Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.08 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐÀO THỊ TRANG

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................................ 1

Chƣơng 1. TRÍ THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM......................................... 12

1.1. Khái niệm trí thức....................................................................................................................... 12
1.2. Vai trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá..................21
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA TRƢỚC YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ......................................................................................................... 36

2.1. Thực trạng đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay........................................................... 36
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trước yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá....................................................... 65
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG


NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC........................................................... 75

3.1. Một số phương hướng cơ bản nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá................................................................ 75
3.1.1. Tăng cường số lượng gắn với nâng cao chất lượng và đạt sự hợp lý
về cơ cấu của đội ngũ trí thức, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.................................................................. 75
3.1.2. Khai thác hợp lý, có hiệu quả đội ngũ trí thức, tạo môi trường và
điều kiện hoạt động thuận lợi để trí thức cống hiến được nhiều nhất
cho sự phát triển của đất nước...................................................................................... 79
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá................................................... 84
3.2.1. Nâng cao nhận thức toàn xã hội về vai trò của đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước............................... 84
3.2.2. Nâng cao mặt bằng dân trí và chất lượng giáo dục đào tạo - tiền đề
quan trọng để phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức.............87
3.2.3. Đặc biệt coi trọng việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, xây dựng
đội ngũ trí thức chuyên gia đầu đàn.......................................................................... 90


3.2.4. Bảo đảm dân chủ, tự do tư tưởng, điều kiện, phương tiện cho hoạt
động sáng tạo của trí thức; tôn trọng nhân cách trí thức................................. 96
3.2.5. Trọng dụng và tôn vinh trí thức, đãi ngộ thoả đáng vật chất và tinh
thần đối với lao động của trí thức............................................................................... 98
KẾT LUẬN.............................................................................................................................................. 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 107


QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BCHTW:


Ban Chấp hành Trung ương

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CTQG:

Chính trị quốc gia

Nxb:

Nhà xuất bản

TBCN:

Tư bản chủ nghĩa

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ bao đời nay, lịch sử đã chứng minh sự hưng vong của mỗi triều đại
tuỳ thuộc vào việc có quy tụ được “hiền tài” hay làm phân ly, thất tán
“nguyên khí quốc gia”. Mấy trăm năm trước, Lê Quý Đôn đã có sự tổng kết

tài tình: “Phi công bất phú, phi hưng bất hoạt, phi nông bất ổn, phi trí bất
hưng”. Sự hưng thịnh của mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào vai trò và thái
độ của đội ngũ trí thức đối với thể chế xã hội. Khi bàn về trí thức Lênin khẳng
định: “Các chuyên gia - một hạng người đặc biệt của xã hội và hạng người
này vẫn còn như thế mãi cho đến khi đạt tới giai đoạn phát triển cao nhất của
xã hội cộng sản” [67, tr.429]. Hồ Chí Minh khi nói về vai trò của trí thức
cũng đã viết: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến
quốc cũng cần, tiến lên chủ nghĩa cộng sản lại càng cần hơn” [97, tr.35].
Trí thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, là lực lượng nòng cốt sáng tạo và
truyền bá tri thức, là động lực quan trọng thúc đẩy sự đi lên của mỗi dân tộc.
Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, các quốc gia, ở những mức độ khác nhau, đang bước vào
thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Đội ngũ trí thức
vì thế ngày càng được đề cao, trở thành nguồn lực quan trọng đặc biệt, tạo nên
sức mạnh của mỗi quốc gia trong cuộc chạy đua, cạnh tranh toàn cầu.


Việt Nam, qua các giai đoạn lịch sử, trí thức đã có nhiều đóng góp to

lớn trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Trong thời kỳ đổi
mới, đội ngũ trí thức đã và đang chứng tỏ vai trò rất quan trọng của mình trong
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức trong
bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Họ thực sự là lực lượng nòng cốt
trong phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến, trực tiếp sáng tạo ra những tiến bộ
khoa học - công nghệ và tiếp thu, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại của thế giới, qua đó thúc đẩy sự phát triển khoa học - công nghệ

1


- nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Không những thế,

đội ngũ trí thức còn sáng tạo văn hoá và giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc;
đồng thời họ còn tham gia lãnh đạo, quản lý và điều hành quá trình phát triển
kinh tế - xã hội cũng như sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những thành tựu to lớn đạt được trong những năm đổi mới vừa qua có sự
đóng góp không nhỏ của đội ngũ trí thức nước ta. Nhận thức rõ điều này, Hội
nghị lần thứ bảy BCHTW khoá X đã ra Nghị quyết “Về xây dựng đội ngũ trí
thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, trong
đó khẳng định: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt
quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [38, tr.90].
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, thế mạnh với những đóng góp tích
cực và to lớn vào sự phát triển đất nước, đội ngũ trí thức nước ta cũng còn khá
nhiều nhược điểm, hạn chế, bộc lộ những bất cập trước yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm giảm đi đáng kể vai trò của họ.
Vì vậy, làm rõ thực trạng của đội ngũ trí thức nước ta hiện nay và nguyên
nhân của tình hình, từ đó có phương hướng và giải pháp thích hợp để nâng
cao vai trò của đội ngũ trí thức - lực lượng nòng cốt, trực tiếp thực hiện quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - thực sự là một đòi hỏi cấp thiết
mà thực tiễn đang đặt ra, một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan
trọng, cần được luận giải một cách nghiêm túc và khoa học. Để góp phần đáp
ứng đòi hỏi đó, chúng tôi đã chọn vấn đề “Nâng cao vai trò của đội ngũ trí
thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay”
làm đề tài luận văn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về đội ngũ trí thức là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu lý luận. Trong thời gian qua, đã có khá nhiều công trình

2



nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác nhau về đội ngũ trí thức và được
trình bày dưới dạng sách, luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học các
cấp, các bài báo.
-

Về sách có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau đây:

+
Cuốn “Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước” của Nguyễn
Quốc
Bảo - Đoàn Thị Lịch, Nxb Lao động, năm 1998. Trong công trình này các tác
giả đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi
mới. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm cũng như những hạn chế của trí
thức Việt Nam các tác giả đã đề ra những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức
nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
+

Cuốn “Một số vấn đề về trí thức Việt Nam” của PGS, TS. Nguyễn

Văn Khánh và TS. Nguyễn Quốc Bảo, Nxb Lao động, năm 2001. Trong công
trình này, các tác giả đã đi từ lý luận đến thực tiễn để từ đó khẳng định vai trò
của người trí thức Việt Nam trong lịch sử dân tộc trên các lĩnh vực, đặc biệt là
trong công cuộc giải phóng dân tộc.
+

Cuốn “Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công

nghiệp hoá, hiện đại hoá” của GS,TS. Phạm Tất Dong, Nxb CTQG, năm
2001. Đây là công trình chung của tập thể tác giả. Từ việc nghiên cứu tình

hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và một số yêu cầu đặt ra về
nguồn lực trí tuệ, các tác giả đã khẳng định vai trò đồng thời làm rõ ưu, nhược
điểm của đội ngũ trí thức ở nước ta, từ đó đề xuất những định hướng trong
hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2000 2010.
+

Cuốn “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” của

Bùi Thị Ngọc Lan, Nxb CTQG, năm 2002. Trong công trình này, trên cơ sở
nghiên cứu, phân tích một cách khá công phu về vị trí, vai trò và thực trạng
nguồn lực trí tuệ của đất nước, tác giả đã tập trung xây dựng hệ thống các giải
pháp thiết thực, cấp bách nhằm phát huy có hiệu quả nguồn lực này trong thời

3


kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
+
Cuốn “Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước”
của
Nguyễn Đắc Hưng, Nxb CTQG, năm 2005. Trong công trình này, khái niệm
trí thức, nguồn gốc hình thành, vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay được tác giả nghiên cứu khá kỹ. Tác giả cũng đã
trình bày một số vấn đề bức xúc đang đặt ra cho đội ngũ trí thức nước nhà và
đề xuất một số phương hướng xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức.
+

Cuốn “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức

nước ta hiện nay” của TS. Ngô Huy Tiếp, Nxb CTQG, năm 2008. Tác giả đã

đề cập đến thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức
Việt Nam từ năm 1996 đến nay, đề ra mục tiêu, phương hướng và giải pháp cơ
bản nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức
nước ta.
+

Cuốn “ Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại” của Nguyễn Đắc Hưng,

Nxb CTQG, năm 2008. Ở đây, tác giả đã làm rõ những vấn đề cơ bản, cấp
bách đặt ra đối với trí thức Việt Nam trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá.
Công trình này được xem như một bức tranh khá toàn diện và sinh động về
đội ngũ trí thức Việt Nam cùng những thông tin bổ ích về vị trí, vai trò và xu
hướng phát triển của trí thức Việt Nam trong xu thế phát triển mới.
+

Cuốn “Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong

sự nghiệp đổi mới” của Ngô Thị Phượng, Nxb CTQG, năm 2007. Trong cuốn
sách này, tác giả đã phân tích rõ khái niệm trí thức khoa học xã hội và nhân
văn và vai trò của họ đối với sự phát triển của xã hội; phân tích những đặc
điểm và xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn
Việt Nam; xác định những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ này dưới tác động
của sự nghiệp đổi mới đất nước; đánh giá những thành tựu, hạn chế và chỉ ra
nguyên nhân cũng như xác định mâu thuẫn nảy sinh trong việc thực hiện vai
trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong những

4


năm vừa qua; đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy

vai trò của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay.
+

Cuốn “Kinh nghiệm của một số nước về phát triển giáo dục và đào

tạo khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức” của Viện Khoa
học giáo dục Việt Nam, Nxb CTQG, năm 2008. Trong cuốn chuyên khảo này
các tác giả tập trung phân tích kinh nghiệm của các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Cộng hoà Liên bang Đức là những nước phát triển hiện đại, có trình độ khoa
học kỹ thuật cao và có quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá lâu dài; Hàn
Quốc và Singapore là những nước công nghiệp mới, từ một trình độ kinh tế,
khoa học kỹ thuật lạc hậu vài chục năm trước đây đã vươn lên mạnh mẽ, trở
thành những nước phát triển mới; Trung Quốc là nước có nhiều đặc điểm về
kinh tế -xã hội tương đồng với Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng rất nhanh
và sẽ trở thành một trong ba nền kinh tế lớn nhất thế giới. Các tác giả đã phân
tích chính sách gắn phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ với
xây dựng đội ngũ trí thức của từng nước, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam.
- Về luận văn, luận án có thể kể đến những công trình sau:
+

“Sự hình thành thế giới quan XHCN ở tầng lớp trí thức Việt Nam”,

luận án PTS khoa học Triết học, 1993 của Trần Thước. Trong luận án này, tác
giả đã đi sâu nghiên cứu một phương diện của tầng lớp trí thức Việt Nam là
“thế giới quan” nhưng lại là một phương diện quan trọng nhất, tạo nên bản
chất của người trí thức Việt Nam. Qua công trình này, người đọc không chỉ
nhận thấy sự chuyển biến về thế giới quan của tầng lớp trí thức mà còn biết
được cả diện mạo của lịch sử cách mạng Việt Nam - yếu tố quyết định đến sự
hình thành thế giới quan XHCN của trí thức mới Việt Nam. Kết quả của công

trình này cho người đọc thấy rõ tại sao tầng lớp này luôn gắn bó và có những
đóng góp quan trọng đến sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở
Việt Nam.

5


+

“Đặc điểm và vai trò đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới của

đất nước hiện nay”, luận án PTS khoa học Triết học, 1994 của Nguyễn Thanh
Tuấn. Trên cơ sở kiến giải một cách có hệ thống quan niệm macxít về vấn đề
trí thức, phân tích đặc điểm cũng như xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức,
tác giả đã làm sáng tỏ vai trò của đội ngũ này đối với sự lựa chọn XHCN và
công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, đồng thời kiến giải một số quan niệm
và giải pháp đổi mới công tác quản lý và chính sách đối với đội ngũ này.
+

“Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nước ta trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, luận văn thạc sĩ triết học, 1998 của
Nguyễn Thị Thông. Trong luận văn này, tác giả đã trình bày vai trò của đội
ngũ trí thức nước ta trong quá trình xây dựng CNXH nói chung và sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng. Từ đó, đề xuất một số phương hướng
và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nước ta một
cách có hiệu quả nhất trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+

“Nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh An Giang trong công


cuộc đổi mới hiện nay”, luận văn thạc sĩ Triết học, 1999 của Phạm Thị Thu
Hồng. Tác giả của luận văn đã trình bày rõ thêm về đặc điểm của đội ngũ trí
thức tỉnh An Giang, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nữa
vai trò của họ trong sự nghiệp đổi mới của tỉnh.
+

“Cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại học ở nước ta hiện nay”,

luận án tiến sĩ Triết học, 2001 của Nguyễn Văn Sơn. Trên cơ sở làm rõ những
nét cơ bản về thực trạng cơ cấu và chất lượng đội ngũ trí thức giáo dục đại
học, từ đó đề xuất một số giải pháp lớn nhằm xây dựng đội ngũ này có cơ cấu
hợp lý và chất lượng cao, để góp phần xây dựng một nền giáo dục đại học
Việt Nam hiện nay, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay nói riêng cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã

6


hội ở nước ta nói chung.
+

“Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi

mới”, luận án tiến sĩ Triết học, 2002 của Trịnh Quang Cảnh. Trong luận án
này, tác giả đã làm rõ những đặc điểm của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu
số, đi sâu phân tích thực trạng đội ngũ này ở nước ta hiện nay và đề xuất
phương hướng, những giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía bắc) trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

+

“Xây dựng đội ngũ trí thức ngành kiến trúc trong công cuộc đổi mới ở

nước ta hiện nay”, luận án TS khoa học Triết học, 2005 của Lê Quang Quý.
Trong luận án này, tác giả đã trình bày những đặc điểm, vai trò, thực trạng và dự
báo xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức ngành kiến trúc Việt Nam trong
công cuộc đổi mới, xác định yêu cầu, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm xây
dựng đội ngũ trí thức ngành kiến trúc Việt Nam trong những năm tới.

+

“Vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong sự

nghiệp đổi mới”, luận án TS Triết học, 2006 của Ngô Thị Phượng. Trên cơ sở
luận giải những vấn đề lý luận và thực trạng việc thực hiện vai trò của đội ngũ
trí thức khoa học xã hội và nhân văn những năm đổi mới vừa qua, tác giả đã
đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội
ngũ này trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
+

“Vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay”, luận văn thạc sĩ triết học, 2009 của Lê
Phong Hồng. Trên cơ sở làm rõ quan niệm về trí thức và vai trò của trí thức trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tác giả của luận văn đã đi vào
phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình; đánh giá vai trò của
đội ngũ này trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh, tìm ra
nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân của hạn chế, yếu kém, những vấn đề
đặt ra đối với việc phát huy vai trò đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong


7


giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát huy vai trò
đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá mà tỉnh đang thực hiện.
-

Về đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, có thể kể đến các công trình

nghiên cứu sau đây:
+

“Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức Việt

Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, 2004 của PGS, TS. Đoàn Văn
Khái. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ bản chất của kinh tế tri thức và
những đòi hỏi của nó đối với đội ngũ trí thức, trên cơ sở đó, đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam để đáp
ứng yêu cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức.
+

“Quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức và việc xây dựng đội ngũ trí

thức nước ta thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp cơ sở, 2007 của Phạm Đức Long. Tác giả đã trình bày quan điểm của
Hồ Chí Minh về vai trò của trí thức, vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh,
của Chủ nghĩa Mác-Lênin và của Đảng ta về trí thức để xem xét thực trạng, từ
đó đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ trí thức

nước ta trong tình hình hiện nay.
+

Về các bài báo, có thể kể đến các bài viết sau đây:

“Những yêu cầu đối với trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá”, Tạp chí Cộng sản, số 656, tháng 9 năm 2002 của Ngô Đình
Xây. Trong bài viết này, tác giả đã trình bày những phẩm chất và năng lực chủ
yếu của đội ngũ trí thức nước ta trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
+

“Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc”, Tạp chí

Nghiên cứu Lịch sử, số 1, năm 2002 của Nguyễn Văn Khánh. Trong đó, tác
giả đã đề cập đến sự biến đổi trong cơ cấu tầng lớp trí thức dân tộc, trí thức
Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

8


+
“Phát huy vai trò của trí thức Việt Nam trong hội nhập kinh tế
quốc tế”,
Tạp chí Cộng sản, số 777, năm 2007 của Lê Khả Thọ. Ở đây, tác giả đã trình bày
những khó khăn của nước ta hiện nay như: nước ta hiện vẫn còn là nước nghèo,
thiếu cán bộ quản lý có khả năng trên cả hai cấp độ: vĩ mô và vi mô, luật chơi
quốc tế, luật chơi của WTO chúng ta chưa thành thạo… từ đó, đưa ra những giải
pháp nhằm phát huy vai trò của trí thức Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế

mà trí thức phải làm khi nước ta đã là thành viên của WTO.

+

“Phát huy tiềm năng trí thức người Việt Nam ở nước ngoài vào sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Cộng sản, số 795,
tháng 1 năm 2009 của Nguyễn Thanh Sơn. Ở bài viết này, tác giả đã trình bày
những nét chung về trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, những đóng góp
của họ, các hình thức tập hợp trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Từ đó,
đề cập một số chủ trương, giải pháp nhằm qui tụ nhiều hơn nữa đội ngũ trí
thức người Việt Nam ở nước ngoài vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
v.v…
Các công trình nghiên cứu nêu trên được tác giả luận văn tham khảo,
kế thừa có chọn lọc những nội dung liên quan đến đề tài trong quá trình thực
hiện luận văn.
Như vậy, nhìn chung xung quanh vấn đề đội ngũ trí thức đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu ở những góc độ và mức độ khác nhau. Mặc dù
vậy, do giới hạn bởi mục đích nghiên cứu nên phương diện tiếp cận khác
nhau, vì thế nội dung đề cập cũng khác nhau… Mặt khác, do tầm quan trọng
và tính cấp thiết của vấn đề nên rất cần có những công trình tiếp tục nghiên
cứu mảng vấn đề này một cách hệ thống, toàn diện, cập nhật và sâu sắc hơn.
Đề tài luận văn mà chúng tôi lựa chọn chính là với mong muốn góp phần luận
bàn về việc nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.

9



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*

Mục đích nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức
Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực trạng của đội
ngũ trí thức nước ta hiện nay; trên cơ sở đó, đề xuất một số phương hướng và
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
*

Nhiệm vụ nghiên cứu:

Với mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Thứ nhất, luận giải khái niệm trí thức và vai trò của trí thức Việt Nam
đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện
nay, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của tình hình; từ đó làm
rõ những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức trước yêu cầu của công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, trình bày một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
*

Đối tượng nghiên cứu:

Đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

*
+

Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: luận văn giới hạn nội dung nghiên cứu ở mục đích và

nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên.
+

Về thời gian: giới hạn từ khi nước ta tiến hành đổi mới đến nay và

trong những năm tới (đến năm 2020).

10


5.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của trí thức trong quá trình xây dựng
xã hội mới - XHCN, cùng với các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như đối
với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
-

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu là: phân tích, tổng hợp,

lôgíc và lịch sử, hệ thống hoá, khái quát hoá với tinh thần lý luận kết hợp với

thực tiễn trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

6. Đóng góp của luận văn
-

Luận văn góp phần làm rõ thêm vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
-

Góp phần làm sáng tỏ bức tranh tổng quát về thực trạng đội ngũ trí

thức Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu của công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
-

Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ trí

thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
-

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên

cứu và giảng dạy những chuyên đề liên quan đến đội ngũ trí thức.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm ba chương với sáu tiết:
Chƣơng 1: Trí thức và vai trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Chƣơng 2: Thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam và những vấn đề đặt

ra trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò
của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.

11


Chƣơng 1
TRÍ THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm trí thức
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường hiểu đơn giản và sai lệch
khái niệm trí thức, hễ ai có được tấm bằng cao đẳng hay đại học thì đều được
xếp vào trí thức. Thực ra, cách hiểu như vậy đã tầm thường hoá khái niệm trí
thức và do đó đã tầm thường hoá giới trí thức. Chính vì thế, chúng ta cần phải
hiểu đúng hơn về khái niệm trí thức. Theo nhiều nhà khoa học “trí” thuộc về
hiểu biết, “thức” thuộc về lương tri. Trí thức là những người biết mình, biết
người, hiểu biết xã hội và phụng sự xã hội, gắn sự nghiệp của mình với sự
phát triển xã hội, và do đó, trí thức phải là người có đức độ. Cho nên, nói đến
“chuẩn” của người trí thức, người ta thường nhấn mạnh đến một lượng kiến
thức lớn, nhưng đồng thời lại nói đến tinh thần sáng tạo và phẩm chất đạo
đức.
Thuật ngữ “trí thức” được dùng ở nhiều nước trên thế giới và có nguồn
gốc từ tiếng La tinh: Intelligentia nghĩa là thông minh, có trí tuệ, hiểu biết, có
suy nghĩ. Từ những năm nửa sau của thế kỷ XIX, khái niệm này trở nên thông
dụng, người ta thường dùng nó để chỉ những người có học vấn cao, chuyên
lao động phức tạp.
Các nhà khoa học xuất phát từ lăng kính khác nhau, đã có những quan
niệm, những định nghĩa khác nhau về trí thức. Do đó, cho đến nay có rất

nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm trí thức.`
Từ điển tiếng Nga (11/1991) viết: Trí thức đó là những người có học
vấn và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hoá
và đang làm nghề lao động trí óc.
Từ điển Bách khoa Liên Xô, viết: Trí thức là tầng lớp những người làm

12


nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá văn hoá.
Từ điển Bách khoa Triết học, viết: Trí thức là tầng lớp những người lao
động trí óc và thường có học vấn cao tương ứng, có chức năng sáng tạo, phát
triển và phổ biến văn hoá.
Trong Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn và phát
hành năm 1997, do Hoàng Phê chủ biên cho rằng: Trí thức là người chuyên
làm việc bằng trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề
nghiệp của mình.
Trong tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trân
trọng và đánh giá cao vai trò của người trí thức tham gia cách mạng. Người đã
đặt ra và giải quyết vấn đề: Trí thức là gì? Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới
chỉ có hai thứ hiểu biết: Một là, hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự
nhiên do đó mà ra. Hai là, hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội.
Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác.
Một người học xong đại học, có thể là trí thức.
Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh
giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không
biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách,
chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn trở thành người trí thức hoàn toàn, thì
phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế [90, tr.12].
Một số người khác lại cho rằng những người hoạt động trí óc trong lĩnh

vực nào thì chỉ được coi là trí thức trong lĩnh vực chuyên môn đó, còn ngoài
lĩnh vực chuyên môn của họ đang làm, có nghĩa là ở các lĩnh vực khác thì họ
chỉ được coi là những người bình thường như bao người khác. Nếu quan niệm
trong phạm vi hẹp như vậy thì những người được coi là trí thức sẽ rất hạn chế.
Một loại ý kiến lại cho rằng trí thức là những người sáng tạo những giá
trị về vật chất, giá trị tinh thần hoặc cả hai và mức độ đánh giá về trí thức phụ
thuộc vào mức độ sáng tạo, như vậy, cho phép phân loại trí thức ở những tầng

13


bậc khác nhau. Có những trí thức tầm cỡ thế giới, có trí thức tầm khu vực, có
trí thức tầm cỡ quốc gia.
Một số người lại cho rằng trí thức là người sử dụng trí óc một cách sáng
tạo, họ thuộc lớp những người thông minh nhất trong xã hội, có khả năng phát
triển cao độ để hiểu biết và lý giải những vấn đề nảy sinh trong xã hội. Họ
được đào tạo đến trình độ có khả năng hoạt động trong các lĩnh vực khoa học
hay nghệ thuật, hoặc có khả năng hoạt động liên quan đến tư duy ở mức độ
cao hơn những người bình thường, hay nói cách khác là những người chuyên
lao động trí óc…
Hiện nay, thế giới đang trong thời kỳ hội nhập, với sự phát triển mạnh
mẽ của truyền thông và Internet, đòi hỏi ngày càng cao những phẩm chất của
người trí thức. Một mặt, họ phải dũng cảm nói lên ý kiến của mình, đấu tranh
vì những giá trị tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, hạnh phúc, thịnh
vượng, công bằng; phải trung thực, độc lập, sáng tạo, tự chủ, góp sức mình
cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Mặt khác, họ phải có trách nhiệm và
cân nhắc về những điều mình nói và mình viết vì chúng có tác động sâu sắc
đến xã hội. Trong số các tính cách của trí thức thì tính trung thực là quan
trọng nhất, vì không trung thực thì trí thức chỉ có tri thức giả, đạo đức giả và
hậu quả của những sự “giả” ấy sẽ gây ra những thảm họa cho xã hội, cuối

cùng con người phải hứng chịu những sản phẩm giả, làm cho con người dần
dần mất niềm tin vào cuộc sống, mất phương hướng và sống một cuộc sống
không còn ý nghĩa. Người trí thức mang những giá trị tốt đẹp không phải tự
nhiên mà có, nó phải được giáo dục, rèn luyện trong một thời gian dài. Tuy
nhiên, trong khoảng thời gian con người sống và hoạt động sẽ chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố chính trị và kinh tế - xã hội, nhất là chịu ảnh hưởng bởi sự
tác động về chính sách và cách thức giáo dục từ gia đình đến xã hội làm cho
nhân cách của con người cũng có sự biến đổi.
Qua một số quan niệm, định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy rằng dù

14


góc độ tiếp cận khác nhau, cách diễn đạt khác nhau, song những quan niệm,
định nghĩa này đều dựa vào một số đặc trưng cơ bản của trí thức sau đây:
Thứ nhất, trí thức là người lao động trí óc phức tạp, sáng tạo.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động của mình tác
động vào tự nhiên, nhằm khai thác và cải tạo tự nhiên theo những phương
thức nhất định, phục vụ cho nhu cầu của mình. Phương thức mà con người sử
dụng để tác động vào tự nhiên trong các thời đại và ngay cả trong một thời đại
cũng khác nhau. Họ có thể tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới tự
nhiên thông qua lao động chân tay hoặc lao động trí óc.
Nói tới trí thức là nói tới hoạt động lao động sáng tạo bằng trí óc. Lao
động trí óc là một trong những cách thức mà một bộ phận trong xã hội sử dụng
để tác động đến tự nhiên một cách gián tiếp. Lao động trí óc xuất hiện là kết quả
của sự phân công lao động trong xã hội và phát triển lực lượng sản xuất. Sự xuất
hiện lao động trí óc dẫn đến sự ra đời một tầng lớp lao động đặc biệt trong xã hội
- tầng lớp trí thức. Tuy nhiên, lao động trí óc là lĩnh vực tương đối rộng, bao gồm
lao động trí óc giản đơn và lao động trí óc phức tạp. Lao động trí óc giản đơn và
phức tạp phân biệt với nhau ở mức độ hao phí năng lượng thần kinh trung ương

trong quá trình làm việc. Lao động trí óc phức tạp cần sự hao phí năng lượng
thần kinh trung ương cao hơn để thực hiện những hoạt động phức tạp của tư duy
như phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, khái quát hoá, trừu tượng hoá… về
những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội thành lý luận, tri thức khoa học
mới, có tính sáng tạo. Còn lao động trí óc giản đơn chỉ là những hoạt động lặp đi
lặp lại nhiều lần và dần dần thành thói quen, phản xạ. Lao động trí óc giản đơn
gắn với lao động chân tay, là dạng cao hơn của lao động chân tay. Lao động trí
óc giản đơn thường không tạo ra tri thức khoa học mới mà chỉ tạo ra những tri
thức kinh nghiệm thông thường. Vì vậy, không phải tất cả những người lao động
trí óc đều là trí thức, mà chỉ những người lao động trí óc phức tạp mới có khả
năng trở thành người trí thức.

15


Thứ hai, sản phẩm lao động của trí thức là tri thức khoa học mới.
Tri thức khoa học phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng,
phản ánh mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Tri
thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức lý tính, bắt nguồn từ thực
tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm thông qua hoạt động lao động sáng tạo
của đội ngũ trí thức - lao động trí óc phức tạp. Sản phẩm lao động của trí thức
chính là tri thức khoa học. Sản phẩm này có đặc điểm là tồn tại ở dạng tinh
thần, mới, có tính kế thừa nhưng không lặp lại, có giá trị xã hội cao. Vì vậy,
lao động của trí thức là lao động mang tính sáng tạo rõ nét.
Thứ ba, trí thức là người có trình độ học vấn, chuyên môn sâu.
Để thực hiện được hoạt động lao động trí óc phức tạp, sáng tạo nhằm
tạo ra những tri thức khoa học, trí thức phải là những người có trình độ học
vấn và chuyên môn sâu. Tuy nhiên, tiêu chí trình độ học vấn để xác định trí
thức mang tính lịch sử, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh cụ
thể, mặt bằng dân trí, nội dung giáo dục của từng quốc gia, dân tộc.

Hiện nay, ở nhiều nước nói chung và Việt Nam nói riêng, trong điều
kiện của nền giáo dục hiện đại, tiêu chí để xác định trí thức là từ trình độ đại
học trở lên. Với trình độ kiến thức ban đầu như vậy, người trí thức mới có khả
năng để thực hiện lao động sáng tạo thực sự. Song, tiêu chí về trình độ học
vấn mới chỉ là một dấu hiệu để xác định trí thức, chứ chưa đủ để trở thành trí
thức. Có những người có trình độ đại học, thậm chí trên đại học, nhưng lao
động của họ không đảm nhiệm chức năng của người trí thức - sáng tạo tri thức
khoa học, thì cũng chưa phải là trí thức. Ngược lại, có những người không có
bằng cấp, chủ yếu là tự học hỏi và từ thực tiễn lại có được lượng tri thức
phong phú, có nhiều sáng tạo tri thức mới vẫn có thể coi là trí thức, thậm chí
còn là nhà khoa học vĩ đại như Robert Owen, Phridrích Ăngghen, Albert
Einstein… Hay ở Việt Nam thời kỳ phong kiến, phụ nữ không được đến
trường nhưng lại có những nữ trí thức điển hình như Hồ Xuân Hương, Đoàn

16


Thị Điểm… Vì vậy, văn bằng chỉ là chứng nhận về trình độ học vấn, còn để
được công nhận là trí thức phải được xã hội kiểm định chất lượng thông qua
hoạt động thực tiễn.
Bên cạnh trình độ học vấn, người trí thức còn phải được trang bị kiến
thức sâu về chuyên ngành. Kiến thức sâu về chuyên ngành là cơ sở và điều
kiện cho lao động sáng tạo khoa học của trí thức. Đó không chỉ là những kiến
thức được trang bị trong nhà trường mà còn là sự tìm tòi, thể nghiệm, là
những kinh nghiệm thực tiễn của bản thân đúc kết lại. Để tham gia vào quá
trình lao động sáng tạo khoa học, người trí thức phải đi sâu nghiên cứu
chuyên ngành mà mình được đào tạo hoặc tham gia nghiên cứu khoa học. Có
kiến thức sâu về chuyên ngành thì họ mới có thể sáng tạo ra những sản phẩm
khoa học đích thực, đúng với tiềm năng, sở trường của họ.
Thứ tư, trí thức tham gia (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào trong tất cả các

lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Trí thức có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Trí
thức góp phần phát triển những học thuyết, định hướng chính trị cho sự vận
động của một giai cấp, một chính đảng, một quốc gia. Họ là lực lượng chủ
chốt trong nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và đưa tiến bộ khoa học
vào sản xuất, trí thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mặt khác, họ
còn là lực lượng chủ yếu duy trì, phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng,
phát triển con người. Họ thực hiện chức năng đào tạo trí thức mới cho đất
nước, chức năng phê phán xã hội, tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Trí
thức còn có trách nhiệm lớn trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu của
thời đại, qua đó góp phần làm cho xã hội phát triển bền vững… Ngày nay, trí
thức là một chủ thể của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đang dần
trở thành một bộ phận đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế tri thức.
Thứ năm, người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, có lương
tâm. Ngoài những đặc trưng cơ bản phản ánh sự hiểu biết, năng lực, người

17


trí thức còn cần phải có những phẩm chất phản ánh lương tri, đạo đức con
người. Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở thanh niên trí thức cần phải chú
trọng bồi dưỡng cả đức lẫn tài. Theo Người đức là cái gốc, nhưng trí là cái
quan trọng. Thiếu đức hoặc tài đều không phải là trí thức hoàn toàn: “Trí thức
phải có đạo đức cách mạng… có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô
hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa,
không giúp gì được ai” [74, tr.184].
Người trí thức chân chính có đạo đức là người phục vụ lợi ích cho toàn
dân tộc. Người trí thức chân chính có trong mọi thời đại, mọi giai cấp, mọi
dân tộc, tuỳ thuộc vào hoạt động trí tuệ và hoạt động xã hội của họ. Họ có thể
là nhà trí thức phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị, khi giai cấp thống

trị còn là đại biểu thực sự của nhân dân. Họ có thể là trí thức phục vụ chế độ
TBCN và hoạt động trong guồng máy của nhà nước tư sản, khi họ không
chống lại nhân dân, không phải là kẻ thù của nhân dân. Và đương nhiên trong
chế độ XHCN, họ trở thành tầng lớp trí thức của giai cấp công nhân, của cách
mạng, của nhân dân.
Ngày nay, sự căng thẳng giữa khoa học và lương tâm, kỹ thuật và đạo
đức, nghệ thuật và đạo đức lên tới cực điểm, trở thành mối đe dọa toàn cầu.
Di truyền học, phân tử và năng lượng hạt nhân… tuỳ theo cách chúng ta được
sử dụng như thế nào mà có thể đem lại những lợi ích lớn lao cũng như những
đe doạ có tính huỷ diệt. Do đó, đạo đức của trí thức - những người sáng tạo ra
những thành tựu khoa học - công nghệ đóng một vai trò rất quan trọng vào
việc định hướng khoa học, nghệ thuật cả trong nghiên cứu sáng tạo lẫn trong
định hướng sử dụng. Như vậy, yếu tố đạo đức là yếu tố bắt buộc đối với người
trí thức chân chính, đặc biệt trong thời đại hiện nay.
Hiện nay, trong xã hội vẫn tồn tại những quan niệm khác nhau về bản
chất xã hội của trí thức. Do đó, cần phải làm rõ sự khác biệt trong tính chất
lao động của trí thức. Chúng ta không nên nhầm lẫn giữa tầng lớp trí thức với

18


những người lao động trí óc. Tại sao lại hay nhầm lẫn như vậy? Bởi lẽ, trong
thời đại ngày nay, khi mà khoa học, kỹ thuật phát triển như vũ bão, đã có sự
xích lại gần nhau giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Chính vì thế khi
chúng ta phân biệt cần phải xác định rõ sự khác biệt trong tính chất lao động
của tầng lớp trí thức.
Sự khác biệt giữa những người lao động trí óc như trí thức và những
viên chức hoạt động trong lĩnh vực hành chính, hậu cần, dịch vụ… Lao động
của các viên chức này không phải là lao động trí óc phức tạp nên không bắt
buộc họ phải có học vấn cao, mặc dù xu hướng nâng cao trình độ học vấn của

tầng lớp này là cần thiết. Trái lại, trí thức là tầng lớp lao động sáng tạo ra các
giá trị tinh thần, vật chất cho xã hội, hoạt động của trí thức là hoạt động trí óc
phức tạp nên bắt buộc họ phải có học vấn cao. Tính chất đặc thù của tầng lớp
trí thức chính là hoạt động sáng tạo ra các tri thức khoa học. Sự phân biệt về
lao động của trí thức và viên chức chính là ở nội dung và tính chất của lao
động trí óc, ở chiều sâu của trí tuệ chứ không phải ở hình thức bên ngoài của
lao động trí óc và học vấn. Trong đó, viên chức lao động phức tạp nặng về
vận dụng tri thức đã biết, còn trí thức là người lao động trí óc phức tạp, sáng
tạo dựa trên trình độ học vấn cao.
Nó còn được thể hiện giữa những người có cùng trình độ đại học trở
lên, nhưng lại lao động trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội, ví dụ như
ngành dịch vụ, buôn bán, kinh doanh thương mại… liệu họ có thể được gọi là
trí thức được không?
Không nên coi trí thức là một bộ phận của giai cấp công nhân, mặc dù
thành phần xuất thân của trí thức hiện nay chủ yếu từ công nhân, nông dân; trí
thức phục vụ nền chuyên chính công nông và được trang bị bằng tư tưởng của
giai cấp công nhân. Xét một cách tổng thể thì đội ngũ trí thức ngày càng có
vai trò to lớn trong khối liên minh công - nông và họ sẽ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Nhưng một câu hỏi đặt ra là trí

19


thức có phải là một giai cấp hay không?
Trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội đặc biệt
và đặc thù. Bởi vì, trí thức không thuộc về một giai cấp nào duy nhất, nó hình
thành như một nhóm xã hội lớn theo cách nhìn của xã hội học, có đặc điểm
lao động và phương thức sản xuất riêng để sản xuất và truyền bá tri thức. Trí
thức đến từ nhiều bộ phận khác nhau trong xã hội: từ các giai cấp, các lực
lượng, các tập đoàn, các nhóm xã hội... Trí thức không trực tiếp tham dự vào

sở hữu tư liệu sản xuất vật chất của xã hội nhưng lại rất nổi trội trong sở hữu
trí tuệ. Trí thức không phải là một giai cấp nên họ không có hệ tư tưởng độc
lập, họ luôn có xu hướng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những yêu cầu lịch sử
của thời đại mà họ đang sống, họ phục vụ cho chế độ và cho giai cấp cầm
quyền. Tuy nhiên, trí thức không chỉ do giai cấp thống trị cầm quyền chi phối.
Tầng lớp trí thức hình thành và tồn tại trong lòng dân tộc, trong khuôn khổ
từng quốc gia - dân tộc và trong cộng đồng xã hội. Do đó, tầng lớp trí thức có
mối liên hệ mật thiết với dân tộc và nhân dân.
Từ những những quan niệm và những đặc trưng nêu trên về trí thức,
chúng ta có thể khái quát: Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, bao gồm
những người lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn và chuyên môn
cao, có đạo đức, có khả năng sáng tạo tri thức khoa học mới, đồng thời
truyền bá, nhất là ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động thực tiễn, góp
phần to lớn đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội và trình độ văn
minh của nhân loại.
Theo Từ điển Tiếng Việt 1996 (Hoàng Phê chủ biên) thì khái niệm đội
ngũ là tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp
thành một lực lượng. Như vậy, khi đã mang thiên chức của người trí thức
chân chính, những con người trí thức cụ thể được tập hợp trong một nhóm
ước lệ, không phân biệt nguồn gốc xuất thân mà ta gọi là đội ngũ trí thức, giới
trí thức hay tầng lớp trí thức. Điểm khác biệt giữa người trí thức với người lao

20


động bình thường là ở chỗ họ thực hiện sự nghiệp lao động của mình chủ yếu
bằng lao động trí tuệ, hoạt động trí tuệ bằng tư duy sáng tạo, những hoạt động
thường mang tính chất cá thể hoặc dấu ấn cá nhân, cá tính. Mặc dù trí thức
không phải là một giai cấp, cũng không phải là “giai cấp đặc biệt” hoặc “siêu
giai cấp” trong bất cứ một xã hội nào nhưng trí thức là một lực lượng quan

trọng mà xã hội nào cũng quí trọng, tôn vinh, tự hào về họ. Đây còn là lực
lượng ngày càng quan trọng trong thời đại mới - thời đại cách mạng khoa học
- công nghệ, thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức và đặc biệt là trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Vai trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Công nghiệp hoá xuất hiện vào giai đoạn phát triển thấp của chủ nghĩa
tư bản. Ở thế kỷ XVIII khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu,
công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao
động sử dụng máy móc là cơ bản. Những khái niệm thuộc lĩnh vực kinh tế xã hội nói chung và khái niệm công nghiệp hoá nói riêng mang tính lịch sử,
tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội.


nước ta, công nghiệp hoá đã được tiến hành vào những năm 60 của

thế kỷ XX, tuy vậy do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau
nên quá trình công nghiệp hoá của nước ta đạt hiệu quả rất hạn chế. Kể từ sau
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, với tinh thần đổi mới toàn
diện, bắt đầu từ đổi mới tư duy, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
quan niệm về công nghiệp hoá được nhận thức lại một cách sâu sắc hơn,
đường lối công nghiệp hoá của Đảng ta đã có nhiều thay đổi, coi công nghiệp
hoá gắn liền với hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá
độ.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại,
đúc rút những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá và từ thực
tiễn công nghiệp hoá trong thời kỳ mới, nhận thức rõ sự tác động mạnh mẽ

21



×