ra làm trung gian để kết nối các nguồn lực trong thời gian
đợi các yếu tố thị trường sản xuất hình thành.
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Xây dưng nhà nước kiến tạo phát triển
trong thực tiễn Việt Nam” do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh công
bố năm 2017. Kỷ yếu bao gồm 18 bài tham luận của các học giả, nhà khoa
học đến từ nhiều trường đại học và viện nghiên khác nhau trong cả nước. Các
tham luận bàn bạc về nhiều vấn đề đang được quan tâm hiện nay trong chủ đề
chung là Nhà nước kiến tạo phát triển, tham luận bàn về lĩnh vực văn hóa - xã
hội như “ Vai trò kiến tạo phát triển của nhà nước trong lĩnh vực Văn hóa - xã
hội” của tác giả Vũ Hoàng Công thuộc Tạp chí Lý luận Chính trị, tham luận
bàn về thể chế chính trị có “Nhà nước kiến tạo phát triển và các rào cản chủ
yếu cho tăng trưởng kinh tế” của tác giả Phạm Sỹ An thuộc viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam; “Đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước kiến tạo ở nước ta hiện nay” của tác giả
Nguyễn Minh Phương thuộc Đại học Nội Vụ Hà Nội; “Hoàn thiện thể chế để
xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam” của tác giả Vũ Công Giao
thuộc Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Ngoài ra còn nhiều bài viết bàn
về vai trò kiến tạo của nhà nước trên các lĩnh vực giáo dục phát triển nguồn
nhân lực, đảm bảo an sinh xã hội, phát triển bền vững.
Cuốn sách “Nhà nước kiến tạo phát triển, lý luận trên thế giới và thực
tiễn ở Việt Nam” do hai tác giả Trịnh Quốc Toản, Vũ Công Giao đồng chủ

8


biên, sách do nhà xuất bản Lý luận Chính trị xuất bản năm 2017. Cuốn sách là
tập hợp của 27 bài tham luận chất lượng, nghiên cứu công phu kĩ lưỡng của
nhiều tác giả đến từ nhiều đơn vị khác nhau. Các tham luận cũng bàn thảo
nhiều vẫn đề khoa học liên quan đến Nhà nước kiến tạo phát triển, từ các vấn
đề về nguồn gốc đặc điểm của Nhà nước kiến tạo phát triển trong bài viết của
tác giả Vũ Công Giao, Nguyễn Sỹ Dũng, bài viết của tác giả Nguyễn Sĩ Dũng
được trích dẫn khá nhiều khi nói về nhà nước kiến tạo phát triển, ngoài ra còn
nhiều các bài nghiên cứu có giá trị khác của các tác giả uy tín khác. Có thể
nói cho đến nay (tháng 12/2018) đây được đánh giá là công trình nghiên cứu
có giá trị khoa học và chất lượng học thuật thuộc nhóm hàng đầu ở Việt Nam
về Nhà nước kiến tạo phát triển.
Bài viết của tác giả Lê Minh Quân có nhan đề “Nhà nước kiến tạo phát
triển” được đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị thứ 5 ngày 16 tháng 3 năm
2017, trong bài viết này tác giả cho rằng nhà nước kiến tạo phát triển là mô
hình phù hợp nhất với Việt Nam hiện nay, lý giải cho nhận định đó tác giả đã
nêu lên 5 đặc trưng cơ bản của nhà nước kiến tạo phát triển dựa trên các tiêu
chí chức năng, nhiệm vụ, phương thức tổ chức và hoạt động, cách thức sử
dụng các nguồn lực nhất là nhân lực của Nhà nước. Các đặc trưng cơ bản đó
là: Nhà nước xây dựng chiến lược, tạo dựng môi trường và điều kiện cho phát
triển xã hội; Nhà nước dự báo, chia sẻ và hướng dẫn trong phát triển xã hội;
Nhà nước tiết kiệm và mang tinh thần kinh doanh trong quản lý phát triển xã
hội; Nhà nước tinh gọn, minh bạch và hiệu lực, hiệu quả đối với phát triển xã
hội; Nhà nước phát triển và trọng dụng nhân tài. Đây là một bài viết được
nhiều học giả đánh giá cao vì đã đưa ra được những đặc trưng cơ bản định
hình nên một nhà nước thúc đẩy sự phát triển với các chức năng nhiệm vụ rõ
ràng, bài viết thể hiện góc nhìn riêng của tác giả đồng thời cũng là các quan
điểm được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã tổng kết qua các trường hợp

Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore.
9


Bài báo của nhóm tác giả Nguyễn Sĩ Dũng, Nguyễn Minh Phong,
Hoàng Gia Minh, Hồ Quang Phương đăng trên Báo Quân đội nhân dân số ra
ngày 03/05/2017 với nhan đề: Nhà nước kiến tạo phát triển tại Việt Nam.
Trong bài trình bày của mình, các tác giả đã nêu lên nguồn cội đầu tiên của
khái niệm nhà nước kiến tạo phát triển, đồng thời nhóm tác giả cũng khẳng
định nhà nước kiến tạo phát triển vẫn là một mô hình đầy tiềm năng, phù hợp
với điều kiện văn hóa, kinh tế, xã hội, phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của mỗi quốc gia. Nhóm tác giả cũng cho rằng kiến tạo phát triển chính là tạo
ra những cải cách đột phá, Nhà nước phải tạo ra được hệ thống khuyến khích
để các nguồn lực của xã hội được tập trung đầu tư cho các mục tiêu phát triển;
Nhà nước cần tìm mọi cách để cung cấp các dịch vụ công chất lượng, giá rẻ
cần thiết cho sự phát triển năng lực và việc làm ăn của các doanh nghiệp, của
những người dân; Nhà nước phải biết tạo ra cạnh tranh lành mạnh để tất cả
mọi chủ thể trong xã hội đều phải vươn lên và để thu hút được người tài. Kết
thúc bài viết, nhóm tác giả nêu lên yêu cầu cần phải nhanh chóng xác định
khung lý thuyết rõ ràng về nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam.
Bài viết “Nhà nước kiến tạo phát triển và xây dựng nhà nước kiến tạo
phát triển ở Việt Nam” của hai tác giả Đinh Ngọc Thắng, Nguyễn Văn Quân
đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số tháng 3/2017, trong bài viết này, hai tác giả đã
nêu lên một cách ngắn gọn những nhận định tổng quan về nhà nước kiến tạo,
đó là một nhà nước nằm giữa hai mô hình, một là mô hình nhà nước theo chủ
thuyết tân tự do với sự can thiệp tối thiểu của nhà nước vào thị trường, một là
mô hình nhà nước kế hoạch hóa tập trung dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà
nước đối với nền kinh tế. Hai tác giả trình bày quan điểm về nhà nước kiến
tạo của Jonhson và Adrian Leftwith. Hai tác giả cũng trình bày về đặc trưng
của nhà nước kiến tạo phát triển so với các mô hình nhà nước khác trong

chính sách công nghiệp. Phần cuối cùng, hai tác giả đưa ra các gợi ý cho Việt
Nam xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển. Các gợi ý để xây dựng nhà nước
10


kiến tạo phát triển mà hai tác giả nêu lên bao gồm: Một là, nhà nước phải nắm
vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế. Hai là, nhà nước kiến tạo phát triển
phải hài hòa giữa các chính sách kinh tế và sự vận động tự nhiên của nền kinh
tế. Ba là, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp có tính lâu
dài, nhất quán. Bốn là, xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp hiệu quả dựa
trên chế độ tuyển dụng nhân tài. Năm là, xây dựng hệ thống chính sách và
pháp luật hoàn chỉnh.
Bài viết của hai tác giả Ngô Huy Đức, Nguyễn Thị Thanh Dung với
nhan đề “Nhà nước kiến tạo phát triển - Khái niệm và những yếu tố thành
công”, hai tác giả đã nêu lên nguồn gốc khởi thủy của khái niệm nhà nước
kiến tạo, so sánh phân tích nhà nước kiến tạo dựa trên khái niệm với nhà nước
tư bản chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa, nội hàm của khái niệm nhà
nước kiến tạo phát triển được hai tác giả nêu lên bao gồm: Một là, nhà nước
kiến tạo phát triển phải là một mô hình nhà nước pháp quyền, dân chủ; Hai là,
các cơ quan nhà nước hoạt động công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải
trình; đội ngũ công chức viên chức được tuyển chọn cạnh tranh, công bằng,
đủ năng lực, tầm nhìn và tài năng để hoạch định chính sách phát triển, xây
dựng các thể chế phát triển, phục vụ phát triển; Ba là, nhà nước không can
thiệp sâu vào đời sống kinh tế-xã hội của người dân và doanh nghiệp, chuyển
từ vai trò quản lý, điều hành sang vai trò kiến tạo phát triển, như định hướng
phát triển, hỗ trợ phát triển và quản trị rủi ro trong phát triển; Bốn là, phi tập
trung hóa quyền lực nhà nước, phân quyền và phân cấp rõ ràng, tạo điều kiện
để các cơ quan nhà nước các cấp có khả năng độc lập, sáng tạo và tự chịu
trách nhiệm về hành vi của mình trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước;
Năm là, quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp và người dân, tận tụy phục vụ nhu

cầu phát triển của doanh nghiệp và người dân, tạo ra các điều kiện để mọi
doanh nghiệp, mọi người dân được bình đẳng và tham gia sáng tạo vào quá
trình tìm kiếm phúc lợi cho bản thân trên cơ sở làm bất cứ việc gì pháp luật
11


không cấm; Bên cạnh đó, tác giả nêu lên các yếu tố thành công của Nhà nước
kiến tạo phát triển bao gồm: Nhà nước kiến tạo phát triển phải có tầm nhìn
phát triển nhất quán và xuyên suốt; Bộ máy quản lý, hành chính hiệu quả và
trung lập; Quan hệ công - tư hòa hợp; Quản trị hiệu quả và công bằng.
Như vậy, có thể nhận thấy các nghiên cứu về nhà nước kiến tạo phát
triển ở Việt Nam mới chỉ bắt đầu gần đây, về mặt lý thuyết khái niệm này
được đặt ra bởi một nhà nghiên cứu người Mỹ khi xem xét trường hợp thần
kỳ của kinh tế Nhật Bản, nối tiếp ông đã có thêm nhiều nhà nghiên cứu khác
nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong sự vươn lên thần kỳ của các quốc
gia Đông Á. Các nghiên cứu này xây dựng nên một hệ thống lý thuyết khá
hoàn chỉnh về nhà nước kiến tạo phát triển. Giới nghiên cứu ở Việt Nam chấp
nhận những lý thuyết đã được nghiên cứu này và hầu như ít có những bổ sung
khác biệt với các lý thuyết đã được tổng kết. Nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu
liên quan đến áp dụng mô hình quản trị nhà nước này đối với Việt Nam hiện
nay. Những nghiên cứu ở nước ta thường tập chung làm rõ:
- Các vấn đề lý luận xung quanh khái niệm nhà nước kiến tạo phát triển
đã được các nhà nghiên cứu trên thế giới tổng kết trước đó, như bản chất, đặc
điểm, phân loại nhà nước kiến tạo phát triển, môi trường có thể nuôi dưỡng sự
thành công của mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.
-

Đánh giá mức độ thích hợp của Việt Nam với mô hình quản trị này

trên nhiều góc độ như luật pháp, văn hóa, môi trường chính trị, cách quản trị

hiện hành.
-

Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện thành công mô hình nhà nước

kiến tạo phát triển ở Việt Nam phù hợp với điều kiện hiện tại của Việt Nam và
bối cảnh chung trên thế giới trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các quốc gia
từng xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển thành công.
Xây dựng “nhà nước kiến tạo phát triển” đã và đang thu hút sự chú ý
của dư luận xã hội, sự quan tâm của các nhà khoa học, giới chuyên gia, điều
12


đó là một tín hiệu đáng mừng thể hiện sự lan tỏa của thông điệp mà giới lãnh
đạo chính trị phát đi, đồng thời nó thể hiện sự quan tâm của giới tri thức đối
với vấn đề hệ trọng của quốc gia. Điều đó dẫn đến sự cần thiết phải xây dựng
một khuôn khổ lý thuyết thống nhất, đúng đắn, phù hợp và đầy đủ về nhà
nước kiến tạo phát triển nhằm cắt nghĩa nguồn gốc khái niệm, làm rõ những
đặc điểm chính và cách thức để thực hiện thành công mô hình nhà nước kiến
tạo phát triển. Trên cơ sở đó rút ra những giá trị tham chiếu cho quá trình xây
dựng thực tế nhà nước kiến tạo phát triểnở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về nhà nước kiến tạo phát triển đã
được công bố trên thế giới và các nhà nước kiến tạo phát triển thực tiễn ở
Đông Á, luận văn làm rõ những đặc trưng cơ bản của nhà nước kiến tạo phát
triển và có một số liên hệ với Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện 3 nhiệm vụ:
1)


Trình bày khái quát một số cơ sở lý luận về nhà nước kiến tạo phát

2)

Trình bày khái quát một số cơ sở thực tiễn về nhà nước kiến tạo phát

triển.
triển (thông qua một số mô hình nhà nước kiến tạo phát triển ở Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore).
3)

Nêu các đặc trưng cơ bản của nhà nước kiến tạo phát triển và một số

liên hệ với việc xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm:
1)

Một số vấn đề lý luận về nhà nước kiến tạo phát triển (Khái niệm,

nguồn gốc, bản chất, phân loại nhà nước kiến tạo phát triển, v.v.).
13


2)

Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển ở Nhật Bản, Hàn Quốc,


Singapore (Bối cảnh hình thành, nhân tố chính trị ảnh hưởng, chính sách cụ
thể của các nhà nước kiến tạo phát triển).
3)

Những đặc trưng cơ bản của nhà nước kiến tạo phát triển.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của nhà nước
kiến tạo phát triển dựa trên các lý thuyết đã được công bố trước đó như của
Chalmers Johnson, Adrian Leftwich, Ha Joon Chang…và những nghiên cứu
khái quát về một số mô hình nhà nước kiến tạo phát triển ở Đông Á; luận văn
nghiên cứu về các mô hình nhà nước kiến tạo phát triển trên thực tế ở khu vực
Đông Á trong những thập kỷ gần đây.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp (Số lượng các công trình
nghiên cứu về chủ đề nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam tuy còn ít
nhưng trên thế giới thì rất đa dạng với những nhà nghiên cứu khác nhau, dước
các góc độ tiếp cận khác nhau, vì thế trong luận văn tác giả sẽ sử dụng
phương pháp tổng hợp để tổng hợp các kết quả nhà nghiên cứu, những phân
tích, lý giải về vấn đề nhà nước kiến tạo phát triển dưới góc độ mà tác giả tiếp
cận); Phương pháp so sánh (Nghiên cứu về các nhà nước kiến tạo phát triển
khác nhau từ trong quá khứ như nhà nước kiến tạo phát triển ở Hàn Quốc,
Nhật Bản, Singapore. Thông qua đó, so sánh các nhà nước kiến tạo phát triển
này để phát hiện những điểm giống, khác biệt, phát hiện các nhân tố chi phối
đến sự hình thành và phát triển của nhà nước kiến tạo phát triển, từ đó rút ra
những kết luận quan trọng về đặc trưng của Nhà nước kiến tạo phát triển);
Phương pháp kết hợp lô-gíc và lịch sử (Sử dụng phương pháp lịch sử để xác

định tính lịch sử cụ thể của nhà nước kiến tạo phát triển, đó là bối cảnh lịch sử
của sự ra đời nhà nước kiến tạo phát triển, các quyết định chiến lược phát
triển nói chung và những quyết định chính sách nói riêng của các nhà nước
kiến tạo phát triển này trong các giai đoạn lịch sử cụ thể)...
14


6.

Đóng góp của luận văn

Làm rõ một cách khái quát các cơ sở lý luận và thực tiễn về nhà nước
kiến tạo phát triển (Khái niệm, bản chất, phân loại nhà nước kiến tạo phát
triển; nhà nước kiến tạo phát triển thực tế ở một số quốc gia…).
Nêu và phân tích được những đặc trưng cơ bản của nhà nước kiến tạo
phát triển một cách khái quát, cập nhật, thực tiễn.
Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo, phục vụ cho sinh viên nghiên
cứu và học tập chính trị học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của Luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhà nước kiến tạo phát triển.
Chương 2: Một số vấn đề thực tiễn về nhà nước kiến tạo phát triển.
Chương 3: Một số đặc trưng cơ bản của nhà nước kiến tạo phát triển.

15


Chƣơng 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ NHÀ NƢỚC KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN

1.1. Khái niệm nhà nƣớc kiến tạo phát triển
1.1.1. Quan niệm về nhà nước kiến tạo phát triển trên thế giới
Nhà nước kiến tạo phát triển về mặt ngôn ngữ không có từ gốc trong
tiếng Anh, từ được sử dụng trong tiếng Anh để thể hiện ý nghĩa của nó là
“Developmental state”, khái niệm này được các học giả quốc tế nói đến khi
nhắc đến mô hình phát triển mang tính đặc thù của một số quốc gia Đông Á,
mà người đại diện và được đông đảo cộng đồng khoa học công nhận là người
đầu tiên đề cập là Chalmers Johnson trong cuốn sách MITI and the Japanese
Miracle; The Growth of Industrial Policy 1925-1975 xuất bản năm 1982.
Trong cuốn sách của mình, Chalmers Jonhson đã phân tích các nhân tố dẫn
đến sự phát triển thần kì của Nhật Bản đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế sau
chiến tranh thế giới thứ II khi nước này còn lại chỉ là một đống đổ nát. Trong
nghiên cứu của mình, ông đã sử dụng thuật ngữ “Developmental state” để nói
về mô hình mà chính phủ Nhật Bản áp dụng trong giai đoạn 1925-1975. Từ
đó thuật ngữ “Developmental state” trở thành một thuật ngữ phổ biến trong
nghiên cứu, phân tích chính sách kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới
trong thời kì hiện đại [11, tr.20-22]. Chalmers Jonhson cho rằng
“Developmantal state” là “cách viết tắt của một mạng lưới liền mạch về chính
trị, quan chức, và uy thế của tiền bạc giúp tạo nên đời sống kinh tế ở các nền
tư bản Đông Bắc Á” [11, tr.21]. Một trong những mục đích ban đầu và chính
yếu được Chalmers Jonhson thừa nhận khi ông mở đầu ý tưởng về nhà nước
kiến tạo phát triển là “nhằm vượt qua sự tương phản giữa nền kinh tế Hoa Kỳ
(điển hình của mô hình kinh tế tư bản thị trường tự do) và Liên bang Xô Viết
(điển hình của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung)” [11, tr.22]. Đây chính là
cơ sở để nhiều học giả cho rằng Nhà nước kiến tạo phát triển dùng để chỉ một
16


mô hình quản trị nằm giữa hệ thống kinh tế tư bản và hệ thống kinh tế kế
hoạch hóa tập trung.

Theo Jonhson nhà nước kiến tạo phải bao gồm những đặc điểm sau [45,
tr.73-89]:
1)

Tồn tại những quy tắc ổn định vững chắc do giới tinh hoa chính trị -

quan liêu thiết lập nên, tương đối độc lập trước các sức ép chính trị có thể gây
tổn hại tới tăng trưởng kinh tế.
2)

Có sự hợp tác chặt chẽ giữa khu vực công và tư. Sự hợp tác được thể

chế hóa này do một cơ quan kế hoạch hóa mang tính chiến lược giám sát (ví
dụ ở Nhật bản là bộ ngoại thương và công nghiệp MITI).
3) Có sự đầu tư mạnh mẽ và liên tục cho giáo dục kết hợp với một số
chính sách nhằm phân chia công bằng của cải.
4)

Có một chính phủ nắm rõ và tuân thủ các quy luật của kinh tế thị

trường. Ngoài ra chính quyền phải mạnh, thậm chí là chuyên chế.
Tiếp tục trong một bài viết khác, Chalmers Jonhson nêu lên các đặc
trưng của nhà nước kiến tạo phát triển ở Nhật Bản gồm những đặc trưng sau
[44, tr.32]:
1)

Nhật Bản có một bộ máy hành chính gọn nhẹ nhưng hiệu quả, có

nhiệm vụ xác định và lựa chọn các ngành công nghiệp để phát triển và những
phương thức tốt nhất để phát triển nhanh chóng những ngành công nghiệp đã

lựa chọn; đồng thời giám sát sự cạnh tranh trong các ngành chiến lược đã
thiết kế nhằm bảo đảm hiệu năng của nền kinh tế;
2)

Nhật Bản có một hệ thống chính trị mà nền hành chính được trao

quyền đầy đủ, có năng lực đưa ra những ý tưởng và vận hành một cách hiệu
quả, ít bị ràng buộc bởi hai nhóm quyền lực còn lại là lập pháp và tư pháp, hai
nhánh quyền lực này chỉ còn đóng vai trò như một chiếc “van an toàn”;
3)

Nhà nước Nhật Bản có các biện pháp can thiệp phù hợp vào thị

trường, thông qua các thiết chế tài chính, tiền tệ và các hướng dẫn hành chính
17


(các hướng dẫn này tồn tại giúp nhà nước không phải ban hành các luật quá
chi tiết mà có thể trói buộc nền hành chính sáng tạo);
4)

Có một cơ quan, tổ chức là Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế

Nhật Bản để kiểm soát chính sách công nghiệp. Cơ quan này có cơ cấu tinh
gọn, chỉ có chức năng “tư vấn”, không nắm giữ hay trực tiếp điều hành nguồn
ngân sách, nhưng được trao quyền để quản lý theo chiều dọc việc thực hiện
các chính sách công nghiệp ở cấp độ vi mô.
Nhà nghiên cứu Adrian Leftwith định nghĩa mô hình nhà nước này
thông qua 6 đặc trưng sau [48, tr.400-407]:
1) Tồn tại tầng lớp quan liêu tinh hoa gần gũi với Nhà nước, giới tinh

hoa trong nhà nước kiến tạo phát triển có số lượng nhỏ, những người này gần
gũi với chính quyền, tạo thành hạt nhân vững chắc và đoàn kết hỗ trợ cho Nhà
nước. Có nhiều quân nhân giữ vị trí quan trọng trong chính quyền, các chính
sách phát triển chịu ảnh hưởng của tầng lớp quan liêu ưu tú này;
2)

Tính độc lập tương đối của Nhà nước: Nhà nước độc lập tương đối

trước các nhóm áp lực (giai cấp tầng lớp quyền lực mang tính địa phương) và
đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích của nhóm áp lực này;
3) Điều phối kinh tế và phát triển được một số thiết chế chuyên biệt
đảm trách (ví dụ như một bộ chịu trách nhiệm tổ chức các tương tác giữa Nhà
nước và nền kinh tế). Các thiết chế này có thực quyền và năng lực kĩ thuật
trong xây dựng và áp dụng các chính sách phát triển;
4) Xã hội yếu, chính quyền mạnh và kiểm soát chặt chẽ xã hội ở giai
đoạn đầu;
5) Nhà nước kiến tạo phát triển và lợi ích kinh tế: Nhà nước ít chịu ảnh
hưởng bới các lợi ích kinh tế tư nhân. Điều này xuất phát từ quyền lực và sự
độc lập của nhà nước được củng cố trước khi giới tư bản trở thành một thế lực
ảnh hưởng. Các lợi ích tư nhân chưa có một sức mạnh đáng kể vào thời điểm
thiết lập Nhà nước;
18


×