Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tỉnh hưng yên giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.33 KB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là nguồn lực của mọi
nguồn lực. Vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực đã trở thành vị trí trung tâm
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Kinh nghệm ở một số nước cho thấy
muốn phát triển kinh tế nhanh và bền vững thì tất yếu phải phát triển nguồn
nhân lực - nhân tố con người.
Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới từ năm 1986 đã mở ra một trang
sử mới cho dân tộc. Nhưng khi Việt Nam đi lên xây dựng CNXH trong điều
kiện 80% lao động làm nghề nông nghiệp nên đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Để thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu, ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học
hành và sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm niệm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thì việc làm đầu tiên và trước nhất là chúng ta phải tiến hành
CNH, HĐH đất nước mà trọng tâm đối với nông dân, nông nghiệp và nông
thôn là CNH, HĐH NN, NT. Nhận thức được tầm quan trọng của CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo đến phát triển
nguồn nhân lực, coi đây là động lực là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Như
Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định: “Lấy việc phát huy nguồn lực
con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đến Đại hội
IX của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Phát triển nguồn lực con người Việt Nam với
yêu cầu ngày càng cao nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cả về số lượng và chất
lượng đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH”.
Hưng Yên là một tỉnh nằm ở Đồng bằng sông Hồng với diện tích không
rộng, dân không đông nhưng dân số chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp,
trình độ người lao động chưa cao. Một thách thức lớn trong khu vực này là
diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp, tình trạng thất nghiệp, thiếu

1



việc làm của người lao động có xu hướng gia tăng. Điều đó trong giới hạn
nhất định sẽ ảnh hưởng đến tiến trình CNH, HĐH NN, NT của tỉnh.
Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ Hưng Yên lần thứ XVII đã chỉ rõ:
“Phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, gắn với xây dựng nông thôn
mới” [25, tr.103].
Để thực hiện chủ trương trên, một trong những vấn đề quan trọng là
phải phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đặc biệt là nguồn nhân
lực - nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công
nghiệp hóa NN, NT Hưng Yên nói riêng.
Với lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề “Phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay” làm đề tài
luận văn thạc sĩ triết học - chuyên ngành triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển lịch sử, do
đó, vấn đề con người, nhân tố con người luôn luôn là đối tượng thu hút sự
quan tâm của nhiều ngành khoa học. Thực tiễn ngày càng chứng minh, sự
phát triển bền vững của mỗi quốc gia phụ thuộc vào việc đầu tư, khai thác,
phát huy có hiệu quả vai trò nhân tố con người.
Từ những nghiên cứu chung về con người, các nhà khoa học Xô viết
trước đây đã đi sâu nghiên cứu về nhân tố con người và phát huy vai trò của
nhân tố con người. Đã có nhiều đề tài và công trình của các nhà khoa học Xô
viết đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa nhân tố con người với các nhân
tố kinh tế, vật chất, kĩ thuật trong cấu trúc nền sản xuất xã hội. Công trình
nghiên cứu của viện sĩ Giaxlapxkai về công bằng xã hội và nhân tố con người
những năm 1986 - 1987 là một ví dụ tiêu biểu. Hội nghị khoa học giữa các
nhà khoa học Xô viết và Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào năm 1988 đã tập
trung trao đổi ý kiến và thảo luận xoay quanh chủ đề về nhân tố con người và
phát triển kinh tế - xã hội.

2





nước ta, các nhà khoa học đã có những hoạt động sôi nổi về nghiên

cứu vấn đề con người. Đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, các nhà
khoa học đi sâu nghiên cứu về vấn đề nguồn lực con người, nguồn nhân lực
chất lượng cao trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, nhiều bài viết đã thể hiện quan điểm coi con người là nguồn tài
nguyên vô giá, đã luận chứng cho sự cần thiết phải đầu tư vào việc phát triển
hoặc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, lấy đó làm đòn bẩy để phát triển
kinh tế, để CNH, HĐH đất nước. Những bài viết, những công trình khoa học
đó được đăng trên các sách báo, tạp chí, đó là những bài viết về: "Xây dựng
nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa, tiếp tục thực hiện chiến lược xây dựng
và phát triển nguồn lực con người Việt Nam" của nguyên Tổng Bí thư Lê Khả
Phiêu (đăng trên Tạp chí Phát triển giáo dục 4/1998); "Tài nguyên con người
trong quá trình CNH, HĐH đất nước" của Nguyễn Quang Du (Tạp chí Thông
tin lý luận, số 11/1994); "Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH đất nước" của
GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 2 - 1994); "Nguồn lực
con người, nhân tố quyết định của quá trình CNH, HĐH" của Phạm Ngọc
Anh (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2 - 1995); "Phát triển nguồn nhân lực
của Thanh Hóa đến năm 2010 theo hướng CNH, HĐH" của TS Bùi Sĩ Lợi
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); "Mối quan hệ giữa phát triển nguồn
nhân lực và đẩy mạnh CNH, HĐH" của Nguyễn Đình Hòa (Tạp chí Triết học,
số 1 - 2004); "Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm
nước ta" (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); "Vấn đề con người trong
sự nghiệp CNH, HĐH" (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); "Từ chiến
lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực" (Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2002)… Đặc biệt là công trình khoa học cấp Nhà nước

KX-05: "Nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI"
(2001 - 2005). Đề tài này có những công trình đáng chú ý như: "Ảnh hưởng
của tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ đến việc nghiên cứu và phát triển
con người và nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ XXI" của PGS.

3


TSKH. Lương Việt Hải; "Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đầu thế kỷ XXI"
của TS. Nguyễn Hữu Dũng; "Một số những thay đổi của quản lý nguồn nhân
lực Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong cơ chế thị trường"
của TS. Vũ Hoàng Ngân…
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực trong
CNH, HĐH ở nước ta. Hầu hết các đề tài đã tập trung nghiên cứu các phương
diện khác nhau của sự phát triển con người Việt Nam và đề xuất những giải
pháp để phát huy nguồn lực con người, từ GD - ĐT đến giải quyết việc làm,
đổi mới cơ chế, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người, phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta. Ngoài những công trình đó còn rất nhiều tác giả
với những công trình nghiên cứu khác đã đề cập đến vấn đề nguồn nhân lực
cho CNH, HĐH ở nước ta bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Song, những
công trình đi sâu, phân tích nguồn nhân lực cho CNH, HĐH NN, NT ở Hưng
Yên chưa được đề cập nhiều, đặc biệt là phân tích những điều kiện khả năng
trong việc thực hiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Hưng Yên.
Qua luận văn này, chúng tôi hi vọng đóng góp một cố gắng nhỏ bé,
bước đầu của mình vào sự nghiên cứu, phát triển con người và nguồn nhân
lực cho sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên, cũng như cả nước.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài


3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT luận văn đã phân tích thực trạng của
nguồn nhân lực Hưng Yên hiện nay để đề xuất một số giải pháp nhằm phát
triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH NN, NT ở tỉnh Hưng Yên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó
trong CNH, HĐH NN, NT.

4


Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực; đề
xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho thời kì đẩy
mạnh CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về nguồn nhân lực của Hưng Yên cả về số lượng
lẫn chất lượng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các quan điểm
khoa học về nguồn nhân lực.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật, luận văn sử dụng
phương pháp lịch sử và lô gíc, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp,

trừu tượng hoá, khái quát hoá.
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực Hưng Yên trong thời kì CNH, HĐH
NN, NT hiện nay.
Làm rõ một số khía cạnh chủ yếu trong xu hướng biến đổi của nguồn
nhân lực trong thời kì CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
Góp phần nâng cao nhận thức về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực cho CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.

5


Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy
và học tập ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các trung tâm đào
tạo, đồng thời làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 10 tiết:
Chương 1: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta và yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực.
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Hưng Yên hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hưng
Yên.

6



Chương 1
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở
NƯỚC TA VÀ YÊU CẦU VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

1.1. Bản chất và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng CNXH trong điều kiện 80% 90% lao động sống trong ngành nông nghiệp, hơn nữa đất nước lại bị chiến
tranh tàn phá rất nặng nề. Do chiến tranh mà nhiều diện tích đất không thể
canh tác được, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất và đời
sống tinh thần của người dân Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu mà Đảng
và Nhà nước ta đặt ra trong thời kì quá độ là “Dân giầu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh” thì chúng ta không còn con đường nào khác là
phải đẩy mạnh CNH, HĐH, có như thế mới có thể đưa nước ta thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Sự nghiệp công nghiệp hoá được
Đảng ta đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (năm 1960). Đến Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và VIII, Đảng ta nhấn mạnh thêm nội dung
hiện đại hóa.
Sau hơn 20 năm đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta đã bước vào
giai đoạn phát triển mới - đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức. Đây là tiếp nối đường lối và chiến lược CNH, HĐH được xác định trong
cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên CNXH năm 1991 của Đảng.
Tuy vậy, trong những năm đầu thế kỉ XXI, CNH, HĐH nước ta trước hết và
chủ yếu là CNH, HĐH NN, NT.
CNH, HĐH NN, NT là vấn đề rộng và không hề đơn giản, vì thế cho
đến nay vẫn còn những quan niệm ít nhiều chưa thống nhất.
7



*

Một số nhà nghiên cứu cho rằng: CNH, HĐH NN, NT là vấn đề khoa

học gồm 4 nội dung khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là:
Công nghiệp hóa nông nghiệp; công nghiệp hóa nông thôn; hiện đại hóa nông
nghiệp; hiện đại hóa nông thôn.
Công nghiệp hóa nông nghiệp, theo tác giả Chu Hữu Quýnh và Nguyễn
Kế Tuấn là: “quá trình chuyển biến từ nền nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc
hậu, phân tán sang nền nông nghiệp sản xuất lớn với trình độ chuyên canh và
thâm canh cao, tiến hành sản xuất và quản lý sản xuất - kinh doanh với trình
độ trang bị công nghiệp và công nghệ tiên tiến, áp dụng rộng rãi thủy lợi hóa,
cơ khí hóa, hóa học hóa, sinh học hóa cao hơn và bước đầu áp dụng cả tin học
hóa, tự động hóa” [75, tr.26].
Với quan điểm của hai tác giả trên, sau khi đã phân tích đánh giá về
tiến trình thực hiện con đường CNH, HĐH NN, NT, Đảng ta đã đưa ra quan
điểm như sau:
*

Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn
Trong văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (01/1994),
Đảng ta đã xác định: Từ nay đến cuối thập kỉ, phải rất quan tâm đến CNH,
HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông - lâm - ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng đã đưa ra phạm

trù CNH, HĐH NN, NT và kinh tế nông thôn.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã cụ thể hóa thêm những
quan điểm, chủ chương CNH, HĐH ở nước ta. Văn kiện lần thứ VIII đã
khẳng định: “Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH NN, NT và nông thôn; phát triển
toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”
[31, tr.86].
8


Đại hội IX của Đảng (tháng 4 - năm 2001) đã cụ thể hóa, bổ sung và
phát triển những quan điểm, đường lối về CNH, HĐH NN, NT.
Để tiếp tục hoàn thiện đường lối CNH, HĐH NN, NT, Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ban hành nghị quyết về đẩy
mạnh CNH, HĐH NN, NT thời kì 2001 - 2010. Nghị quyết đã nêu lên những
nội dung tổng quát, quan điểm, mục tiêu phát triển, những chủ trương và giải
pháp lớn để đẩy nhanh CNH, HĐH NN, NT. Đó là “phát triển công nghiệp,
dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho CNH,
HĐH NN, NT. Vấn đề nữa là ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng
phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu KH, CN, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với
thị trường để sản xuất quy mô lớn, chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi
trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển NN, NT bền
vững. Mặt khác, dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc; phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hóa,
các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
Cần kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế - xã hội trong quá trình CNH, HĐH
NN, NT nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và

phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân nông
thôn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát
huy truyền thống văn hóa và thuần phong mỹ tục. Kết hợp chặt chẽ CNH,
HĐH NN, NT với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận
an ninh nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương. Đầu tư phát
tư phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên
giới, cửa khẩu, hải đảo, phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an
ninh quốc gia” [34].

9


Những quan điểm trên của Đảng ta đã mang tính chiến lược và phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đất nước, không những thế, nó còn đảm bảo
cho kinh tế NN, NT phát triển bền vững mà còn đảm bảo cho sự phát triển hài
hòa giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, giữa thành thị và nông thôn,
giữa đồng bằng và miền núi, giữa kinh tế và xã hội, an ninh, quốc phòng, môi
trường, tăng cường khối liên minh công - nông - trí thức, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đảm bảo cho kinh tế nước
ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới vấn đề CNH, HĐH
NN, NT. Người cho đó là con đường chúng ta phải đi để xây dựng đất nước
giàu mạnh. Vận dụng sáng tạo tư tưởng đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã
từng bước thực hiện thành công sự nghiệp vĩ đại này.
Trong bài “Con đường phía trước” với bút danh C.K đăng trên báo
Nhân dân số 2143 ngày 20/1/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta
vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta… Đời

sống nhân chỉ có thể dồi dào khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một
cách rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và nông nghiệp, máy sẽ
chắp thêm tay cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm
việc phi thường… đó là con đường phải đi của chúng ta”.
Phát biểu tại Đại hội Công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ sáu ngày
19/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vai trò, tầm quan trọng của nông
nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa đất nước: “Nước ta là một nước nông
nghiệp,… muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy
nông nghiệp làm gốc. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở
phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho
công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”.

10


Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về CNH, HĐH NN, NT, Đảng
ta đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn và đã đạt được nhiều thành tựu. Ngay từ
Đại hội III (9/1960), Đảng ta đã quyết tâm: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng
làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời
ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một
nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định: “Phát triển toàn diện
nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, đổi
mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Đảm
bảo an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống” [31, tr.34]. Đảng ta đã
căn cứ vào điều kiện và tình hình đất nước xuất phát từ nền kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp, sản xuất nhỏ, lạc hậu đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất
kĩ thuật lạc hậu, lao động đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất
nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp tự túc và thu nhập của nông dân thấp,

đời sống mọi mặt của nông dân còn hết sức khó khăn. Trong khi đó đến nay
nhiều nước trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, mọi
hoạt động sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa,
hóa học hóa. Nhờ đó ruộng đất phì nhiêu, năng suất lao động đạt rất cao, phân
công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác, do yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu
cầu về nâng cao đời sống con người nên lương thực và thực phẩm càng tăng
lên cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Như vậy, chỉ có nền nông nghiệp
phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu đó.
Xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, đòi hỏi chúng ta phải đẩy
mạnh việc thực hiện CNH, HĐH NN, NT để chúng ta tận dụng vốn, KH, CN,
kinh nghiệm của thế giới vào quản lý đất nước nhằm khắc phục nguy cơ tụt
hậu về kinh tế.

11


Do vậy, đối với Việt Nam một đất nước chậm phát triển, để thúc đẩy
quá trình CNH, HĐH đất nước thì ta phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH NN,
NT.
Hơn nữa CNH, HĐH NN, NT còn là khâu đột phá quan trọng nhằm
giải phóng sức lao động của giai cấp nông dân, tạo điều kiện khai thác tốt
tiềm năng dồi dào về đất và lao động.
Với nguồn lao động dồi dào, đây là một lợi thế tương đối quan trọng để
tiến hành CNH, HĐH ở nông thôn. Ngược lại, khi quá trình đó diễn ra nó lại
giải phóng sức lao động ở nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao
động. Quan trọng hơn là nước ta có nguồn tài nguyên về đất đai vô cùng
phong phú, trước đây mới chỉ khai thác bằng những kĩ thuật thô sơ lạc hậu. Vì
vậy thực hiện CNH, HĐH NN, NT là bước đi tất yếu của Đảng và Nhà nước
ta trong thời kì quá độ lên CNXH, nó phù hợp với xu thế khách quan của thế

giới và điều kiện đất nước.
1.1.3. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu: “Phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành tập trung các vùng chuyên canh bảo
đảm an toàn về lương thực quốc gia, tạo ra nông sản hàng hóa phù hợp với
nhu cầu thị trường. Phát triển các làng nghề truyền thống và làng nghề mới và
thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, ứng dụng thành tựu sinh học,
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới văn minh
và hiện đại” [31, tr.87-88].
Tháng 11/1998, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành
Nghị quyết số 06/NQ-TW về một số vấn đề phát triển NN, NT đã khẳng định:
Đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kì
quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định chính trị, kinh tế, xã
hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức,
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
12


Sau 5 năm thực hiện, nội dung CNH, HĐH NN, NT đã được cụ thể hóa
từng bước. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục phát triển và đưa
nông nghiệp, lâm nghiêp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng
KH, CN, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện
khí hóa; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cây trồng, vật nuôi, tăng giá
trị thu nhập trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng
hóa. Đầu tư hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn.
Phát triển công nghiệp, dịch vụ các ngành nghề đa dạng, chú trọng công
nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ
phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệ và dịc vụ, tạo
nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống

nông dân và dân cư nông thôn” [33, tr.92-93].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Banh Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã xác định nội dung CNH, HĐH nông thôn. Về nội dung CNH, HĐH NN,
NT, Nghị quyết chỉ rõ: “CNH, HĐH NN, NT là quá trình chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến
và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng thành tựu KH, CN,
trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại
vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường” [34]. Nội dung
tổng quát của CNH, HĐH NN, NT, là “quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các
ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm nông nghiệp; xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ
môi trường sinh thái, tổ chức sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;
xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn” [34].
Đến Đại hội lần thứ X, Đảng ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh CNH, HĐH NN,
NT, giải quyết đồng bộ các vấn đề NN, NT và nông dân. Chuyển dịch cơ cấu

13


nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng
cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường: thực hiện cơ khí hóa, điện
khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ KH, CN và công nghệ sinh học vào
năng suất lao động, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù
hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Tăng nhanh giá trị sản phẩm
và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và
lao động nông nghiệp. Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác
của các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn

cổ phần bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng
trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình
thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản
phẩm có trị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng; đổi mới chính
sách giao đất, giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc sống ổn
định và được cải thiện. Phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế
biến lâm sản có công nghệ hiện đại.
Phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bảo
vệ nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ
môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm,
khuyến ngư, công tác thú y bảo vệ thực vật và các dịch vụ kĩ thuật khác ở
nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng KH, CN, nhất là công nghệ sinh
học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kĩ thuật canh tác,
nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc
sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư, đô
thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như: thủy lợi, giao thông,
điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện,

14


chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa,
nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín, dị đoan;
đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các
vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ,

giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo
hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động
công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm và
ngoài khu vực nông thôn kể cả nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho các chương
trình xóa đói giảm nghèo, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số” [35, tr.88-90].
Đến Đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển nông
nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng CNH, HĐH, phát huy ưu thế
của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông dân,
nông thôn. Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp dụng tiến bộ KH, CN, phát
triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao. Gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu. Xây dựng
nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nông dân” [36, tr.38].
Từ những nội dung chủ yếu mà Đảng ta đã nêu trong các văn kiện của
Đại hội, ta có thể khái quát thành các nội dung sau:
*

Đẩy mạnh phát triển hàng hóa trong NN, NT, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, phát triển kinh doanh theo cơ chế kinh tế thị trường, từ đó thúc đẩy
quá trình biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở khai thác lợi thế so
sánh của từng vùng, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đặc biệt là
công nghiệp chế biến nông sản nhằm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế nông
thôn, cơ cấu lao động, quy mô và cơ cấu thu nhập.
*

Thực hiện phân công mới lao động xã hội trong NN, NT trên cơ sở

phát triển các ngành nghề, nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền

15


thống và dịch vụ theo phương trâm “rời đồng, không rời làng” (ly nông, bất ly
hương) và “tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo”, từng bước
xác lập cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn nông thôn,
thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới
theo diện mạo của công nghiệp và đô thị.
*

Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KH, CN và khoa học quản lý trong sản

xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ thuỷ lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, tự
động hóa, tin học hoá và ứng dụng những thành tựu hiện đại của công nghệ
sinh học, thay đổi căn bản phương thức quản lý sản xuất, kinh doanh ở nông
thôn theo hướng lấy cơ cấu quy mô, nhu cầu thị trường làm căn cứ quyết định
cơ cấu quy mô sản xuất và đổi mới cơ cấu sản phẩm nhằm kết hợp tốt sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm ngay từ trong sản xuất, kinh doanh.
*

Nâng cao chất lượng nhân lực, kể cả nhân lực quản lý và đặc biệt là

người lao động sản xuất nông nghiệp có trình độ cao.
*

Từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp

và nông thôn, nâng cao trình độ văn minh của xã hội nông thôn, chuyển mạnh
lối sống ở nông thôn sang lối sống công nghiệp.
Đây là những điểm căn bản nói nên nội dung của CNH, HĐH NN, NT.

Vậy để thực hiện thành công đường lối này Đảng và Nhà nước ta coi trọng sự
nghiệp GD - ĐT là quốc sách hàng đầu nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ, có tay nghề đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Những yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
a.

Nguồn nhân lực

Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề nguồn nhân lực. Trước hết, các
nhà khoa học, chính trị, xã hội… tập trung nghiên cứu vấn đề con người. Bàn về
vấn đề này cũng có không ít quan điểm khác nhau, các nhà triết học trước Mác
lại giải thích con người một cách phiến diện, họ chỉ coi con người tồn tại

16


dưới dạng là một thực thể sinh học hay xã hội, họ chưa lý giải được một khái
niệm hoàn chỉnh về con người. Chỉ đến khi C.Mác và Ph. Ăngghen tập trung
nghiên cứu về con người, hai ông mới đưa ra được định nghĩa khoa học và
đầy đủ hơn về khái niệm con người. Các ông đã nhìn nhận con người trên cả
hai lĩnh vực sinh học và xã hội. Các ông cho rằng, giữa mặt sinh học và mặt
xã hội của con người có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó mặt xã hội
sẽ giữ vai trò chi phối. C.Mác cho rằng: “Bản chất con người không phải là
cái gì trừu tượng, cố hữu của một cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của
nó bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [53, tr.11].
Với quan niệm đúng đắn về bản chất con người thì con người là chủ thể
của tự nhiên và xã hội, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã
dùng sức lao động tác động vào giới tự nhiên tạo ra của cải vật chất đáp ứng

nhu cầu bản thân và xã hội. Như vậy, con người đã tạo ra lịch sử, con người
phát triển tư chất, năng khiếu, tài năng, phẩm chất, ý chí đó là điều kiện để
mỗi cá nhân trở thành chủ thể của hoạt động sáng tạo, xây dựng thế giới mới.
Họ là người sản xuất trực tiếp, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải
vật chất, văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác quan niệm con người vừa là động lực vừa là
mục đích cuối cùng của sự phát triển.
Việt Nam luôn tự hào là dân tộc có hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước. Ngay trong kế sách đánh giặc của ông cha ta cũng đã phát huy được
nhân tố con người. Nguyễn Trãi đã từng đưa ra quan điểm “chở thuyền cũng
là dân và lật thuyền cũng là dân”. Lịch sử cũng đã đúc kết lại “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Hồ Chí Minh là người thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác và đã
có những lý giải rất sâu sắc về vấn đề con người. Ông khẳng định trong sự
nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc, không tách rời nhau về mặt
mục đích đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Nhân tố quyết định cho sự
nghiệp giải phóng con người không phải là ai khác mà chính là con người,

17


quần chúng nhân dân, là lực lượng quý nhất, vĩ đại nhất, bởi vì “Vô luận việc
gì cũng do con người làm ra từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều như thế cả” [60,
tr.113].
Hồ Chí minh luôn coi việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển con
người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội, là
nhân tố quyết định thành công của cách mạng. Do đó, Hồ Chí Minh luôn quan
tâm đến “sự nghiệp trồng người”, “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm trồng người”.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

ngay từ khi mới ra đời, tư tưởng giải phóng dân tộc của Đảng ta luôn gắn liền,
hòa quyện với tư tưởng giải phóng con người. Thời kì đó, vấn đề con người
được Đảng ta quan tâm trước hết là vấn đề giải phóng con người khỏi ách nô
lệ. Ngày nay, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vấn đề con người được
Đảng ta coi là động lực quan trọng nhất không thể thiếu được. Bởi vậy, trong
những năm qua việc GD - ĐT con người nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài được Đảng ta coi là quốc sách hàng đầu. Văn kiện
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa VII đã khẳng định: “Sự
phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp
hạng các nước trên thế giới” [29, tr.6]. Nên vấn đề con người không phải đến
ngày nay ta mới chú ý mà là vấn đề xuyên suốt cả quá trình lịch sử. Trong bất
kì giai đoạn nào, vấn đề con người cũng được quan tâm vì con người là động
lực là mục đích cuối cùng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để con người trở thành động lực và mục đích cuối cùng của sự phát
triển kinh tế - xã hội, chúng ta cần phát triển được nguồn lực con. Nhưng,
trong điều kiện đặc thù của Việt Nam hiện nay, chúng ta cần quan tâm nhiều
hơn đến phát triển nguồn nhân lực cho NN, NT.
*

Khái niệm nguồn nhân lực

Có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực. Do cách
tiếp cận khác nhau, nên có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực.

18


Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động - Thương binh
- Xã hội thì: “Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kì xác
định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương,

một ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh
tế - xã hội” [5, tr.13].
Theo khái niệm này, nguồn nhân lực được xác định cả trên phương diện
về số lượng và chất lượng của một bộ phận dân số tham gia trực tiếp hay gián
tiếp vào quá trình sản xuất của một quốc gia, một địa phương, một ngành hay
một vùng trong một giai đoạn nhất định.
Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thì nguồn nhân lực có
thể được hiểu là:
Theo nghĩa rộng, “Nguồn nhân lực (Human Rersources) là tổng thể
các tiềm năng (lao động) của con người, của một quốc gia, một vùng lãnh thổ,
một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó khả năng huy động vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hoặc một vùng, một địa
phương cụ thể” [84, tr.22].
Với cách tiếp cận này, ta có thể hiểu để phát triển kinh tế - xã hội thì
phải cần đến tất cả các nguồn lực khác nhau như: nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực trí tuệ, khoa học và nguồn nhân lực được xem là một
bộ phận cấu thành nguồn lực của quốc gia. Trong các nguồn lực trên thì
nguồn nhân lực có vai trò quan trọng nhất, nó đứng ở vị trí trung tâm để khai
thác các nguồn lực khác. Nếu không có nguồn nhân lực thì các nguồn lực
khác chỉ ở dạng tiềm năng. Do đó, nguồn lực con người được coi là thứ tài
nguyên quý giá nhất, một nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi
nguồn lực. Vì vậy, thực chất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là chiến
lược phát triển con người và vì con người.
Theo nghĩa hẹp, “Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động trong
nền kinh tế quốc dân (hay còn gọi là số dân hoạt động kinh tế) nghĩa là bao

19


gồm những người trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao động,

thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp” [84, tr.24].
Với khái niệm trên (theo nghĩa rộng) và căn cứ ở Việt Nam thì lực lượng
lao động ở Việt Nam bao gồm: những người trong độ tuổi lao động, đang có việc
làm; những người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn có khả năng lao động và cả
những người thất nghiệp; còn ở khái niệm này (theo nghĩa hẹp) không tính đến
những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động mà đang đi học, đang
làm nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc. Theo Bộ luật Lao động
nước ta quy định, nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp là độ tuổi lao động là từ 15 tuổi
đến 60 đối với nam, và từ 15 tuổi đến 55 đối với nữ.

Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu nguồn nhân lực là tổng thể những
yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, phẩm chất đạo đức, trình độ tri thức, vị thế
xã hội… tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng
phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi chúng ta có thể nói tới
nguồn lực con người là ta nói tới tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham
gia vào tất cả các hoạt động làm cải biến tự nhiên, xã hội và chính cả chính
bản thân mình.
b. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn
*

Khái niệm phát triển nguồn nhân lực

Từ quan điểm coi con người là trung tâm của phát triển kinh tế - xã hội,
phát triển nguồn nhân lực là quá trình gia tăng về kiến thức, kĩ năng và năng
lực của mọi người trong xã hội.
Phát triển nguồn ngân lực được hiểu là “cả một quá trình quan trọng mà
qua đó có sự lớn mạnh của cá nhân hay tổ chức có thể đạt được những tiềm
năng đầy đủ nhất của họ theo thời gian” [69, tr.23-26]. Trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến sự phát triển

nguồn nhân lực, tạo đội ngũ nhân lực có chất lượng, có trình độ cao, có khả
năng nắm bắt KH, CN mới và ứng dụng vào sản xuất. Phát triển nguồn nhân
20


lực là một “quá trình biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân
lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của kinh tế - xã hội” [22, tr.13], đó là
tổng thể các hình thức, phương pháp chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện
và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn
nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Với
quan niệm coi con người là động lực và đồng thời là mục tiêu của sự phát
triển thì phát triển nguồn nhân lực không chỉ có mục đích làm gia tăng về thu
nhập của cải vật chất mà là mở rộng và nâng cao khả năng lựa chọn của con
người đối với xung quanh; tạo cho họ cơ hội tiếp cận với điều kiện và môi
trường sống tốt hơn, đồng thời qua đó tăng cường năng lực và tiềm năng của
con người phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quá trình phát triển nguồn nhân lực bao gồm phát triển cả về số lượng và chất
lượng.
-

Phát triển nguồn nhân lực về số lượng: là sự gia tăng về số lượng và

cơ cấu của đội ngũ nhân lực theo hướng phù hợp với môi trường và điều kiện
hoạt động mới. Sự thay đổi về cơ cấu nhân lực của quốc gia diễn ra theo cơ
cấu tuổi, cơ cấu khu vực phân bố và cơ cấu về giới.
Phát triển nguồn nhân lực về chất lượng là khái niệm tổng hợp bao
gồm những nét đặc trưng về trạng thái, thể lực, ý chí, trí lực, kĩ năng, phong
cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực. Hay nói cách khác
phát triển nguồn nhân lực về chất lượng là sự gia tăng mức sống, bản lĩnh,
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kĩ thuật và sức khỏe của các thành

viên trong xã hội hoặc trong tổ chức. Thước đo để so sánh sự phát triển nguồn
nhân lực qua các thời kì phát triển của một quốc gia hoặc giữa các quốc gia
với nhau là chỉ số phát triển con người do Liên hợp quốc sử dụng. Từ năm
1990, UNDP đã đưa ra chỉ số HDI để đo đạc những khía cạnh cơ bản của
năng lực con người. HDI là một hệ tiêu chí có khoảng 100 chỉ số thể hiện chất
lượng cuộc sống. Trong đó 3 chỉ số quan trọng nhất là: 1) chỉ số kinh tế (phản
ánh sản phẩm xã hội bình quân đầu người - GDP/người); 2) năng lực sinh thể

21


(phản ánh qua chỉ số tuổi thọ bình quân của người dân) và 3) năng lực tinh
thần (phản ánh qua chỉ số giáo dục, xác định bằng tỉ lệ người lớn biết chữ và
tỉ lệ nhập học của các cấp giáo dục).
Căn cứ vào chỉ tiêu của Liên hợp quốc, thì chất lượng nguồn nhân lực
phải là nguồn lao động có chất lượng cao, có trình độ tay nghề, có lòng ham
mê hăng say lao động, có ý thức trách nhiệm của người lao động. Trong Đề
tài khoa học cấp nhà nước, Lương Việt Hải khẳng định: “Trong một thời đại
cách mạng khoa học, kĩ thuật và công nghệ, thể lực là một điều kiện tất yếu và
tối cần thiết, là điều kiện cần của mọi quá trình lao động, nhưng nó không còn
là điều kiện đủ. Trí tuệ với năng lực tinh thần và những phẩm chất tâm lý
đóng vai trò quyết định năng suất, hiệu quả và giá trị xã hội của lao động”
[40, tr.380]. Vì vậy, trình độ học vấn, tay nghề của người lao động là quan
trọng là quyết định; song cũng không thể thiếu được ý thức đạo đức và sức
khỏe của người lao động. Có thể nói chất lượng nguồn nhân lực được kết hợp
bởi 3 yếu tố: Thể lực, trí lực, và tâm lực. Thể lực là trạng thái sức khỏe của
con người biểu hiện ở sự phát triển sinh học, không có bệnh tật, có đủ sức
khỏe lao động trong lĩnh vực ngành nghề nào đó, có sức khỏe để học tập làm
việc lâu dài… thể lực yếu sẽ hạn chế rất lớn đến sự phát triển trí lực của cá
nhân và cộng đồng xã hội nói chung. Trí lực là năng lực trí tuệ, tinh thần, là

trình độ phát triển trí tuệ, là trình độ đáp ứng đầy đủ về chuyên môn, kĩ thuật,
là nghiệp vụ, tay nghề. Nó quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con
người, nó càng có vai trò quyết định trong phát triển nguồn lực con người, đặc
biệt trong thời đại ngày nay khi khoa học, kĩ thuật và công nghệ phát triển như
vũ bão. Tâm lực bao gồm ý chí, nghị lực, tình cảm… đối với công việc. Làm
việc gì cũng trọng mình, trọng người, cũng nghiêm túc với nó hay có hồn đối
với việc làm, không thờ ơ, lãnh cảm. Tâm lực chịu tác động của nhiều yếu tố,
nhưng cơ bản nhất vẫn là yếu tố nội tâm, yếu tố chủ quan. Nó được hình
thành và tự giác của mỗi cá nhân, nó cũng có thể là sự phản ánh những chuẩn
mực đạo đức xã hội, lý tưởng của đạo đức xã hội vươn tới, nhất là

22


trong hoạt động, lối sống, nếp sống hàng ngày. Lối sống đạo đức của con
người là thể hiện tính cách, tâm lý sự giác ngộ, các giá trị văn hóa được kết
tinh trong người lao động. Đạo đức gắn liền với năng lực tạo nên những giá trị
cơ bản của chất lượng người lao động, từ phương diện cá nhân đến phương
diện xã hội và biểu hiện ra ở ý thức lao động, thái độ lao động. Ngoài thể lực,
trí lực, đạo đức lối sống, cái làm nên chất lượng nguồn nhân lực là kinh
nghiệm sống, là nhu cầu thói quen vận dụng tri thức tổng hợp và kinh nghiệm
của mình vào các hoạt động sáng tạo, tạo ra các giải pháp mới đối với công
việc như một sáng tạo văn hóa. Xét theo ý nghĩa đó, chất lượng nguồn nhân
lực bao gồm trong đó toàn bộ sự phong phú, sâu sắc các năng lực trí tuệ, năng
lực thực hành, tổ chức và quản lý, tính tháo vát và sự uyển chuyển của những
phản ứng của con người trước hoàn cảnh dựa trên một trình độ học vấn, kinh
nghiệm, sự rộng mở các quan hệ xã hội, sự tiếp thu tinh tế các ảnh hưởng văn
hóa truyền thống từ gia đình đến xã hội.



Việt Nam trong thời kì đổi mới, nguồn lực con người đã và đang

được Đảng và Nhà nước ta quan tâm rất đúng mức nhằm phát huy sức mạnh
tối đa của nguồn lực đặc biệt này, góp phần tạo nên nhiều thành tựu quan
trọng, đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuyển sang
thời kì mới - thời kì CNH, HĐH đất nước, một trong những trọng tâm là
CNH, HĐH NN, NT.
Mặc dù Việt Nam ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng
nhìn chung vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, năng suất lao động thấp,
trình độ tay nghề của người lao động chưa cao chủ yếu lao động phổ thông là
chính, sức khỏe của nhân dân chưa đảm bảo, đặc biệt nguồn nhân lực với tư
cách là động lực của CNH, HĐH đất nước chưa đáp ứng được nhu cầu. Đây là
một khó khăn rất lớn cho việc học hỏi, tiếp thu trình độ KH, CN và công nghệ
tiên tiến.
Tóm lại, khi bước vào sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở nước ta nói
chung và CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên nói riêng, chỉ số phát triển con

23


người chưa phù hợp với yêu cầu. Vì vậy, cần phải phát triển nguồn nhân lực
phù hợp hơn nữa, phải đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu
cầu đặt ra.
1.3. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.3.1. Nguồn nhân lực - nhân tố quyết định sự thắng lợi công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì sản xuất ra của
cải vật chất là cái gốc để cho xã hội tồn tại và phát triển. Trong quá trình sản
xuất, con người phải sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao

động tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Mối quan hệ này được hình
thành như một tất yếu khách quan và phổ biến với tư cách con người là chủ
thể của mọi hoạt động sáng tạo. Với mối quan hệ này đã tạo nên lực lượng sản
xuất của xã hội được phát triển qua các chế độ xã hội khác nhau và thể hiện sự
chinh phục tự nhiên của con người. Theo C.Mác, lực lượng sản xuất là một
thể thống nhất giữa “một bên là con người và lao động của con người; bên kia
là tự nhiên và vật liệu của tự nhiên thế là đủ” [57, tr.271]. Nhưng với tư cách
là chủ thể của quá trình lao động, con người không thỏa mãn với những gì đã
có sẵn trong tự nhiên. Với năng lực và trình độ của mình, con người luôn tìm
tòi những cái mới để tạo ra những cái không sẵn có trong tự nhiên nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của mình, lao động là hoạt động đặc trưng và có
tính mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh
thần cho xã hội.
Theo C.Mác: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con
người và tự nhiên, quá trình đó bằng hoạt động của mình con người làm trung
gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [61, tr.20]. Nói
đến sự tồn tại và phát triển của xã hội là nói đến sản xuất vật chất mà lao động
của con người là chủ thể của mọi hoạt động, nhưng con người ở đây phải là
người lao động; người lao động với thể lực, trí lực, tâm lực và kĩ năng kinh

24


nghiệm lao động của mình, họ đã tiến hành lao động để cải biến các dạng vật
chất trong tự nhiên để thực hiện những nhu cầu đáp ứng những lợi ích của
mình trong những điều kiện kinh tế - lịch sử nhất định. C.Mác khẳng định:
“Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người đã thay đổi phương
thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất, cách làm của
mình, loài người đã thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình [60,
tr.125]. Như vậy, loài người làm nên lịch sử xã hội của mình bằng chính sức

lực của mình, bằng chính nguồn nhân lực.
V.I.Lênin cũng đã đánh giá: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động” [48, tr.430]. Để thực hiện thành
công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ và có
hiệu quả rất nhiều nguồn lực như nguồn nhân lực, nguồn vốn, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kĩ thuật, vị trí địa lý... Các nguồn lực này
tác động trong một mối qua hệ tất yếu và cùng tham gia vào quá trình CNH,
HĐH nhưng tác động của chúng vào tiến trình này là hoàn toàn khác nhau,
trong đó, nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng nhất và quyết định
nhất. Vì, thực tế cho thấy bằng, bằng sức lao động của mình mà con người có
thể cải tạo được tự nhiên và xã hội. Và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi
KH, CN phát triển như vũ bão, nó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu đặt ra. Bởi vậy, nguồn nhân lực có một vai trò cực kì
quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH NN, NT
nông thôn nói riêng.
Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý, v.v… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác
dụng và có ý nghĩa xã hội tích cực khi được kết hợp với nguồn nhân lực,
thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực
biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết phát huy các nguồn lực khác, gắn kết
chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình
CNH, HĐH. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai
thác của con người và chúng đều phục vụ nhu cầu và lợi ích của con người.
25


×