KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT
NHẬP KHẨU
1. NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
1.1.Khái niệm
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam luôn
đạt mức khá, và trong năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8%. Để có mức
tăng trưởng cao như vậy, Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy hoạt
động ngoại thương trong các doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nhà nước
kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá. Xuất khẩu và nhập khẩu có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, xuất khẩu hàng hoá sẽ thu ngoại tệ về để thực
hiện nhập khẩu còn nhập khẩu để nâng cao chất lượng hàng hoá nhằm thúc đẩy
xuất khẩu. Do đó, hoạt động nhập khẩu là điều kiện cần để nâng cao chất lượng
hàng hoá nhờ nguồn nguyên liệu tốt và trang thiết bị máy móc hiện đại.
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá là quá trình mua hàng hoá hay dịch vụ
của một tổ chức kinh tế hay doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở quốc
gia này từ một tổ chức kinh tế hay doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở
một quốc gia khác theo nguyên tắc thị trường quốc tế nhằm phục vụ sản xuất
trong nước hay tái xuất khẩu để tìm kiếm lợi nhuận.
Đối với mỗi quốc gia, hoạt động nhập khẩu luôn là một bộ phận quan
trọng trong quá trình buôn bán quốc tế, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa
các nền kinh tế trên thế giới. Điều này càng thể hiện rõ ràng hơn khi sự khan
hiếm về tài nguyên của mỗi nền kinh tế. Điển hình là Nhật Bản, một nước có
nguồn tài nguyên khan hiếm và phải nhập khẩu nhiều loại hàng hoá khác nhau
đề khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Hoạt động nhập
khẩu hàng hoá của Nhật Bản cho thấy phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
và vai trò quan trọng của hoạt động nhập khẩu đối với mỗi quốc gia trong việc
phát triển nền kinh tế.
Hơn nữa, với xu thế toàn cầu hoá, liên minh liên giữa các nền kinh tế
hình thành nên các khu vực mậu dịch tự do hay các liên minh kinh tế như EU,
AFTA, NAFTA,… cho thấy khối lượng các hoạt động ngoại thương ngày càng
lớn và nhập khẩu là một bộ phận không thể thiếu để ổn định nền kinh tế của
từng quốc gia riêng lẻ mà còn là sự ổn định của liên minh hay của từng khu vực
kinh tế.
1.2. Vai trò của nhập khẩu
Qua những thời kì phát triển của nền kinh tế thế giới, ta có thể thấy được
mối quan hệ chặt chẽ giữa sự phát triển nền kinh tế và hoạt động mua bán hàng
hoá quốc tế. Quốc gia nào có hoạt động thương mại quốc tế phát triển thì ở đó
có một nền kinh tế phát triển. Trước năm 1986, Việt Nam chủ trương xây dựng
nền kinh tế tự cung tự cấp nhưng thực tế đã chỉ ra rằng đó là một sai lầm trong
việc khôi phục và phát triển đất nước sau chiến tranh. Sự khan hiếm hàng hoá
hay các thiết bị máy móc kĩ thuật đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt
động sản xuất và buôn bán hàng hoá. Học được từ những thất bại đó, Việt Nam
bắt đầu tiến hành mở cửa nền kinh tế từ năm 1986 nhằm thu hút đầu tư và thực
hiện các hoạt động ngoại thương bên cạnh hoạt động giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm trong hoạt động quản lý và xây dựng nền kinh tế thị trường của các
nước phát triển. Hoạt động nhập khẩu được thúc đẩy mạnh giải quyết tình trạng
thiếu hàng hoá và cải tiến công nghệ trong hoạt động sản xuất. Sau hơn 20 năm
đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đặt được những thành tựu quan trọng và để
có được kết quả như vậy không thể không kể đến vai trò quan trọng của nhập
khẩu hàng hoá.
Thứ nhất, nhập khẩu kết hợp với xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả
kinh tế, xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu sẽ thu ngoại tệ về để
chi trả hàng hoá nhập khẩu, còn nhập khẩu hàng hoá nhằm giải quyết sự khan
hiếm nguồn lực và nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu nhờ trang thiết bị
máy móc hiện đại. Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hoá trên thị trường sẽ ngày càng
phong phú hơn, đa dạng hơn cả về kiểu cách, màu sắc, chủng loại, mẫu mã và
chất lượng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu sử dụng hàng hoá, đặc biệt là hàng
hoá mà trong nước chưa thể sản xuất được. Hơn nữa, nhập khẩu hàng hoá sẽ
thúc đẩy quá trình đào thải trên thị trường diễn ra mạnh mẽ hơn, những hàng
hoá có chất lượng thấp, mẫu mã không phù hợp với thị hiếu tiêu dùng dần dần
không chiếm đuợc thị trường và bị đào thải. Các doanh nghiệp kinh doanh
thưong mại và doanh nghiệp sản xuất cũng gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ
hàng hoá nhập khẩu. Sự kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ
khiến doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn khi mà nhu cầu nhập khẩu ngày
càng tăng. Điều này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải thay đổi cách
quản lý và làm việc của mình nếu không họ sẽ bị thanh lọc khỏi thị trường. Sự
thay đổi này sẽ giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển và gián tiếp cải thiện
đời sống người lao động tại doanh nghiệp về lương hay điều kiện làm việc.
Thứ hai, nhập khẩu sẽ thúc đẩy hoạt động xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với bất kì quốc gia nào trên thế giới, họ
đều không thể tự sản xuất được tất cả hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng hay xây
dựng, đặc biệt ở những nước đang phát triển. Những nền kinh tế đang phát triển
như Việt Nam, quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho mục đích phát
triển kinh tế là rất lớn, nhưng những nền kinh tế này không thể tự sản xuất ra
các trang thiết bị máy móc hiện đại, do đó không còn con đường nào khác ngoài
nhập khẩu để hiện thực hoá mục đích đó. Ngoài ra, hoạt động nhập khẩu phát
triển sẽ điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của nhập khẩu sẽ đẩy mạnh sự
phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ do áp dụng những thành tựu khoa
học trên thế giới, qua đó tỉ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp tăng còn tỉ trọng
ngành nông nghiệp giảm dần.
Thứ ba, nhập khẩu hàng hoá có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất, chất lượng là
tiêu chí đầu tiên khi lựa chọn nguyên vật liệu. Các doanh nghiệp sản xuất trong
nước đang khan hiếm nguồn nguyên liệu có chất lượng tốt nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, họ cũng cần một quy trình sản xuất hiện đại
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Do đó, hoạt động nhập khẩu sẽ giúp họ giải
quyết tốt những vấn đề này. Còn với doanh nghiệp thương mại, nhập khẩu hàng
hoá từ nước ngoài đem tiêu thụ tại thị trường trong nước sẽ đem lại lợi nhuận
cho họ khi hàng hoá đó có chất lượng tốt, mẫu mã phong phú thoả mãn yêu cầu
của thị trường.
Các quốc gia trên thế giới đang áp dụng ngày càng nhiều khoa học công
nghệ vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu
thế này, nhất là Việt Nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tế thế giới nên
hoạt động nhập khẩu phát triển sẽ là một ưu thế cho Việt Nam tận dụng những
thành tựu của khoa học công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, nhập khẩu vẫn còn
những hạn chế nếu không có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước:
- Hoạt động nhập khẩu tràn lan dẫn đến lãng phí nguồn lực gây ảnh
hưởng xấu đến hoạt động sản xuất trong nước
- Hoạt động nhập khẩu hàng hoá luôn cần có ngoại tệ để có thể chi trả,
đặc biệt là ngoại tệ mạnh. Các nền kinh tế phát triển có nhu cầu nhập khẩu lớn
nhưng lượng ngoại tệ lại không cho phép. Nếu hoạt động xuất khẩu không được
phát triển thì tình trạng vay nợ từ các quốc gia hay các tổ chức tài chính quốc tế
sẽ kéo dài. Điều này gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế khi tỷ giá hối đoái tăng
cao, nợ nước ngoài lớn gây khó khăn cho xuất khẩu.
- Nhập khẩu quá nhiều sẽ gây nên tình trạng mất cân bằng cán cân thương
mại quốc tế. Tình trạng nhập siêu sẽ đẩy tỉ giá hối đoái tăng cao gây khó khăn
cho cả hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu. Trong khi nhập khẩu cần nhiều ngoại
tệ thì hoạt động xuất khẩu lại không đem lại nguồn ngoại tệ mong muốn để chi
trả hàng nhập khẩu do nội tệ đang ngày càng mất giá còn ngoại tệ lại lên giá.
Là nước có nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu về công nghệ, máy móc
thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động sản xuất và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu
cũng như tiêu thụ trong nội địa của Việt Nam ngày càng tăng trong khi trình độ
kỹ thuật vẫn còn thấp. Vì vậy, nhập khẩu là phương án tối ưu mà Việt Nam có
thể thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế đất nước. Cùng với sự phát triển kinh tế
là vị thế của Việt Nam trên thế giới, hàng hoá của Việt Nam có thể cạnh tranh
được với hàng hoá từ các nước khác khi chất lượng được cải thiện rõ rệt và mẫu
mã được cải tiến thoả mãn thị hiếu của từng thị trường.
1.3. Các phương thức nhập khẩu
1.3.1. Nhập khẩu liên doanh
Đây là hình thức nhập khẩu dựa trên sự tự nguyện của các chủ thể kinh tế
tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, trong đó có ít nhất một bên nhập khẩu trực
tiếp nhằm kết hợp với nhau để thực hiện các giao dịch và đưa ra các biện pháp
liên quan đến nhập khẩu để cả hai bên cùng thu được lợi ích mong muốn.
Trong hình thức này, các bên không phải chịu rủi ro do có sự phân bổ về
vốn, trách nhiệm, quyền hạn cho các bên. Thực tế, bên nào có kinh nghiệm, bạn
hàng giao dịch và nghiệp vụ tốt sẽ có quyền nhập khẩu và trực tiếp góp vốn, bảo
đảm cho các hoạt động sau đó như tiêu thụ, gia công.
Tại Việt Nam, hoạt động nhập khẩu liên doanh vẫn đang được áp dụng tại
nhiều doanh nghiệp do một mặt thiếu vốn, năng lực cần thiết; mặt khác do
không thể tìm được đối tác có nhu cầu tương tự.
1.3.2. Nhập khẩu trực tiếp
Là hình thức nhập khẩu mà một doanh nghiệp độc lập nhập khẩu hàng
hoá mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp nhập
khẩu không chỉ nghiên cứu thị trường, luật pháp và chính sách của nhà nước mà
còn là các tập quán quốc tế, thông lệ quốc tế.
Khi áp dụng hình thức nhập khẩu này, doanh nghiệp nhập khẩu tự tìm
kiếm nhà cung ứng những hàng hoá mình cần nhập khẩu. Điều này đòi hỏi
doanh nghiệp phải nắm bắt được chất lượng hàng hoá của đối tác cũng như
những thông tin về đối tác để đảm bảo không bị gian lận thương mại. Trong
hình thức này, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ chịu toàn bộ những rủi ro xảy ra
nhưng được hưởng lợi toàn bộ. Các doanh nghiệp sẽ có sự tự chủ trong việc
mua hàng hoá hơn so với các hình thức khác, nhà nhập khẩu sẽ tự chủ hoàn toàn
từ khâu nghiên cứu nhu cầu thị trường cho đến tìm kiếm đối tác, ký kết hợp
đồng và thực hiện hoạt động nhập khẩu. Đây là điểm khác biệt nhất so với các
hình thức nhập khẩu khác.
1.3.3. Nhập khẩu tái xuất
Là hình thức nhập khẩu hàng hoá từ một nước khác sau đó tái xuất khẩu
sang một nước thứ ba mà không qua các khâu gia công, chế biến hay sản xuất.
Đặc điểm đặc trưng của hình thức nhập khẩu này là có ba chủ thể kinh tế
ở ba quốc gia khác nhau: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Để áp dụng hình thức này, doanh nghiệp cần có sự nghiên cứu thị trường
của các nước để đảm bảo nguồn cung ứng và đầu ra cho hoạt động kinh doanh
không chỉ là về giá cả, mặt hàng mà còn là luật pháp, tập quán từng nước.
1.3.4. Buôn bán đối lưu
Đây là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết
hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao
đi có giá trị tương xứng với số lượng hàng nhận về.
Trong nghiệp vụ này, hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi sổ
giá trị hàng giao. Đến cuối kì hạn, hai bên mới so và đối chiếu giá trị hàng đã
giao và trị giá đã nhận, nếu sau khi thực hiện nghiệp vụ bù trừ, tiền hàng còn dư
thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ hoặc có thể
được ghi vào sổ nghiệp vụ bù trừ năm sau.
1.3.5. Nhập khẩu uỷ thác
Hoạt động nhập nhẩu uỷ thác được hình thành giữa một doanh nghiệp có
vốn, ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó nhưng lại
không có khả năng nhập khẩu trực tiếp, do đó doanh nghiệp này sẽ uỷ thác cho
một doanh nghiệp khác có khả năng nhập khẩu trực tiếp hàng hoá theo yêu cầu
của mình, còn doanh nghiệp nhận uỷ thác sẽ thu được lệ phí trong hoạt động
nhập khẩu uỷ thác.
Trước khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, hai bên sẽ ký kết hợp đồng mà
theo đó bên uỷ thác nhận được hàng hoá theo đúng yêu cầu của mình và phải trả
cho bên nhận uỷ thác một khoản tiền gọi là lệ phí uỷ thác. Bên nhận uỷ thác sẽ
thay mặt bên uỷ thác tự tìm kiếm đối tác và thực hiện tất cả các khâu trong hoạt
động nhập khẩu hàng hoá đó. Bên cạnh đó, bên nhận uỷ thác không phải chịu
rủi ro về vốn hay về hoạt động bán hàng vì sau khi nhận được lệ phí uỷ thác,
bên nhận uỷ thác sẽ giao hàng cho bên uỷ thác. Trên thực tế, bên nhận uỷ thác
thường là các công ty lớn có khả năng về vốn, nghiệp vụ và có uy tín trên thị
trường.
Hoạt động nhập khẩu sẽ đem lại lợi ích cho cả bên uỷ thác và bên nhận
uỷ thác. Trong khi bên nhận uỷ thác kiếm được một khoản lệ phí uỷ thác, còn
bên uỷ thác vẫn có những hàng hoá mà mình mong muốn mặc dù điều kiện để
nhập khẩu trực tiếp không cho phép. Bên uỷ thác cũng sẽ tiết kiệm được thời
gian khi không phải làm các thủ tục để có thể nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên,
về lâu dài các doanh nghiệp uỷ thác sẽ mất lợi thế về chi phí trong hoạt động
bán hàng và đôi khi hàng hoá không đảm bảo đúng yêu cầu về chất lượng, kỹ
thuật như trong hợp đồng uỷ thác.
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá có nhiều hình thức, các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu cần xác định chính xác tiềm lực của mình không chỉ
về tài chính mà bên cạnh đó là các nghiệp vụ trong hoạt động nhập khẩu hàng
hoá sao cho lợi ích đem lại là tối ưu.
2. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI DOANH NGHIỆP
Hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng như hoạt động ngoại thương nói
chung luôn được tổ chức thực hiện với nhiều khâu, nhiều nghiệp vụ từ nghiên
cứu thị trường và tìm kiếm đối tác cho đến đàm phán ký kết hợp đồng và thực
hiện hợp đồng đó. Đây là một qui trình đồng bộ đòi hỏi sự chính xác và kỹ
lưỡng trong tùng nghiệp vụ nhằm thực hiện hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả
cao.
2.1. Nghiên cứu thị trường, xác định hàng hoá cần nhập khẩu
2.1.1. Khái niệm thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường
Thị trường theo góc độ kinh doanh là tập hợp những khách hàng có những
nhu cầu khác nhau mà các nhà kinh doanh hướng tới nhằm thoả mãn tốt nhất
nhu cầu của họ để thu vầ lợi nhuận cho mình (Giáo trình Marketing Thương mại
– NXB Lao Động – Xã hội 2005)
Trong hoạt động kinh doanh, bất kì một công ty, một doanh nghiệp nào
cũng đều có một thị trường mục tiêu mà mình hướng tới và chỉ đến khi nào
doanh nghiệp hay công ty có thể thâm nhập, chinh phục và khai thác thị trường
đó thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, muốn có thể
thâm nhập vào thị trường đó, điều đầu tiến doanh nghiệp cần phải tiến hành là
nghiên cứu thị trường một cách tổng thể và có khoa học.
Nhìn chung có nhiều phương pháp để nghiên cứu thị trường, nhưng xét
một cách tổng quát thì có hai phương pháp chính: nghiên cứu tại hiện trường và
nghiên cứu tại bàn.
Nghiên cứu tại bàn là phương pháp thu thập thông tin thông qua các kênh
gián tiếp như báo chí, phương tiện truyền thông, các báo cáo, thống kê của các
cơ quan có chức năng,.. Phương pháp này giúp tiết kiệm chi phí, thời gian
nhưng thông tin không phản ánh đúng xu thế của thị trường, do đó không đưa ra
được những phương án kinh doanh tối ưu và chiến lược phát triển thị trường dài
hạn.
Nghiên cứu tại hiện trường là phương pháp thu thập những thông tin từ
thị trường mà doanh nghiệp hướng tới, sau đó phân tích và đưa ra những kết
luận. Trong phương pháp này, những hình thức như điều tra phỏng vấn, qua
bảng hỏi, qua quan sát và ghi chép, qua thư góp ý,… là những hình thức được
sử dụng một cách thường xuyên. Những thông tin này cần phải qua một bước
quan trọng đó là tổng hợp, phân tích, đánh giá mới thấy được xu hướng vận
động của thị trường. Đặc điểm của phương pháp này là tốn kém về thời gian,
chi phí nhưng bù lại thông tin thu thập được phản ánh đúng xu hướng thị
trường.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu thị trường
Đây là khẩu đầu tiên của quá trình nhập khẩu hàng hoá, nghiệp vụ này là
bắt buộc đối với bất kì doanh nghiệp nào muốn kinh doanh hàng hoá. Họ cần
phải nắm vững đặc điểm của từng thị trường như thị hiếu, phương thức tiêu
dùng và các phong tục tập quán của thị trường đó để có những điều chỉnh phù
hợp. Đây là quá trình phức tạp đòi hỏi sự chính xác để đưa ra các kết luận và
các phương án đúng đắn nhằm giảm thiểu rủi ro và tiết kiệm chi phí.
Thông qua hoạt động nghiên cứu thị trường, chúng ta có thể trả lời được
những vấn đề cơ bản của thị trường:
- Kinh doanh với ai?
- Kinh doanh mặt hàng gì? Mẫu mã như thế nào?
- Kinh doanh vào thời điểm nào và ở dâu?
- Giá cả và lợi nhuận như thế nào?
- Kinh doanh với số lượng bao nhiêu?
Nghiên cứu thị trường không chỉ nghiên cứu thị trường trong nước mà
còn nghiên cứu cả thị trường nước ngoài nữa.
a)Nghiên cứu thị trường trong nước
Nghiên cứu thị trường trong nước là nghiên cứu nhu cầu hiện tại và xu
thế sử dụng hàng hoá trên thị trường. Qua đó dự đoán nhu cầu sử dụng hàng hoá
trong tương lai gần như: thị trường cần hàng hoá gì? số lượng bao nhiêu? mẫu
mã, kiểu dáng như thế nào?...
Khi tiến hành nghiên cứu thị trường, điều quan trọng mà doanh nghiệp
cần quan tâm đến đó là khả năng sản xuất và tiêu dùng hàng hoá của thị trường
đó. Điều này thể hiện ở số lượng hàng hoá, chất lượng của hàng hoá đó, thị hiếu
của thị trường đối với hàng hoá hay các phong tục tập quán ảnh hưởng đến việc
sản xuất và tiêu dùng hàng hoá đó. Bên cạnh đó, chu kỳ sống của sản phẩm
cũng là vấn đề mà doanh nghiệp cần quan tâm để có thể biết được hàng hoá đó
đang nằm trong giai đoạn nào của chu kỳ sống. Với những hàng hoá đang nằm
ở giai đoạn bão hoà, doanh nghiệp cần xem xét và dự đoán xu thế sử dụng hàng
hoá trong thời gian tới để có thể đáp ứng nhu cầu của thị trường một cách kịp
thời. Còn với những hàng hoá đang trong thời kì đầu của chu kỳ sống, giai đoạn
giới thiệu và phát triển, doanh nghiệp cần nghiên cứu thời gian hàng hoá đó
đứng vững trên thị trường. Nếu đó là thời gian dài thì cần có những phương án
nhập khẩu những hàng hoá có cùng tính năng nhưng có khả năng cạnh tranh về
chất lượng, mẫu mã và phong phú về chủng loại trong cùng một mặt hàng.
Ngoài việc nghiên cứu những đặc điểm của thị trường hàng hoá, doanh
nghiệp cần phải nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh để nắm rõ điểm mạnh và
điểm yếu của họ; từ đó đưa ra các phương án thâm nhập và phát triển hàng hoá
tại đoạn thị trường mà doanh nghiệp hướng tới trên cở sở sử dụng những lợi thế
mà đối thủ cạnh tranh không có hay còn yếu. Chính sách của nhà nước trong
việc thúc đẩy hoạt động nhập khẩu cũng có ảnh hưởng tới việc xây dựng
phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
b)Nghiên cứu thị trường nước ngoài
Nghiên cứu thị trường nước ngoài là nghiên cứu số lượng nhà cung ứng
sản phẩm mà doanh nghiệp cần nhập khẩu, phuơng thức thanh toán, phương
thức vận chuyển, các yêú tố chính sách hay chính trị của quốc gia bên phía đối
tác. Hoạt động này cần rất nhiều thời gian để có thể đưa ra các phương án lựa
chọn nhà cung ứng đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp.
2.2. Xây dựng chiến lược, kế hoạch và phương án nhập khẩu
2.2.1. Xác định mục tiêu chiến lược
Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ có những thông
tin về thị trường, về nhà cung cấp và những hàng hoá cần nhập khẩu. Doanh
nghiệp sẽ có cơ sở để xây dựng chiến lược, kế hoạch và phương án nhập khẩu
hàng hoá tránh tình trạng nhập khẩu ồ ạt một loại hàng hoá mà mẫu mã kém
phong phú gây lãng phí nguồn lực. Để có thể xây dựng được một chiến lược
kinh doanh hợp lý, doanh nghiệp cần xác định mục tiêu chiến lược.
Mục tiêu là những giá trị cụ thể mà doanh nghiệp đạt được trong một giai
đoạn hay trong cả một quá trình kinh doanh. Mục tiêu này bao gồm mục tiêu dài
hạn, mục tiêu ngắn hạn. Khi tiến hàng xác định mục tiêu, doanh nghiệp cần tính
toán sao cho đảm bảo tính hợp lý, tính khả thi, tính đồng bộ,… giữa những mục
tiêu đặt ra trong cùng một thời kỳ.
2.2.2. Xác định các chính sách và điều kiện nhập khẩu
Đây là công việc xác định tư tưởng chỉ đạo trong suốt quá trình đàm phán
và thực hiện hợp đồng sau này. Doanh nghiệp cần xác định chính sách nhập
khẩu của mình thực hiện trong thời kỳ dài hay chỉ mang tính thời vụ, bên cạnh
đó là xác định điều kiện sẵn có của doanh nghiệp.
2.2.3. Lập kế hoạch, phương án kinh doanh
Trước hết ta phải hiểu thế nào là kế hoạch kinh doanh? Phương án kinh
doanh?
Kế hoạch kinh doanh là bản mô tả một cách tổng quát những nhiệm vụ,
mục tiêu của doanh nghiệp và những phương pháp để đạt được những mục tiêu
đó. Công tác lập kế hoạch sé giúp cho hoạt động nhập khẩu của công ty đi đúng
hướng và dễ thích ứng với những bất ngờ xảy ra. Kế hoạch kinh doanh cũng cần
phải đảm bảo tính khả thi và tính đồng bộ.
Phương án kinh doanh là một bản tài liệu trình bày toàn bộ phương án
nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó với đầy đủ các dữ liệu thể hiện tính khả thi
của phương án.
Lập một phương án kinh doanh là việc chỉ rõ những đặc điểm của hàng
hoá cần nhập, đặc điểm của đối tác, những lợi ích mà doanh nghiệp đạt được,…
và trong phương án kinh doanh cũng cần phải có những chỉ tiêu đã dự tính:
doanh thu, lợi nhuận, hiệu quả của phương án,.. Cuối cùng là những lời kết luận
và kiến nghị để phương án được thực thi một cách có hiệu quả nhất.
Doanh nghiệp không chỉ xây dựng một phuơng án nhập khẩu mà còn phải
xây dựng những phương án nhập khẩu khác nhằm duy trì liên tục hoạt động
nhập khẩu và đưa hàng nhập khẩu vào thị trường mà doanh nghiệp đã hướng
tới.
2.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu
Đàm phán là quá trình hai bên thương lượng, bàn bạc và trao đổi với nhau
các điều khoản mua bán chủ yếu để tiến hành đi đến ký kết hợp đồng.
Đây là giai đoạn đầu tiên của hoạt động ký kết hợp đồng, các bên sẽ trao
đổi những thắc mắc của mình với đối tác và thể hiện những nhu cầu và mong
muốn về lợi ích của mình. Do đó, các bên cần chuẩn bị kỹ lưỡng tài liệu cho
buổi đàm phán, tránh tình trạng không nắm rõ thông tin về đối tác của mình và
đem lại cho mình những lợi ích kinh tế mong muốn mà vẫn giữ mối quan hệ tốt
đẹp với đối tác.
Có ba hình thức đàm phán:
- Đàm phán trực tiếp: Các bên sẽ gặp mặt trực tiếp với nhau. Hình thức
đàm phán này sẽ đem lại hiệu quả cao khi các bên đều hiểu rõ nhu cầu của nhau
sau khi buổi đàm phán kết thúc. Do đó, độ an toàn khá cao. Tuy nhiên, với
những đối tác có khoảng cách về địa lý thì sử dụng hình thức đàm phán này rất
khó khăn và đàm phán trực tiếp cũng đi kèm với chi phí cao.
- Đàm phán qua thư: Có độ chính xác cao, tất cả yêu cầu và mong muốn của hai
bên đều được thể hiện trên thư tín,và hình thức này cũng tiết kiệm rất nhiều chi
phí cho các bên tham gia. Nhưng phương thức này có thề tốn nhiều thời gian
nếu thư tín bị thất lạc không đến được tay đối tác.
- Đàm phán sử dụng phương tiện truyền thông(Fax, telex, email…): hình thức này
được sử dụng khá phổ biến vì tính nhanh, đảm bảo nội dung cần đàm phán. Tuy
nhiên, chỉ có thể áp dụng khi các bên thật sự tin tưởng lẫn nhau.
Mỗi phuơng thức đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau, tuỳ
vào điều kiện của mình mà doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức đàm phán
phù hợp. Với mỗi quá trình đàm phán đều có nội dung cơ bản sau: