Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Những thay đổi trong chính sách đối ngoại của myanmar từ năm 2011 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------

DƢƠNG THỊ NGỌC VÂN

NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA MYANMAR TỪ NĂM 2011 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Quan hệ quốc tế

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------

DƢƠNG THỊ NGỌC VÂN

NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA MYANMAR TỪ NĂM 2011 ĐẾN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế
Mã số: 60 31 02 06

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Dũng

Hà Nội - 2014



MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
CHƢƠNG I: NHỮNG NHÂN TỐ DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI TRONG
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MYANMAR.................................................... 10
1.1.

Vài nét về đất nƣớc Myanmar..................................................................... 10

1.2.

Những nhân tố tác động đến những thay đổi chính sách đối ngoại của
Myanmar........................................................................................................ 13

1.2.1. Thay đổi về môi trường kinh tế, chính trị trên thế giới.................................... 14
1.2.2. Thay đổi về kinh tế, chính trị trong khu vực ASEAN...................................... 19
1.2.3. Thay đổi về kinh tế, chính trị trong nước......................................................... 22
TIỂU KẾT CHƢƠNG I........................................................................................... 28
CHƢƠNG II: NHỮNG ĐIỀU CHỈNH TRONG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI
GIỮA MYANMAR VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA, TỔ CHỨC QUỐC TẾ TỪ
NĂM 2011 ĐẾN NAY............................................................................................... 29
2.1.

Những thay đổi về chính trị và chính sách kinh tế đối ngoại của
Myanmar........................................................................................................ 29

2.2.

Những điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại của Myanmar với ASEAN,

các quốc gia thuộc khối ASEAN................................................................... 38

2.2.1. Với ASEAN..................................................................................................... 38
2.2.2. Với một số quốc gia thuộc khối ASEAN......................................................... 40
2.3.

Những điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại của Myanmar với Hoa Kỳ.....45

2.4.

Những điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại của Myanmar với EU............48

2.5.

Những điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại của Myanmar với khu vực
Đông Bắc Á.................................................................................................... 51

2.5.1. Với Trung Quốc............................................................................................... 51
2.5.2. Với Nhật Bản................................................................................................... 56
2.5.3. Với Hàn Quốc.................................................................................................. 60


2.5.4. Với Bắc Triều Tiên.......................................................................................... 63
2.6.

Những điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại của Myanmar với Ấn Độ.......65

2.7.

Những điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại của Myanmar với Nga...........67


TIỂU KẾT CHƢƠNG II................................................................................................................. 28
CHƢƠNG III: KẾT QUẢ VÀ TRIỂN VỌNG...................................................... 71
3.1.

Kết quả bƣớc đầu của những thay đổi trong chính sách đối ngoại của
Myanmar........................................................................................................ 71

3.1.1. Về tình hình chính trị trong nước..................................................................... 71
3.1.2. Về phát triển kinh tế........................................................................................ 74
3.1.3. Về văn hóa, xã hội........................................................................................... 78
3.1.4. Về hoạt động đối ngoại.................................................................................... 80
3.2.

Triển vọng của chính sách đối ngoại đổi mới của Myanmar......................86

3.2.1. Triển vọng về chính trị trong nước.................................................................. 86
3.2.2. Triển vọng về kinh tế....................................................................................... 88
3.2.3. Triển vọng về chính sách đối ngoại................................................................. 91
3.2.4. Triển vọng quan hệ đối ngoại Myanmar – Việt Nam....................................... 95
TIỂU KẾT CHƢƠNG III....................................................................................... 98
KẾT LUẬN................................................................................................................ 99
NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 104
CÁC PHỤ LỤC....................................................................................................... 114


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

USDA


: Hiệp hội Đoàn kết và phát triển Liên bang

SPDC

: Hội đồng Hòa bình và phát triển Liên bang

SLORC

: Hội đồng Khôi phụ trật tự và luật pháp quốc gia

NLD

: Liên đoàn Quốc gia dân chủ

USDP

: Đảng Đoàn kết và phát triển Liên bang

SSA

: Quân đội bang Shan

RCSS

: Hội đồng khôi phục nhà nước bang Shan

PNLO

: Tổ chức giải phóng dân tộc Pa-O


KNU

: Liên minh Dân tộc Karen

UWSA

: Quân đội bang Wa thống nhất

KIO

: Tổ chức độc lập Kachin

IMF

: Qũy tiền tệ quốc tế

EU

: Liên minh Châu Âu

ASEAN

: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

AEC

: Cộng đồng kinh tế ASEAN

GDP


: Tổng sản phẩm nội địa

USD

: Đô la Mỹ

WHO

: Tổ chức y tế thế giới

UNHCR

: Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới

NAM

: Phong trào không liên kết

ARF

: Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN

CPR

: Ủy ban các đại diện thường trực


AIPA

: Đại Hội đồng Liên nghị viện các quốc gia Đông Nam Á

OECD

: Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển

GMS

: Tiểu vùng sông Mekong mở rộng


ACMECS

: Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế

DOC

: Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông

COC

: Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông

CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

EC


: Ủy ban Châu Âu

FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

SEA Games : Đại hội thể thao Đông Nam Á
AFF

: Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á

ILO

: Tổ chức lao động quốc tế

ADB

: Ngân hàng phát triển châu Á

WB

: Ngân hàng thế giới

AVIM

: Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Myanmar


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn Đề tài
Myanmar là một mảnh đất huyền thoại với lịch sử nhiều thăng trầm
trong các giai đoạn phát triển đất nước. Nằm ở Đông Nam Á, một khu vực
vốn là cái nôi của nền văn minh lúa nước, từng giữ vị thế nhất định trên bản
đồ lịch sử thế giới, song Myanmar cũng từng bị lãng quên bởi chính thể chế
chính trị của mình gây nên. Một đất nước Myanmar với nền văn minh kỳ bí
vốn lôi cuốn trí tò mò của các nhà nghiên cứu nhưng lại dường như rất ít
thông tin với thế giới, nhất là trong giai đoạn chính quyền quân sự lãnh đạo
đất nước. Tháng 11-2010, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên kể từ năm 1990 đã diễn
ra thành công. Tháng 3-2011, tướng Thein Sein đã nhậm chức tổng thống và
là vị tổng thống dân chủ đầu tiên của đất nước Chùa Vàng này sau hơn 50
năm dưới quyền thống trị của các tướng lĩnh quân đội. Từ một quốc gia do
quân đội chi phối, Myanmar đã chuyển hướng mạnh mẽ theo con đường phát
triển dân chủ. Thế giới đã đi từ “ngỡ ngàng” đến “cảm phục” và rồi cuối cùng
là “ủng hộ” một Myanmar chuyển mình, hướng đến xu thế phát triển chung và
là tất yếu của nhân loại, đó là xu thế dân chủ. Ngày nay, Myanmar đang ngày
càng sôi động trong phát triển kinh tế đối ngoại và từng bước khẳng định
mình trên vũ đài chính trị thế giới,
Hiện nay Việt Nam đang trên con đường cải cách mở cửa. Mặc dù công
cuộc “Đổi mới” diễn ra từ năm 1986 đã đem lại cho Việt Nam những kết quả
tích cực nhất định, được nhân dân trong nước, thế giới và khu vực công nhận,
tuy nhiên công cuộc xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” vẫn còn nhiều gian nan thử thách. Do đó, việc nghiên cứu,
học tập, trao đổi kinh nghiệm về những cải cách của Myanmar, đặc biệt là
những chính sách đối ngoại của Myanmar trong thời gian qua là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, thời gian qua, đã có nhiều học giả nghiên cứu về Myanmar, về
những cải cách của Myanmar và đưa ra những góc nhìn khác nhau về
1



Myanmar. Song, các công trình nghiên cứu cả trong nước và quốc tế về chính
sách đối ngoại của Myanmar, sự tương tác trong quan hệ đối ngoại giữa
Myanmar với các nước, các tổ chức quốc tế, các thực thể pháp lý không phải
là nhiều, đặc biệt là các công trình nghiên cứu về những thay đổi trong chính
sách đối ngoại của Myanmar trong giai đoạn gần đây, nhất là các công trình
nghiên cứu của các học giả trong nước thì lại càng khó tìm. Xuất phát từ nhu
cầu tìm hiểu, em đã quyết định nghiên cứu sâu hơn về Myanmar và lựa chọn
đề tài “Những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Myanmar từ năm
2011 đến nay” làm nội dung nghiên cứu trong luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu Đề tài
Về quá trình cải cách của Myanmar đã có nhiều học giả trong và ngoài
nước nghiên cứu, tìm hiểu trên những giác độ và phương diện khác nhau
nhằm làm rõ những chính sách đối ngoại của Myanmar qua các giai đoạn.
1)

Tác phẩm “Mianma: Lịch sử và Hiện tại” của tác giả Chu Công

Phùng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang
Mianma. Nhà xuất bản chính trị Quốc gia xuất bản năm 2011. Cuốn sách cung
cấp những thông tin cơ bản về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, chế độ
chính trị, chính sách đối ngoại, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục và con người Myanmar từ lịch sử tới hiện tại (năm 2010). Tác phẩm
dành một chương riêng đề cập đến các chính sách đối ngoại của Myanmar.
Tuy nhiên, chương này mới chỉ dừng lại ở việc diễn giải các mối quan hệ giữa
Myanmar với các nước, với hai cộng đồng lớn là EU và ASEAN mà chưa đề
cập đến các quốc gia Đông Bắc Á như Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên hay với thực
thể Đài Loan. Tác phẩm cũng không đưa ra dự báo gì cho Myanmar nói
chung và chính sách đối ngoại của Myanmar với các quốc gia, tổ chức này
trong tương lai nói riêng.
2)


Tác phẩm song ngữ Việt-Anh: “Kinh doanh ở Việt Nam và Myanmar:

Những điều cần biết” (Doing business in Vietnam and Myanmar: Information
2


and Experiences) của Đại sứ quán Việt Nam tại Cộng hòa liên bang Myanmar.
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Sự thật xuất bản năm 2011. Cuốn sách cung
cấp cho các doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam và Myanmar đã, đang và sẽ
tiến hành đầu tư, kinh doanh ở cả hai nước những kiến thức quan trọng khi
kinh doanh tại Myanmar và Việt Nam. Cuốn sách này chủ yếu đề cập đến các
chính sách giữa Myanmar và Việt Nam trong quan hệ kinh tế chứ gần như
không đề cập đến các chính sách đối ngoại của Myanmar. Tuy nhiên, qua
cuốn sách này thì có thể thấy bóng dáng chính sách đối ngoại của Myanmar
thể hiện ở kêu gọi và tạo cơ hội đầu tư trong giai đoạn gần đây.
3)

Tác phẩm “Myanmar – Cuộc cải cách vẫn đang tiếp diễn” do PGS.

TS. Nguyễn Duy Dũng chủ biên. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa xuất bản
năm 2013. Tác phẩm đã phân tích các điều kiện tự nhiên, đất nước, con người
của Myanmar. Đánh giá những lợi thế, khó khăn, thuận lợi trong quá trình
phát triển của đất nước. Tác giả cũng đã tập trung nghiên cứu những biến đổi
chủ yếu về chính trị, kinh tế, xã hội của Myanmar từ 2008 đến 2013, đi sâu
làm rõ các bước và giải pháp tiến hành cải cách, nguyên nhân của tình hình…
Đồng thời, tác giả cũng phân tích các lực lượng chính trị chủ yếu của đất
nước, sự cạnh tranh lợi ích của các nước lớn trong khu vực nói chung, ở
Myanmar nói riêng tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi tình hình của
Myanmar. Đây là cuốn sách tương đối cập nhật với tình hình hiện nay. Tuy

nhiên, cuốn sách lấy “cải cách” làm tâm điểm, không đề cập sâu đến những
chính sách đối ngoại của Myanmar với các nước, các tổ chức quốc tế mà chỉ
đề cập ngắn gọn, xen kẽ với các nội dung khác.

3


4)

Tác phẩm “Myanmar: Beyond Politics to Societal Imperatives” (tạm

dịch “Myanmar: Phía sau các hoạt động chính trị tới những cấp bách xã
hội”) của nhóm tác giả Kyaw Yn Hlaing, Robert H. Taylor, Tin Maung
Maung Than. Xuất bản lần thứ nhất tại Singapore năm 2005. Cuốn sách đề cập
đến những vấn đề cơ bản mà Myanmar phải đối mặt: con đường phát triển cả về
chính trị và kinh tế, quan hệ đối ngoại; hoạt động chính trị của các dân tộc thiểu
số và phát triển khu vực; những thách thức trong giai đoạn chuyển đổi ở quốc
gia này và nhiều nội dung khác. Tuy nhiên, cuốn sách này chỉ đề cập một phần
nhỏ đến quan hệ đối ngoại của Myanmar, chưa có sự phân tích sâu các mối quan
hệ giữa Myanmar và các quốc gia, tổ chức khác trên thế giới. Bên cạnh đó, thời
điểm ấn hành cuốn sách là năm 2005, giai đoạn đầu của Lộ trình dân chủ 7 bước
nên cuốn sách chưa thể đề cập đến những thay đổi trong chính sách đối ngoại
của Myanmar từ năm 2011 đến nay được.
5)

Đề tài nghiên cứu “Challenges to Democratization in Burma” (tạm

dịch “Những thách thức cho quá trình dân chủ hóa ở Myanmar”), Dự án của
International Institute for Democracy and Electoral Assistance (IDEA) nghiên
cứu và ấn hành với sự hợp tác của tập thể các tác giả Aung Zaw, David Arnott,

Kavi Chongkittavorn, Zunetta Lidden, Kaiser Morshed, Soe Myint, Thin Thin
Aung thực hiện cuối năm 2001. Ưu điểm của công trình nghiên cứu này là các
tác giả đều là những người Myanmar hoặc đã từng công tác, nghiên cứu tại
Myanmar nên phản ảnh những vấn đề tại Myanmar tương đối sát thực, khách
quan. Công trình nghiên cứu này đã đề cập đến lịch sử hiện đại của Myanmar,
giới thiệu khái quát về các phong trào dân chủ từ năm 1988 đến năm 2001.
Đặc biệt, các phần của công trình nghiên cứu này đã tập trung phân tích các
mối quan hệ giữa Myamar với các nước có chung đường biên giới như Trung
Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Bangladesh, Hiệp hội ASEAN, với EU, Nhật Bản,
Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế khác (bao gồm cả tổ chức của Liên hợp quốc
và các tổ chức phi chính phủ…). Tuy nhiên, công trình nghiên
4


cứu này lại mới chỉ nghiên cứu đến năm 2001 (thời điểm mà Lộ trình dân chủ
7 bước chưa được đề ra). Mà từ năm 2001 đến nay thì đã có quá nhiều biến
đổi tại Myanmar. Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu này lại bỏ sót Nga –
một trong các nước lớn, đối trọng với Hoa Kỳ và EU - và một số quốc gia
Đông Bắc Á trong quá trình nghiên cứu các mối quan hệ của Myanmar với
các nước.
6)

Tác phẩm “Myanmar's Foreign Policy: Domestic Influences and

International Implications” (Tạm dịch: “Chính sách đối ngoại của Myanmar:
Ảnh hưởng bên trong và tác động bên ngoài”) của tác giả Jurgen Haacke.
Xuất bản lần thứ nhất tại London, năm 2006. Tác phẩm đã đề cập đến nhu cầu
an ninh, chính trị và mục đích chính sách đối ngoại của Myanmar. Tìm hiểu
chính sách đối ngoại của Myanmar hướng tới Trung Quốc và Ấn Độ. Xem xét
mối quan hệ giữa Myanmar với ASEAN, với Phương Tây, Nhật Bản và Liên

hợp quốc… Có thể nói, đây là một tác phẩm đề cập rất đầy đủ đến các mối
quan hệ, các chính sách đối ngoại của Myanmar với các nước, các tổ chức
trên thế giới và ngược lại. Hướng đi và cách tiếp cận của tác phẩm này cũng
rất gần với Luận văn về “Những thay đổi trong chính sách đối ngoại của
Myanmar từ năm 2011 đến nay”. Tuy nhiên, cũng giống như một số tác phẩm
trước, cuốn sách này chưa đề cập đến mối quan hệ giữa Myanmar với một số
quốc gia Đông Bắc Á như Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên và cũng chưa đề cập đến
mối quan hệ giữa Myanmar với thực thể pháp lý Đài Loan… Bên cạnh đó,
cuốn sách này được xuất bản từ năm 2006, đến nay, các thông tin đã cũ và
tính thời sự không còn nhiều.
7)

Tài liệu Tọa đàm “Tình hình Myanmar – Hiện tại và Triển vọng” do do

The Asia Foundation phối hợp với Học viện ngoại giao tổ chức tại Hà Nội, năm
2012. Nội dung các chuyên đề đã đề cập nhiều đến tình hình Myanmar kể từ khi
tiến hành cải cách đến nay, có đưa ra một số dự liệu cho tương lai gần của
Myanmar, đồng thời cũng đề cập đến chính sách đối ngoại của Myanmar.
5


Tuy nhiên, chưa có một chuyên đề nào đề cập sâu và toàn diện về những thay
đổi trong chính sách đối ngoại của Myanmar từ năm 2011 đến nay.
Có thể nói, Luận văn “Những thay đổi trong chính sách đối ngoại của
Myanmar từ năm 2011 đến nay” là một công trình tổng hợp, đi sâu chuyên
biệt về chính sách đối ngoại của Myanmar trong giai đoạn chính quyền dân sự
điều hành đất nước đến giữa năm 2014.
3.

Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, câu


hỏi nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là dựng lại bức tranh về quan hệ đối ngoại của
Myanmar; cung cấp cho bạn đọc về cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách đối
ngoại của Myanmar. Đồng thời, đưa ra dự báo về triển vọng trong quan hệ đối
ngoại giữa Myanmar và Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đã tập trung nghiên cứu những nhân tố dẫn đến sự thay đổi
trong chính sách đối ngoại của Myanmar; chỉ ra những thay đổi trong chính
sách đối ngoại của Myanmar giai đoạn từ năm 2011 đến giữa năm 2014,
những tác động mà chính sách đối ngoại mang lại và dự báo những triển vọng
trong tương lai.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đất nước Myanmar trên các khía cạnh chính sách
đối ngoại trong thời gian từ 2011 đến nay (giữa năm 2014).
3.4. Câu hỏi nghiên cứu
Luận văn đặt ra các câu hỏi: Tại sao Myanmar phải tiến hành cải cách,
hay Myanmar có buộc phải cải cách không? Nếu không cải cách thì tương lai
của đất nước này sẽ ra sao? Và khi cải cách thì Myanmar đã làm những gì,
tiến hành như thế nào? Mục tiêu của cải cách được đặt ra là gì? Trong giai
đoạn tiến hành cải cách, chính sách đối ngoại của Myanmar có những thay
6


đổi như thế nào? Tác động của chính sách đối ngoại đến cải cách? Kết quả
bước đầu của việc thay đổi chính sách đối ngoại đã mang lại cho Myanmar
những thuận lợi gì, khó khăn gì và hướng vận động tiếp theo sẽ như thế nào?
Liên hệ với Việt Nam.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tài liệu
Ngoài những tài liệu đã được đề cập đến ở phần Lịch sử nghiên cứu Đề
tài, Luận văn còn sử dụng nguồn tư liệu ở các tài liệu khác như:
-

“Myanmar – The state, community and the environment” (tạm dịch:

“Myanmar – Nhà nước, cộng đồng và môi trường”) của Monique Skidmore
và Trevor Wilson do Trường Đại học quốc gia Australia và hãng thông tấn
Châu Á- Thái Bình Dương ấn hành năm 2007.
-

Bài viết “Regionalism in Myanmar‟s Foreign Policy: Past, Present,

and Future” (tạm dịch: “Chủ nghĩa khu vực trong chính sách đối ngoại của
Myanmar: quá khứ, hiện tại và tương lai”). Tác giả Maung Aung Myoe. Tập
san số 73/2006 của Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore, trường Đại học
quốc gia Singapore.
-

Bài viết “Changing Myanmar: International Diplomacy and the

Futility of Isolation” (tạm dịch “Cải cách tại Myanmar: ngoại giao quốc tế
và sự bất lực của thế cô lập”) của tác giả Christopher B. Roberts, tập 7, quyển
số 4 (mùa hè năm 2011) tạp chí Security Challenges, từ trang 77 đến 101
(Quỹ Kokoda ấn hành).
-

“Aung San Suu Kyi đấu tranh cho tự do” của Aung San Suu Kyi,


Huỳnh Văn Thanh Dịch, do NXB Văn hóa thông tin xuất bản năm 2008
-

Luận văn “Quá trình chuyển biến từ chính quyền quân sự Than Shwe

sang chính quyền dân sự Thein Sein ở Myanmar giai đoạn 1992-2012” của
tác giả Lê Thị Vân, do PGS. TS. Đăng Thanh Toán hướng dẫn, năm 2013.
-

“Miến Điện mở cửa: cơ hội cho các nhà dân chủ” của Min Min và
7


Brian Joseph do Phạm Thị Trang dịch, Nguyễn Hoàng Mỹ Phương hiệu đính,
năm 2012.
-

Ngoài ra, Đề tài còn sử dụng tài liệu từ các nguồn: Thông tấn xã Việt

Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, báo Thế giới và Việt Nam, tạp chí
Phát triển và Hội nhập, các báo cáo nghiên cứu do các tổ chức quốc tế tiến
hành, các trang mạng… và một số công trình nghiên cứu khác.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lý luận quan hệ quốc tế, lịch sử, so sánh
và cấu trúc hệ thống (nhìn Myanmar trong cả một tổng thể chiến lược phát
triển chung, trong đó, chính sách đối ngoại chỉ là một phần trong cải cách mở
cửa của Myanmar).
Phương pháp tiếp cận liên ngành: tiếp cận lịch sử quan hệ quốc tế, lịch
sử thế giới, lịch sử khu vực, khu vực học, thống kê mô tả…
5. Bố cục Luận văn

Ngoài Phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, Luận văn
cấu trúc thành 3 Chương:
Chƣơng I – Những nhân tố dẫn đến sự thay đổi trong chính sách đối
ngoại của Myanmar
Chương này giới thiệu vài nét về đất nước Myanmar từ lịch sử, vị trí địa
lý và bối cảnh đất nước Myanmar trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, cũng
giới thiệu những nhân tố tác động đến những thay đổi trong chính sách đối
ngoại của Myanmar, từ phạm vi rộng là toàn thế giới đến phạm vi hẹp hơn là
khối ASEAN và những nhân tố quan trọng trong chính nội bộ Myanmar.
Chƣơng II – Những điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại giữa
Myanmar và các quốc gia lớn, các tổ chức quốc tế từ năm 2011 đến nay
Chương này diễn giải những thay đổi cụ thể trong chính trị, kinh tế đối
ngoại của Myanmar mà các nhân tố đã được phân tích ở Chương I mang lại.
Những tác động do việc điều chỉnh chính sách đối ngoại đã đem lại cho
8


Myanmar diện mạo mới từ kinh tế, chính trị và ngược lại, nó tác động đến
quan hệ đối ngoại của Myanmar với các nước lớn như Hoa Kỳ, EU và các
quốc gia thuộc khối, các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Ấn Độ,
ASEAN và các quốc gia thuộc khối, các nước Đông Bắc Á và Nga.
Chƣơng III – Kết quả và Triển vọng
Chương này đề cập đến những kết quả bước đầu mà sự thay đổi trong
chính sách đối ngoại mang lại cho Myanmar. Đó là những thành tích về chính
trị nội bộ, về phát triển kinh tế, về văn hóa-xã hội, thể thao, du lịch và trong
chính các hoạt động đối ngoại của Myanmar.
Bên cạnh đó, Chương này cũng đưa ra những triển vọng về chính trị nội
bộ, về kinh tế mà trong đó sự điều chỉnh về chính sách đối ngoại là một trong
những nguyên nhân quan trọng mang lại, trong đó có đưa ra một số kịch bản
có thể xảy ra trong ngắn hạn và trong tương lai của Myanmar. Chương cũng

đề cập đến những triển vọng trong quan hệ đối ngoại giữa Myanmar với một
số quốc gia cơ bản như Hoa Kỳ, EU, Nhật, Trung Quốc và triển vọng trong
quan hệ đối ngoại giữa Myanmar và Việt Nam.

9


CHƢƠNG I
NHỮNG NHÂN TỐ DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI TRONG
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MYANMAR
1.1. Vài nét về đất nƣớc Myanmar
Myanmar là một trong 11 quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam châu
Á

với nền văn hóa rực rỡ, lịch sử lâu dài và tương đối phức tạp. Từ năm 1989

trở về trước, Myanmar được biết đến với tên Miến Điện (Burma). Giai đoạn
trước, Myanmar tương đối biệt lập với thế giới bởi thể chế chính trị của mình.
Tuy nhiên, trong khoảng hai thập niên gần đây, và đặc biệt là những năm đầu
thập niên 2010, Myanmar đang từng bước chuyển mình, hội nhập mạnh mẽ
hơn với khu vực và thế giới.
Về vị trí địa lý
Nằm ở phía Tây của lục địa Đông Nam Á, thuộc Tây Bắc bán đảo TrungẤn, Myanmar là quốc gia có lãnh thổ lớn nhất trong lục địa Đông Nam Á, có
vị trí chiến lược trong giao thương, phát triển kinh tế và chính trị, quân sự...
Myanmar có đường biên giới chung với các nước Trung Quốc, Lào, Thái Lan,
Ấn Độ, Bangladesh. Có đường bờ biển dài trông ra Vịnh Bengal và biển
Andaman thuộc Ấn Độ Dương. Đường biên giới chung với Trung Quốc là
2.185 km1 và là đường biên giới trên bộ dài nhất của Myanmar. Đường bờ
biển của Myanmar dài chiếm 1/3 tổng chiều dài biên giới trên bộ.
Về chính trị - hành chính

Myanmar ngày nay theo thể chế liên bang, được chia thành 7 bang và 7
vùng hành chính (tương đương bang)2. Vùng lớn nhất là Bamar. Các vùng
1 Thông tin cơ bản về Mi-an-ma và quan hệ Việt Nam – Mi-an-ma, 30/12/2009,

Cổng thông tin Bộ ngoại giao Việt Nam.
/>2 Các vùng: Ayeyarwady, Bago, Magway, Mandalay, Sagaing, Tanintharyi,
Yangon. Các bang: Chin, Kachin, Kayin, Kayah, Mon, Rakhine, Shan.
10


hành chính lại được chia nhỏ thành các thành phố, khu vực và các làng. Các
thành phố được chia thành các quận.
Ngày 22/10/2010, Chính phủ Myanmar đã quyết định đổi tên nước thành
“Cộng hòa Liên bang Myanmar” (The Republic of the Union of Myanmar) và
thay đổi Quốc kỳ trước khi tiến hành tổng tuyển cử.
Theo Hiến pháp 2008, Liên bang Myanmar thực hiện chế độ Tổng thống,
đa đảng và kinh tế thị trường. Quốc hội Myanmar (Pyidaungsu Hluttaw) là cơ
quan quyền lực cao nhất; cơ quan lập pháp lưỡng viện. Quốc hội Myanmar
gồm Thượng viện (Amyotha Hluttaw) và Hạ viện (Pyithu Hluttaw). Quốc hội
bầu ra Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện, Tổng thống và các Phó Tổng
thống. Thượng viện gồm 224 ghế và Hạ viện gồm 440 ghế. Hiến pháp
Myanmar quy định 25% số ghế trong Quốc hội sẽ dành cho quân đội và việc
sửa đổi Hiến pháp cần phải có trên 75% nghị sĩ Quốc hội tán thành.
Tổng thống sẽ chỉ định các thành viên trong nội các. Sau khi có nội các,
Hội đồng Hòa bình và Phát triển Quốc gia sẽ tự giải thể và được thay thế bằng
Ủy ban an ninh quốc phòng.
Cuộc tổng tuyển cử gần đây nhất của Myanmar diễn ra vào ngày
7/11/2010. Ngày 31/01/2011, Quốc hội Myanmar cùng Nghị viện 14 bang,
vùng trong cả nước họp phiên đầu tiên thống nhất quy tắc, lề lối làm việc và
bầu người đứng đầu nghị viện các cấp. Hiến pháp Myanmar quy định nhiệm

kỳ Quốc hội là 5 năm, Chủ tịch Thượng viện sẽ làm Chủ tịch Quốc hội 2,5
năm đầu; Chủ tịch Hạ viện sẽ làm Chủ tịch Quốc hội 2,5 năm tiếp theo.
Trước cuộc Tổng tuyển cử năm 2010, Myanmar được thế giới biết đến là
một quốc gia theo chế độ quân phiệt do lần lượt các thống tướng cai trị sau
cuộc đảo chính quân sự năm 1962. Vị thống tướng cuối cùng trước thềm tổng
tuyển cử dân sự là Than Shwe. Tuy nhiên, đứng trước nguy cơ bị cô lập với
thế giới ngày càng cao và bị lệ thuộc vào cường quốc láng giềng là Trung
Quốc, giới lãnh đạo Myanmar đã có những thay đổi kịp thời và ngoạn mục.
11


Cuộc bầu cử dân sự năm 2010 đã mở đường cho Lộ trình dân chủ 7 bước ở
Myanmar được triển khai trên thực tế, đó là: (1) Tiến hành triệu tập Hội nghị
quốc gia đã bị hoãn từ năm 1996; (2) Sau khi tổ chức thành công Hội nghị
quốc gia, từng bước thực hiện các quy trình cần thiết cho một hệ thống dân
chủ chính thống và có kỷ luật; (3) Soạn thảo một hiến pháp mới phù hợp với
nguyên tắc cơ bản được dẫn dắt bởi Hội nghị quốc gia; (4) Hội nghị quốc gia
thông qua bản Hiến pháp quốc gia; (5) Tổ chức một cuộc bầu cử tự do và
công bằng, thành lập cơ quan lập pháp (Pyithu Hluttaws) theo Hiến pháp mới;
(6)

Tiến hành triệu tập thành viên của cơ quan lập pháp theo Hiến pháp mới;

(7)

Các thành viên cơ quan lập pháp sẽ bầu các nhà lãnh đạo nhà nước, chính

phủ và các cơ quan trung ương khác nhằm xây dựng một quốc gia dân chủ,
hiện đại và phát triển. Thein Sein, vị tổng thống dân sự (vốn là tướng lĩnh
quân sự thời Than Shwe) lên nắm quyền điều hành đất nước thực hành lộ

trình này bằng cách từ bỏ đường lối cai trị độc tài; công nhận các đảng đối lập
và tổ chức cuộc bầu cử bổ sung tự do vào mùa xuân năm 2012; phóng thích
hàng loạt tù nhân lương tâm và cho phép tự do báo chí…
Bầu cử Quốc hội và thành lập chính phủ dân sự mới vốn là việc rất bình
thường ở các quốc gia dân chủ trên thế giới, tuy nhiên, với Myanmar thì đó lại là
một sự kiện có ý nghĩa chính trị vô cùng lớn với một quốc gia độc tài quân sự.

Về văn hóa Myanmar
Nền văn hóa Myanmar chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi Phật giáo và Bamar.
Các quốc gia láng giềng như Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan đóng vai trò rất
lớn, góp phần hình thành nên nền văn hóa của Myanmar. Văn hóa Myanmar
được thể hiện qua ngôn ngữ, ẩm thực, âm nhạc, nhảy múa và sân khấu. Nghệ
thuật, đặc biệt là văn học, trong lịch sử từng bị ảnh hưởng bởi phong cách
Phật giáo tiểu thừa Miến Điện.
Về dân tộc
Tổng số dân Myanmar là 59,1 triệu người. Mật độ dân cư trung bình
trong cả nước là 1,75%/năm. Myanmar là quốc gia đa dân tộc, với 135 sắc tộc
12


khác nhau. Trong đó chủ yếu là người Miến (Burma), chiếm 68% số dân. Tiếp
theo là các dân tộc: Shan (9%), Karen (8%), Kachin (7%), Rakhine (4%).
Những dân tộc còn lại chiếm khoảng 4%3. Phần lớn các dân tộc ở Myanmar
đều di cư từ nơi khác đến. Các dân tộc gốc Myanmar (không kể Trung Quốc,
Ấn Độ, Nepal và các dân tộc khác) được chia ra làm 10 nhóm dân tộc chính:
Miến, Shan, Kayin, Kachin, Rakhine, Mon, Naga, Chin, Kayah và Wa.
Về tôn giáo
Myanmar là quốc gia có nhiều tôn giáo khác nhau, cho dù Phật giáo là
tôn giáo chính - đã có thời là quốc giáo tại Myanmar. Đạo Phật chiếm 89,3%
số dân. Thiên chúa giáo chiếm 5,6%; đạo Hồi chiếm 3,8%; đạo Hindu chiếm

0,5%; các tôn giáo khác như Do thái giáo, Đa thần giáo, Vật linh giáo, v.v.
chiếm khoảng 0,8% số dân4. Mọi công dân Myanmar được tự do tín ngưỡng,
tùy theo tôn giáo khác nhau nhưng dân chúng vẫn sống hòa bình, bằng chứng
là những kiến trúc của tôn giáo khác nhau cùng được xây dựng và tôn trọng
tại những thành phố lớn.
1.2. Những nhân tố tác động đến những thay đổi chính sách đối ngoại của
Myanmar
Ngày 7/11/2010, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đã đánh dấu mốc
quan trọng trong lịch sử dân chủ của đất nước Myanmar. Chính quyền
Myanmar đã có rất nhiều nỗ lực cải thiện dân chủ ở đất nước này, đi kèm với
nó là những thay đổi về chính sách đối ngoại. Có thể nói, có rất nhiều nguyên
nhân đã tác động đến chính sách đối ngoại của Myanmar mà không có một
mốc thời gian, sự kiện cụ thể nào. Những chính sách đối ngoại song phương
và đa phương của Myanmar trước cuộc chuyển giao quyền lực là sự chuyển
3 Kinh doanh ở Việt Nam và Mianma: Những điều cần biết, NXB Chính trị Quốc
gia, 2011, tr207.
4 Kinh doanh ở Việt Nam và Mianma: Những điều cần biết, NXB Chính trị Quốc
gia, 2011, tr208.

13


biến theo các chiều hướng khác nhau và chịu tác động lớn bởi các chính sách
cấm vận của Hoa Kỳ và phương Tây; trong đó, có cả nguyên nhân từ việc
nhận sự hỗ trợ của Trung Quốc về kinh tế, quân sự và bị ràng buộc bởi chính
trị và các chính sách kinh tế khác với đất nước này.
1.2.1. Thay đổi về môi trường kinh tế, chính trị trên thế giới
Trong thập niên đầu tiên của năm 2000, vị thế siêu cường mà Hoa Kỳ
vốn nắm giữ lâu nay trở nên lung lay. Về cuối thập kỷ, kinh tế Hoa Kỳ càng
gặp nhiều khó khăn5, kinh tế Liên minh châu Âu (EU) thì rơi vào trì trệ và các

nền kinh tế mới nổi (mà đại diện là các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và
Bra-xin) bước lên vũ đài chính trị quốc tế, làm thay đổi một bước quan trọng
về trật tự cấu trúc quyền lực trên thế giới.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ Hoa Kỳ vào năm 2008 đã lan
tỏa sang các nước châu Âu. Nó đã để lại tàn tích trong cán cân tài khóa của
nhiều quốc gia, cùng với đó là sự gồng mình của các nước trong việc thực
hiện các gói kích thích kinh tế khổng lồ. Khi các gói kích thích kinh tế được
thu hẹp dần thì giải quyết nợ công là chính sách ưu tiên trong ngắn hạn và tạo
niềm tin vào sự phục hồi kinh tế.
Tính từ đầu thập niên của thiên niên kỷ mới, lần lượt các nước thuộc
Liên minh Châu Âu (EU) mà điển hình là Hy Lạp đã phải nỗ lực giảm mạnh
lạm phát và lãi suất; thực hiện rất nhiều chính sách “thắt lưng buộc bụng”,
thắt chặt ngân sách để đưa ngân sách về dưới mức 3% GDP. Tuy nhiên, mọi
nỗ lực của Hy Lạp đã không kéo được nước này khỏi đà giảm phát và tỷ lệ nợ
công đã vượt ngưỡng ba con số %GDP. Hy Lạp buộc phải cầu cứu EU và Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF) giúp đỡ. Ngày 9/5/2010, IMF đã chấp nhận cho Hy Lạp
vay 30 tỷ Euro trong 3 năm. Các nước thuộc EU buộc phải tung ra kế hoạch
khẩn cấp trị giá 750 tỷ Euro (tương ứng với 1.000 tỷ USD) để hỗ trợ thị
5 Theo thống kê năm 2007, GDP của Hoa Kỳ chiếm 27% GDP của thế giới; năm
2008 là 25% và năm 2009 là 23%.

14


trường tài chính và vực dậy đồng Euro bị tụt giá do ảnh hưởng từ khủng
hoảng nợ Hy Lạp6. Các nước Đức, Ý, Tây Ban Nha, Ai Len cũng đã phải đưa
ra những chính sách thắt chặt chi tiêu và giảm tối đa thâm hụt ngân sách.
Trong khi đó, sự suy giảm về kinh tế của Hoa Kỳ kéo theo sự lỏng lẻo về vị
thế chính trị. Nhất là trong thời gian tại quyền, thời kỳ chính quyền George
Walker Bush (Bush con) đã có nhiều hành động đơn phương bất chấp luật pháp

quốc tế, mặc nhiên khiến cho vị thế chính trị của Hoa Kỳ cũng suy giảm. Trật tự
cấu trúc quyền lực trên thế giới thay đổi. Sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với thế
giới đã giảm đi đáng kể. Các mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ, các giá trị Hoa Kỳ
mà Hoa Kỳ muốn phổ quát ra thế giới đều không thực hiện được. Chính sự suy
giảm về vị thế chính trị khiến Hoa Kỳ nhìn sang châu Á với mục tiêu củng cố vai
trò của mình mà trong đó, Myanmar là một điểm đến.

Trong khi vị thế của Hoa Kỳ và EU suy giảm thì các nền kinh tế mới
nổi7 mà điển hình là Trung Quốc (quốc gia láng giềng mà Myanmar có đường
biên giới dài nhất) lại trỗi dậy và khẳng định vị thế của mình. Mặc dù không
tránh khỏi cơn bão tài chính toàn cầu, song các nền kinh tế mới nổi đạt mức
tăng trưởng bình quân hằng năm khoảng 6,5%, gấp 2 đến 3 lần mức tăng
trưởng bình quân hằng năm của các nước phát triển. Sự đóng góp của các
nước này với tăng trưởng kinh tế thế giới trong 5 năm cuối của thập kỷ đạt
gần 50% và dự trữ ngoại hối chiếm khoảng 60% tổng lượng dự trữ ngoại hối
toàn cầu8. Các nền kinh tế mới nổi đã trở thành đầu tàu thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế toàn cầu và đi kèm theo đó thì vị thế được củng cố, quyền phát ngôn
6 Lê Văn Được, Vụ trưởng Vụ kế hoạch, Bộ Công thương, Tham luận đánh giá
tổng quan về tình hình kinh tế thế giới, khu vực sau khủng hoảng và những tác động đến
kinh tế Việt Nam.
7 Bra-xin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc là 4 quốc gia đóng vai trò chủ đạo của nền kinh
tế mới nổi.
8 Đức Lê, Thế giới năm 2010 – dưới góc nhìn kinh tế-chính trị-quân sự, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, Báo Quân đội nhân dân Online. Nguồn:
/>
15


trong nền chính trị thế giới ngày càng được cộng đồng quốc tế coi trọng. Các
vấn đề quốc tế quan trọng như chống khủng bố, chương trình hạt nhân của Iran, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, cuộc khủng hoảng năng lượng và

những biến đổi khí hậu… đều đang và sẽ cần tiếng nói mạnh mẽ của các nền
kinh tế mới nổi. Nhờ những đóng góp về cả kinh tế lẫn chính trị của mình mà
các nền kinh tế mới nổi trở thành trụ cột quan trọng trong thúc đẩy thế giới
hòa bình và phát triển. Sự trỗi dậy của nền kinh tế mới nổi đã phá vỡ trật tự
thế giới đơn cực tồn tại suốt hàng thập kỷ trước đây; thay vào đó là một thế
giới đa cực, đa trung tâm quyền lực.
Tuy vị thế chính trị của Hoa Kỳ bị lung lay, nhưng Hoa Kỳ vẫn là quốc
gia nắm giữ nền kinh tế mạnh của thế giới. Trước những thay đổi mạnh mẽ
của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới, Hoa Kỳ đã chuyển hướng
chính sách quay trở lại khu vực Đông Nam Á, gia tăng sự hiện diện và có
nhiều động thái hơn trong việc can dự vào khu vực này nhằm củng cố ảnh
hưởng, tạo thế chiến lược lâu dài, đặc biệt là kiềm chế sự bành trướng của
Trung Quốc.
Do Myanmar nằm ở vị trí chiến lược quan trọng giữa Trung Quốc, Ấn
Độ và các quốc gia ASEAN, lại có đường bờ biển dài. Việc cải thiện quan hệ
với Myanmar của Hoa Kỳ sẽ góp phần giúp Hoa Kỳ kiềm chế Trung Quốc,
Ấn Độ và kiểm soát tốt an ninh hàng hải vịnh Bengal, biển Andaman và tiểu
vùng sông Mekong. Bên cạnh đó, sự bao vây cấm vận, cô lập của Hoa Kỳ và
phương Tây với Myanmar chỉ làm đẩy thêm Myanmar lấn sâu hơn vào vòng
ảnh hưởng của Trung Quốc. Trước tình hình đó, Hoa Kỳ đã điều chỉnh chính
sách tiếp cận với Myanmar theo hướng mềm dẻo, linh hoạt hơn. Việc
Myanmar và Hoa Kỳ có những động thái cởi mở hơn trong quan hệ cũng góp
phần buộc Trung Quốc phải cân nhắc lại chính sách của mình trong quan hệ
với Myanmar và cách hành xử hợp lý, bình đẳng hơn trong quan hệ song
phương với Myanmar.
16


Từ phía Myanmar, trong suốt quá trình bị bao vây kinh tế, cô lập chính trị
cùng với thiên tai và các cuộc xung đột sắc tộc đã khiến Myanmar kiệt quệ, đời

sống nhân dân khổ cực, đẩy Myanmar ngày một gần với với Trung Quốc. Mâu
thuẫn xã hội trong nội bộ Myanmar ngày càng lên cao, việc “bắt tay” với Hoa
Kỳ và phương Tây về kinh tế có thể tránh cho Myanmar nguy cơ bị can thiệp nội
bộ khi xảy ra bất ổn. Bên cạnh đó, thái độ hợp tác của Hoa Kỳ cũng góp phần
giúp cho các nhà lãnh đạo Myanmar tin tưởng hơn vào sự ủng hộ của cộng đồng
quốc tế, đồng thời mạnh dạn thực hiện lộ trình dân chủ đã đề ra.

Về phía Trung Quốc, có thể nói Trung Quốc là nhân tố bên ngoài quan
trọng góp phần khiến Myanmar tiến hành cải cách. Với thời gian dài bị cô lập
với thế giới, Myanmar gần như không đầu tư được ra nước ngoài và cũng
không nước nào đầu tư vào làm ăn với Myanmar, ngoại trừ Trung Quốc. Bắc
Kinh vốn không muốn Myanmar ngả theo Ấn Độ hay phương Tây hoặc
hướng về Hoa Kỳ bởi Trung Quốc bị lệ thuộc nhiều vào nguồn tài nguyên từ
Myanmar như khí đốt, thủy điện, đồng thời cũng có mối quan hệ kinh tế, quốc
phòng chặt chẽ với Myanmar. Myanmar là đầu cầu triển khai hải quân của
Trung Quốc tại Ấn Độ Dương. Một phần lớn năng lượng của Trung Quốc
được chuyển về từ Trung Đông nếu không đi qua Myanmar sẽ buộc phải đi
bằng đường biển qua eo biển Hormuz và Malacca, đây là hai eo biển dễ dàng
bị Ấn Độ và Hoa Kỳ kiểm soát. Do vị trí địa lý và tài nguyên năng lượng,
Myanmar trở thành ván cá cược địa chính trị lớn mà Trung Quốc không thể bỏ
qua, cũng không thể để rơi vào tay các cường quốc khác, dù đó là Ấn Độ hay
phương Tây. Đó là một trong nhiều nguyên nhân Myanmar bị xiết trong vòng
cương tỏa của Trung Quốc. Thực tế, trong quá trình đổi mới, Trung Quốc vẫn
đóng vai trò là nhà đầu tư và đối tác thương mại hàng đầu của Myanmar. Tuy
nhiên, cách thức đầu tư của Trung Quốc đã đem lại nhiều bất lợi cho
Myanmar như: ô nhiễm môi trường, khai thác kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Myanmar gần như không được hưởng lợi gì trong việc
17



chuyển giao công nghệ và hiện đại hóa đất nước. Chính sự phụ thuộc quá mức
vào quan hệ chính trị, kinh tế từ Trung Quốc đã khiến đời sống kinh tế, chính
trị, an ninh, xã hội của quốc gia này trở nên “ngột ngạt” và mong muốn “thoát
Trung” của Myanmar ngày càng trỗi lên mạnh mẽ. Chính quyền Myanmar
buộc phải điều chỉnh chính sách đối ngoại từ song phương sang đa dạng hóa,
mở cửa và hội nhập. Bên cạnh đó, việc Trung Quốc tiếp tục viện trợ vũ khí
cho các nhóm vũ trang đối lập khiến các nhà lãnh đạo Myanmar thận trọng, đề
phòng hơn trong quan hệ với Trung Quốc. Nhà cầm quyền Myanmar buộc
phải cân nhắc và tiến tới mở rộng quan hệ sang các đối tác khác nhằm hạn chế
rủi ro vào sự lệ thuộc với Trung Quốc.
Trung Quốc nhận thấy sự “chuyển động” trong chính sách đối ngoại của
Myanmar, cùng với việc cải cách dân chủ ở Myanmar là tất yếu phải diễn ra,
chính quyền Bắc Kinh đã nhanh chóng ủng hộ quá trình cải cách và kêu gọi
các nước dỡ bỏ cấm vận với Myanmar. Động thái này cũng tạo sự yên tâm đối
với các nhà lãnh đạo Myanmar tự tin tiến hành cải cách mà không lo việc mất
đi quan hệ đối tác láng giềng truyền thống với Trung Quốc.
Ngoài ra, trước những đặc điểm mới của tình hình thế giới và khu vực,
không chỉ Hoa Kỳ mà các nước lớn khác đều đã có những động thái điều
chỉnh chính sách của mình. Cục diện toàn cầu tuy xu thế hòa bình, ổn định,
hợp tác và phát triển được ưu tiên hàng đầu, nhưng các cuộc xung đột vũ
trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang và các hoạt động can
thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng
phức tạp.
Cùng với sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn với Myanmar và các
cuộc cách mạng ở một loạt các nước Đông Âu (Cách mạng Nhung, Cách
mạng Cam, Cách mạng Hoa Tulip, Cách mạng Hoa hồng…), hay Cách mạng
cây tuyết tùng năm 2005 tại Lebanon, Cách mạng xanh năm 2005 tại Kuwait
và gần đây nhất là Mùa xuân Ả Rập ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi đã kéo
18



theo sự sụp đổ của một loạt chính phủ. Đây là bài học đắt giá cho tất cả các
chính phủ trong việc củng cố và ổn định chính trị-xã hội. Những sự kiện trên
đã tác động mạnh mẽ đến chính sách đối nội, đối ngoại của Myanmar. Việc
thực hiện cải cách trong đó tập trung cải cách chính trị nhằm đối phó với nguy
cơ phản ứng của người dân trong nước, cộng với sức ép của cộng đồng quốc
tế và phương Tây về dân chủ, nhân quyền đã được chính quyền Myanmar chú
trọng hơn bao giờ hết, mà sau này, người ta vẫn ví sự thay đổi, chuyển giao
quyền lực của Myanmar là “Mùa xuân Myanmar”.
1.2.2. Thay đổi về kinh tế, chính trị trong khu vực ASEAN
Cũng trong thập niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới (kể từ năm 2000),
kinh tế, chính trị của các nước thuộc khối Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Trong một thế giới toàn cầu
hóa cao, nỗ lực tăng trưởng kinh tế, liên kết an ninh-chính trị là một trong
những ưu tiên hàng đầu của cộng đồng ASEAN nói chung và của các quốc gia
thuộc khối nói riêng.
Về chính trị, ASEAN là tổ hợp của các quốc gia với nền văn hóa xã hội, sắc
tộc, tôn giáo đa dạng nhưng có những nét tương đồng về phát triển lịch sử với
nền văn minh lúa nước là biểu trưng. Trong 10 năm đầu những năm 2000, liên
kết ASEAN ở mức tương đối sâu rộng, tuy mức độ liên kết không đồng đều ở
các lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội, do sự đa dạng khá lớn
giữa các nước thành viên, nhất là về khoảng cách phát triển, chế độ chính trị - xã
hội cũng như những tính toán chiến lược và lợi ích quốc gia của mỗi nước, song
ASEAN cũng dần bước sang giai đoạn mới, được thể chế hóa cao hơn. Liên kết
chính trị-kinh tế giữa các quốc gia thuộc khối đã được chú trọng hơn và các nước
thuộc ASEAN nói riêng cũng như ASEAN nói chung đã tạo được vị thế cũng
như uy tín chính trị ngày càng lớn trong khu vực.

Vào năm 1997, tại Kuala Lumpur thủ đô của Malaysia (đây cũng là năm
Myanmar chính thức gia nhập ASEAN), các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông

19


×