Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Hội nhập theo khu vực theo xu hướng cánh tả của các nước mỹ la tinh đầu thế kỷ 21

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN VĂN ĐÁP

HỘI NHẬP KHU VỰC THEO XU HƯỚNG CÁNH TẢ
CỦA CÁC NƯỚC MỸ LATINH ĐẦU THẾ KỈ 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN VĂN ĐÁP

HỘI NHẬP KHU VỰC THEO XU HƯỚNG CÁNH TẢ
CỦA CÁC NƯỚC MỸ LATINH ĐẦU THẾ KỈ 21

Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60 31 02 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thế Quế

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện, không
sao chép hay trích dẫn mà không dẫn nguồn từ bất kì một công trình nghiên cứu nào
khác.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, và chưa từng được ai
công bố trong bất kì công trình nào khác.
Học viên

Nguyễn Văn Đáp


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được luận văn này, trước hết, tôi chân thành gửi lời
cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy hướng dẫn khoa học của tôi – TS. Lê Thế Quế, người
thầy đáng kính cả về nhân cách lẫn chuyên môn. Thầy đã giúp tôi trong việc định
hướng, lựa chọn và quyết định đề tài. Thầy cũng là người đã theo sát quá trình
nghiên cứu của tôi để đưa ra những gợi ý, những lời khuyên xác đáng để luận văn
của tôi có thể đi đúng hướng và đảm bảo yêu cầu về tính khoa học. Thầy cũng chính
là người đã động viên cả về vật chất và tinh thần để tôi có thể vượt qua những khó
khăn để hoàn thành luận văn.
Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới các thầy cô của Khoa Quốc tế học đã tạo
điều kiện thuận lợi để tôi có thể tập trung nghiên cứu và hoàn thành luận văn đúng
hạn. Các bạn sinh viên trong Khoa cũng là những người tôi muốn gửi lời cảm ơn vì
đã là những người khiến tôi thấy thoải mái và mong muốn hoàn thành công việc.
Cuối cùng, tôi muốn gửi là cảm ơn đến tất cả những người thân trong gia
đình cũng như người bạn đặc biệt của tôi vì đã luôn bên cạnh và ủng hộ tôi vô điều
kiện và đầy yêu thương, cả trong những lúc khó khăn nhất.
Xin cảm ơn vì tất cả !
Hà Nội, tháng 11/2015

Học viên

Nguyễn Văn Đáp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỘI NHẬP KHU VỰC
THEO XU HƯỚNG CÁNH TẢ...................................................................12
1.1. Các yếu tố trong khu vực....................................................................12
1.1.1. Các điều kiện chính trị thuận lợi.....................................................12
1.1.2. Các gắn kết về lịch sử, kinh tế, văn hóa- xã hội.............................19
1.2. Các yếu tố bên ngoài...........................................................................23
1.2.1. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế.......................................23
1.2.2. Sự tái định hình cục diện thế giới...................................................25
1.3. Tiểu kết................................................................................................35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KHU VỰC THEO XU
HƯỚNG CÁNH TẢ......................................................................................36
2.1. Các vấn đề chung................................................................................36
2.2. Các tiến trình cụ thể............................................................................39
2.3. Kết quả và tác động.............................................................................49
2.3.1. Về chính trị-an ninh..........................................................................49
2.3.2. Về kinh tế...........................................................................................59
2.3.3. Về các lĩnh vực khác.........................................................................61
2.4. Nhận xét..............................................................................................64
2.4.1. Mở rộng các lĩnh vực hội nhập.......................................................64
2.4.2. Các yếu tố chính trị có tác động lớn...............................................66
2.4.3. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Brazil và Venezuela........................67
2.5. Tiểu kết................................................................................................68
CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG HỘI NHẬP...................................................70

3.1. Các thách thức gặp phải.....................................................................70


3.1.1. Sự suy yếu các chính quyền cánh tả trong khu vực.........................70
3.1.2. Các tồn tại trong quan hệ giữa các nước trong khu vực.................76
3.1.3. Sự thiếu sức hút của tư tưởng cánh tả trong bối cảnh sau Chiến
tranh Lạnh.................................................................................................77
3.1.4. Ảnh hưởng của nhân tố Mỹ.............................................................78
3.2. Các dự báo triển vọng.........................................................................80
3.2.1. Ngắn hạn.........................................................................................80
3.2.2. Trung và dài hạn.............................................................................84
3.3. Tiểu kết................................................................................................87
KẾT LUẬN....................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................91
PHỤ LỤC.......................................................................................................95


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TÊN CÁC TỔ CHỨC KHU VỰC Ở MỸ LATINH & CARIBE

Stt
1

2

3

Viết tắt
- ACS
- AEC


- ALBA

- ACN
- CAN

4

- CARICOM

5

- CELAC

- LACES
6

- SELA

- LAFTA
7

- ALALC

- LAIA
8

- ALADI




- OCAS
9

10

11

12

13

14

15

Stt

- ODECA

- OECS
- PA
- AP
- USAN
- UNASUR
- RG
- GR

- SICA


- SCM
- MERCOSUR

Viết tắt

Viết tắt tiếng nước ngoài (Tây Ban Nha/ Bồ Đà
16

APEC

17

CALC


18

CEED


19

CEPAL

20

ELAM

21


ESUDE

22

EU

23

FTA

24

IMF

25

ISI

26

JPC

27

OAS

28

OEI


29

OLADE

30

PICE



31

PT

32

SADC

33

SAFTA

34

SAI

35

SPF


36

TCP

37

WB


DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG, BIÊU ĐỒ, HỘP
Danh mục bảng

Bảng 1.1. Thống kê số nợ nước ngoài của các nước Mỹ Latinh và Caribe,
1991- 1997 ...................................................................................................... 16
Danh mục biểu

Biểu đồ 1.2. Số lượng và tỉ lệ người nghèo ở Mỹ Latinh và Caribe, 19812012.. .............................................................................................................. 17

Biểu đồ 1.3. Chênh lệch phân phối thu nhập ở Mỹ Latinh và Caribe, 2012 . 17
Biểu đồ 1.7. Thương mại của Ấn Độ với Mỹ Latinh và Caribe, 1985- 2000 .....
Biểu đồ 2.3. Mức tiêu thụ năng lượng và định mức dầu mua ưu đãi từ
Venezuela của các nước thành viên PetroCaribe (2011) ...............................
Danh mục hình
Hình 1.4. Các chính quyền cánh tả ở Mỹ Latinh và Caribe, 2006 ................
Hình 1.5. Phân bố sắc tộc và ngôn ngữ ở MLT, 1997 ...................................
Hình 1.6. Chiến tranh giành độc lập của các nước Mỹ Latinh và Caribe ......
Danh mục hộp

Hộp 2.1. Các thể chế chính của Cộng đồng Andes ........................................
Hộp 2.2. Hiệp định Hợp tác Năng lượng PetroCaribe ...................................

Hộp 2.3. “Đảo chính nghị viện” tại Paraguay năm 2012 ...............................


MỞ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài

Từ khi các nền cộng hòa ở Mỹ Latinh ra đời sau các cuộc chiến tranh giành
độc lập vào đầu thế kỉ 19 đã xuất hiện các ý tưởng về liên kết, hội nhập khu vực ở
Mỹ Latinh. Biểu hiện rực rỡ và sinh động nhất chính là tư tưởng và sự cống hiến cả
cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh giải phóng và cho một nhà nước thống nhất cho
các dân tộc Mỹ Latinh của người anh hùng Mỹ Latinh, Simón Bolívar (1783-1830).
Chính những hạt giống tư tưởng đầu tiên ấy đã truyền cảm hứng cho các sáng kiến,
mô hình về sự thống nhất, liên kết khu vực trong các giai đoạn tiếp theo của các
nước Mỹ Latinh. Các tư tưởng về một khu vực Mỹ Latinh đoàn kết, thống nhất ngày
càng được truyền bá rộng rãi đã hình thành nên “chủ nghĩa Mỹ Latinh”
(Latinamericanismo), sau trở thành nền tảng tư tưởng cho quá trình hội nhập khu
vực.
Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử, vấn đề liên kết, hội
nhập khu vực nhiều lần được đưa ra, đã đạt được những bước tiến rõ rệt nhưng cũng
không ít lần bị trì hoãn, gác lại, hay thậm chí thất bại. Trong thời kì Chiến tranh
Lạnh, theo làn sóng ở các khu vực trên thế giới, đặc biệt là quá trình hội nhập khu
vực ở Tây Âu, các mô hình liên kết, hội nhập cả về kinh tế và chính trị của Mỹ
Latinh đã ra đời như: Cộng đồng các Quốc gia Trung Mỹ (ODECA, 1951), Khu vực
Tự do Thương mại Mỹ Latinh (LAFTA,1960), Thị trường Chung Trung Mỹ
(CACM,1960), Cộng đồng các Quốc gia Andes (CAN, 1969), Hệ thống Kinh tế Mỹ
Latinh và Caribe (SELA, 1975) hay Hiệp hội Hội nhập Mỹ Latinh (LAIA, 1980) và
Thị trường Chung Nam Mỹ (MERCOSUR, 1991)… Tuy nhiên, các mô hình liên
kết, hội nhập này hoạt động kém hiệu quả về mặt chính trị bởi ảnh hưởng to lớn của

Mỹ, thông qua một loạt các cơ chế, đặc biệt là Tổ chức các nước châu Mỹ (OAS).
Về mặt kinh tế, vì nhiều nguyên nhân nội tại, bên cạnh sự can thiệp của Mỹ, nên các
làn sóng hội nhập của khu vực cũng chưa đạt được các mục tiêu.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các xung đột, đối đầu Đông-Tây cũng
không còn, xu thế hội nhập khu vực trên thế giới trở nên sôi động hơn bao giờ hết,

1


cùng với sự mở rộng thương mại quốc tế được thúc đẩy mạnh mẽ. Khu vực Mỹ
Latinh cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, sự
phát triển của liên kết, hội nhập khu vực vừa là động lực cho các hội nhập sâu hơn,
rộng lớn hơn ở quy mô toàn cầu cũng vừa là sự phản ứng lại, tự bảo vệ của các nước
yếu thế hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa do các nước công nghiệp phát triển, đặc
biệt là Mỹ, dẫn dắt. Khía cạnh này rất đúng với các liên kết, hội nhập ở Mỹ Latinh.
Hội nhập khu vực của các nước này ở một khía cạnh là sự bày tỏ quyết tâm thoát
khỏi sự phụ thuộc vào Mỹ của các nước trong khu vực, cả về kinh tế và chính trị.
Từ những năm 1970, các chính quyền quân sự trong khu vực, đi đầu là chính
quyền của Tướng Augusto Pinochet (1974- 1990) ở Chile, đã chấp nhận các chính
sách theo lý thuyết Tự do Mới (Neo-liberalism), theo các khuyến nghị của các học
giả theo trường phái Chicago (Chicago school). Về các chính sách trong nước,
trường phái này khuyến khích việc giảm can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế,
ủng hộ tư nhân hóa, mở cửa kinh tế với bên ngoài. Về mặt kinh tế đối ngoại, các
chính sách trong gói này đã ủng hộ tự do hóa thương mại liên quốc gia và thúc đẩy
làn sóng hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc áp dụng các “liều thuốc” này để
giải quyết tình trạng suy thoái của các nền kinh tế với số nợ nước ngoài cao ngất
ngưởng đã làm trầm trọng thêm những vấn đề bức bối của các nước trong khu vực.
Đó là tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng trong phân phối thu nhập dẫn đến việc
Mỹ Latinh là khu vực có chỉ số chênh lệch giàu – nghèo lớn nhất thế giới theo các
số liệu đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các

vấn đề xã hội như nghèo đói, thất nghiệp cao, lan tràn bạo lực, ma túy,… nảy sinh từ
sự bất mãn do thiếu công bằng nghiêm trọng. Chính trong bối cảnh đó, các lực
lượng cánh tả, bao gồm các đảng dân chủ xã hội, đảng cộng sản và các lực lượng
tiến bộ ở các nước trong khu vực đã nổi lên và giành được chính quyền thông qua
bầu cử ở một loạt các nước như Venezuela, Ecuador, Bolivia, Nicaragua, Chile,
Argentina,… nhờ sự ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân mong muốn thay
đổi hiện tình đất nước. Cũng từ đó, một xu thế hội nhập, liên kết khu vực mới được

2


kiến tạo với rất nhiều sáng kiến hợp tác, liên kết, hội nhập đa dạng bởi các nước
đang dưới sự lãnh đạo của các chính quyền cánh tả ở khu vực, cả về kinh tế và
chính trị, bên cạnh các mô hình hội nhập, liên kết theo xu hướng tự do hóa thương
mại đang tồn tại, được các nước còn lại trong khu vực và một phần các chính quyền
cánh tả ôn hòa ủng hộ.


các nước Mỹ Latinh có một đặc điểm đáng chú ý là sự phân cực và đối lập

gay gắt giữa các khuynh hướng, lực lượng chính trị. Tình trạng này vừa có nguồn
gốc liên quan mật thiết với sự bất bình đẳng nghiêm trọng trong phát triển tại các
nước trong khu vực, vừa là hệ quả còn lại của tư duy chính trị thời Chiến tranh
Lạnh. Do đó, khi các lực lượng chính trị khác nhau lên cầm quyền sẽ có sự điều
chỉnh đáng kể, thậm chí thay đổi hẳn các chính sách đối nội và đối ngoại của các
chính phủ tiền nhiệm. Đó là lý do có thể giải thích tại sao các tổ chức hội nhập kinh
tế giữa các nước trong khu vực cũng mang màu sắc chính trị khác nhau, tùy vào bối
cảnh chính trị mà cụ thể là tương quan lực lượng giữa các bên. Trong bối cảnh đó,
đáng chú ý trong sự nổi lên của các liên kết, hội nhập theo xu hướng cánh tả là các
sáng kiến, mô hình do Venezuela, chủ yếu dưới thời Tổng thống Hugo Chavéz, dẫn

dắt và các mô hình liên kết, hội nhập ở khu vực do Brazil dưới sự lãnh đạo của các
chính quyền cánh tả ôn hòa làm chủ đạo.
Như vậy, các liên kết, hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả chỉ là một trong
những hướng nhằm tiến tới mục tiêu liên kết, hội nhập của khu vực, có liên quan
chặt chẽ tới việc cầm quyền của các lực lượng cánh tả trong khu vực. Trong khi đó,
nhìn lại trong lịch sử cũng như hiện tại, việc nở rộ các mô hình, tổ chức liên kết và
hội nhập khu vực, tiểu khu vực ở Mỹ Latinh nhưng ít có mô hình đạt được các hiệu
quả như mong muốn đặt ra câu hỏi về tính hiệu quả, tính bền vững của xu thế; mức
độ cũng như thực trạng và triển vọng của các sáng kiến, mô hình liên kết, hội nhập
hiện nay. Liệu xu thế liên kết, hội nhập này có bền vững, hiệu quả hay sẽ dễ thay
đổi vì phụ thuộc vào sự cầm quyền của cánh tả trong khu vực? Ngoài ra, liệu các
liên kết, hội nhập của các chính quyền cánh tả có tạo ra được điều gì khác biệt với
các làn sóng hội nhập trong lịch sử khu vực hay không? Những thuận lợi và

3


thách thức đối với các tiến trình này ra sao? Từ việc phân tích các nhân tố ảnh
hưởng cả trong và ngoài khu vực liệu có đưa ra được những dự báo cho triển vọng
của tiến trình này ở khu vực?
Để giải quyết những vấn đề trên, tôi quyết định chọn đề tài “Hội nhập khu
vực theo xu hướng cánh tả của các nước Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21” để thực hiện
nghiên cứu.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Sự liên kết và hội nhập khu vực ở Mỹ Latinh xuất hiện khá sớm nên cũng có
rất nhiều công trình nghiên cứu ở cả trong và ngoài khu vực. Nội dung của các
nghiên cứu của các tác giả trong khu vực đề cập đến các vấn đề đa dạng của vấn đề

liên kết và hội nhập, có thể được xuất bản ở trong hoặc ngoài khu vực. Có thể kể
đến các công trình của C. Jose Angel Perez Garcia về ảnh hưởng của chủ nghĩa tự
do mới tới thương mại và liên kết khu vực, được dịch và đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu Kinh tế số 361; hay bài viết của Jorge I. Domínguez và cộng sự về quan hệ kinh
tế của khu vực với bên ngoài “China’s relations with Latin America: shared gains,
asymetric hopes” năm 2006; về các mô hình hội nhập có thể kể đến nghiên cứu của
José Briceño Ruiz "The New Regionalism in South America and the South
American Community of Nations" năm 2007; hay bài viết về hội nhập khu vực,
thương mại và xung đột tại Mỹ Latinh của một nhóm tác giả do Alejandra RuizDana phụ trách ““Regional Integration, Trade and Conflict in Latin America”
(2007). Nhiều công trình trong số này được xuất bản hoặc công bố tại các viện
nghiên cứu, hội thảo ở Mỹ và Canada.
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu của các học giả Mỹ Latinh được công bố với tư
cách là các ấn phẩm của Ủy ban Kinh tế Liên Hợp Quốc khu vực Mỹ Latinh và
Caribe (ECLAC/CEPAL, có trụ sở chính tại Santiago de Chile) với các nội dung
mang tính tổng hợp, khái quát. Trong đó, có thể kể đến Renato Baumann (Văn
phòng ở Brasilia) với bài viết “Integration in Latin America - Trends and
Challenges”, vào năm 2008.

4


Ngoài khu vực, các nơi tập trung nhiều nghiên cứu sâu về vấn đề này của khu
vực chính là ở các nước, các khu vực đối tác chủ yếu của Mỹ Latinh. Trong đó, có
thể kể đến là Mỹ và Canada, EU, Trung Quốc, Australia,… Các nghiên cứu của các
học giả từ các viện nghiên cứu, các trường đại học này cũng tập trung vào hai vấn
đề chính là sự nổi lên của cánh tả khu vực và các sáng kiến, mô hình hội nhập kinh
tế khu vực của các nước Mỹ Latinh, cũng như khả năng thiết lập các quan hệ đối tác
khu vực-khu vực hay khu vực-quốc gia. Các nghiên cứu này gặp nhau ở điểm đánh
giá có sự khác biệt khá rõ hay chính là nhiều cấp độ khác nhau của cánh tả khu vực.
Do đó, quan điểm về vấn đề hội nhập kinh tế khu vực cũng như chống tự do hóa

thương mại là ở các cấp độ khác nhau, tùy mức độ “tả” của chính quyền các nước.
Từ phía các nước EU, với hướng tiếp cận nghiên cứu liên kết, hội nhập khu
vực Mỹ Latinh để thúc đẩy tiến trình liên kết giữa hai khối, có thể kể đến công trình
nghiên cứu của các tác giả tại Viện Quan hệ Kinh tế Quốc tế (Hy Lạp) là Bouga
Panagiota về “Latin American Integration: Mercosur, CELAC and EU-CELAC
partnership as a new form of inter-regionalism” (2013), trước đó có bài viết của
Anastasios I. Valvis về “Regional Integration in Latin America” (2008). Olivier
Dabène ở Học viện Chính trị Paris (Sciences Po, CERI/OPALC, Paris) có bài viết
đưa ra một cái nhìn xuyên suốt từ góc độ lịch sử đối với tiến trình hội nhập khu vực
Mỹ Latinh “Explaining Latin America’s fourth wave of regionalism: regional
integration of a third kind” (2012). Eric Toussalnt cũng có một bài viết đã được
dịch,“Cái nhìn toàn cảnh về phong trào cánh tả” (2009). Ở Italia cũng có nghiên cứu
của José Antonio Sanahuja (RSCAS-EUI, Florene) về “Post-liberal Regionalism in
South America: The Case of UNASUR” năm 2012. Nghiên cứu của các học giả Ấn
Độ có thể kể đến bài viết “UNASUR and Security in South America” của tác giả
Babjee Pothuraju tại Viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng (IDSA, New Dehli)
năm 20102…Đối với các công trình của các tác giả nước ngoài, cả trong và ngoài
khu vực, đều là các công trình chuyên sâu về các khía cạnh cụ thể hay mang tính
chuyên biệt về một vấn đề liên kết, hội nhập ở khu vực. Do đó, để hiểu được một
cách hệ thống và đầy đủ về vấn đề cần có một công trình nghiên cứu riêng.

5




Việt Nam, dù đã có những công trình nghiên cứu về Mỹ Latinh và liên kết,

hội nhập ở khu vực từ cuối thế kỉ 20 như luận án tiến sĩ của Nguyễn Viết Thảo về
hội nhập khu vực ở Mỹ Latinh: kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng hầu như vấn đề vẫn

còn khá mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về phong trào cánh tả đầu thế kỉ 21
xuất hiện khá nhiều, các bài viết về các vấn đề của khu vực cũng khá phổ biến
nhưng vẫn thiếu một công trình nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về quá trình liên kết
và hội nhập ở khu vực này kể từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Các nghiên cứu ở
Việt Nam về vấn đề này thường từ hai nguồn chính. Một là các nghiên cứu của các
nhà nghiên cứu từ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Các nghiên cứu của
nhóm tác giả này tập trung vào nghiên cứu cánh tả trong khu vực và mô hình “chủ
nghĩa xã hội thế kỉ 21” thường đi sâu vào các vấn đề trong nước và mang tính so
sánh các lực lượng cánh tả trong khu vực mà ít chú ý tới vấn đề hội nhập khu vực
của các chính phủ này. Các tác giả và bài viết có thể kể đến như: Thái Văn Long với
bài viết “Phong trào cánh tả Mỹ Latinh hiện nay và triển vọng trong thời gian tới”
(2009); Nguyễn Viết Thảo với bài viết “ALBA – 10 năm đoàn kết và thắng lợi”
(2014); Nguyễn An Ninh có bài “Cánh tả châu Âu và cánh tả Mỹ Latinh: khác biệt
tạo nên đột phá” (2012),…
Nhóm nghiên cứu thứ hai là của các nhà nghiên cứu ở Viện Nghiên cứu châu
Mỹ (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam). Các nghiên cứu thuộc nhóm này có
đối tượng nghiên cứu khá đa dạng và gần với các hướng nghiên cứu của các học giả
phương Tây. Trong đó, vấn đề hội nhập kinh tế của các nước Mỹ Latinh, từ mô
hình, thực trạng, triển vọng đến vai trò lớn của Mỹ đối với hội nhập khu vực là
những nội dung được nghiên cứu nhiều. Các tác giả và bài viết của nhóm này là:
Nguyễn Lan Hương với các bài viết về “Mạng lưới liên kết chính trị dưới sự khởi
xướng của các nước Mỹ Latinh” (2012) và “Tác động của Hoa Kỳ tới liên kết chính
trị ở Mỹ Latinh” (2013) hay Nguyễn Anh Hùng với bài viết “Liên kết và hợp tác Mỹ
Latinh năm 2010” (2011)…Do đó, luận văn cố gắng để có thể trình bày một cái
nhìn toàn diện, mang tính tổng hợp về xu hướng hội nhập khu vực mới này cũng
như là một phần của hội nhập khu vực ở MLT.

6



3.

Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
+

Các tư tưởng, chính sách hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả

+

Các mô hình, sáng kiến hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả

3.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Không gian: nghiên cứu tập trung vào các nước trong khu vực Nam Mỹ,

một phần ở các nước Trung Mỹ và Caribe. Các sáng kiến, mô hình hội nhập ở khu
vực do các chính quyền cánh tả ở Nam Mỹ thiết lập và chi phối.
-

Thời gian: nghiên cứu phân tích trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến

năm 2015. Đây là giai đoạn mà các chính phủ cánh tả nắm chính quyền ở các nước
Mỹ Latinh và tiến hành các chính sách về hội nhập khu vực theo định hướng mới.
4.
xu

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát: Làm sáng tỏ xu hướng hội nhập khu vực mới –

hướng hội nhập khu vực cánh tả của các nước Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21
Mục tiêu cụ thể: 1) Làm sáng tỏ những yếu tố tác động đến sự hình
thành
và phát triển của xu hướng hội nhập khu vực cánh tả đầu thế kỉ 21; 2) Làm rõ thực
trạng của xu hướng hội nhập khu vực cánh tả đầu thế kỉ 21; 3) Đánh giá được triển
vọng của xu hướng cánh tả trong hội nhập khu vực ở Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21.
5.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu

Chỉ ra và phân tích những yếu tố trong và ngoài khu vực tác động đến xu

hướng hội nhập khu vực cánh tả của các nước MLT, làm cơ sở để đưa ra những
phân tích về thực trạng và triển vọng.
Tái hiện tiến trình, nội dung hội nhập khu vực; chỉ ra đặc điểm của
các mô
hình, sáng kiến liên kết, hội nhập của xu hướng này để chỉ ra tương đồng, khác biệt
với các làn sóng hội nhập khác ở khu vực và vai trò của xu hướng này đối với mục
tiêu hội nhập khu vực của các nước Mỹ Latinh.
-

Chỉ ra và phân tích những tác động của xu hướng hội nhập cánh tả cũng

như những thách thức, thuận lợi để đưa ra các kịch bản triển vọng tiến trình hội
nhập khu vực theo xu hướng mới đầu thế kỉ 21.



7


6.

Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu

6.1. Cơ sở lý luận
Để xây dựng các lập luận, nghiên cứu dựa trên 04 cơ sở lý luận chính là: lý
thuyết phổ chính trị, lý thuyết về chủ nghĩa khu vực, lý thuyết về hội nhập kinh tế
quốc tế và lý thuyết phụ thuộc trong nghiên cứu quan hệ quốc tế.



Lý thuyết về phổ chính trị (the political spectrum)

Các thuật ngữ “cánh tả ôn hòa”, “cánh tả cấp tiến”, “trung tả” trong nghiên
cứu được sử dụng dựa trên khung lý thuyết về phổ chính trị. Theo lý thuyết này, các
đảng chính trị, các chính phủ cầm quyền được phân loại theo một thang dao động từ
cực tả đến cực hữu, qua các mức tả, trung tả, trung dung, trung hữu, hữu. Sự phân
chia này dựa trên quan điểm của các bên về vấn đề tự do kinh tế, vai trò của nhà
nước trong nền kinh tế, dân chủ, công bằng xã hội, và liên kết, hội nhập quốc tế. Sự
phân loại này có từ lâu trong lịch sử (theo quan điểm được chấp nhận rộng rãi hiện
nay là từ cuộc Cách mạng Pháp, 1789) nhưng các khái niệm cánh tả, cánh hữu cũng
đã có nhiều biến đổi qua thời gian về quan điểm, lực lượng. Đôi khi, các chính đảng
không thể thực sự được phân biệt rạch ròi về tư tưởng chính trị do xu hướng ngày
càng phổ biến của sự kết hợp, dung hòa quan điểm của các bên trong thực tế chính
trị thế giới hiện nay, ẩn sau đó là sự thỏa hiệp lẫn nhau, phân chia lợi ích. Tuy nhiên,
lý thuyết này có thể được sử dụng để chỉ ra mức độ khác nhau của lực lượng cánh tả
ở các nước Mỹ Latinh, những chủ thể có chủ trương khác nhau về liên kết, hội nhập

khu vực. Từ nhóm các thuật ngữ về tả, hữu theo lý thuyết này mà xuất hiện thuật
ngữ “theo xu hướng cánh tả”.



Lý thuyết về chủ nghĩa khu vực (the regionalism)

Lý thuyết về chủ nghĩa khu vực, đặc biệt là chủ nghĩa khu vực mới (neoregionalism), vốn tích hợp nhiều quan điểm của các lý thuyết quan hệ quốc tế khác,
là khung lý thuyết để nhận định các cách thức tiến hành hội nhập khu vực, dựa trên
quan điểm về các thành phần tạo nên chủ nghĩa khu vực: bản sắc khu vực, hợp tác
khu vực, và xu thế khu vực hóa, của các chính quyền cánh tả Mỹ Latinh. Khung lý
thuyết này sẽ giúp giải thích tại sao các nước cánh tả trong khu vực nói riêng, các
nước Mỹ Latinh nói chung cố gắng xây dựng các thể chế cấp độ khu vực cũng như

8


có các biện pháp nhằm xây dựng nhận thức chung, phổ biến về các vấn đề khu vực
giữa các nước thành viên. Đồng thời, lý thuyết về chủ nghĩa khu vực mới, đặc biệt
nhấn mạnh đến tính “mở” của chủ nghĩa khu vực sẽ giúp giải thích việc gia nhập
nhiều khối liên kết cùng lúc của các nước trong khu vực, cũng như việc xây dựng
các khối không hẳn dựa trên yếu tố gần gũi và tương đường về địa lý như trước đây.



Lý thuyết về hội nhập kinh tế khu vực (regional integration)

Lý thuyết về hội nhập kinh tế khu vực do nhà kinh tế học người Hungary Béla
Balassa (1928- 1991) đưa ra phân chia hội nhập khu vực thành 05 cấp độ. Đó lần lượt
từ thấp đến cao là: thỏa thuận thương mại ưu đãi (preferential trade arrangement- PTA);

thiết lập khu vực thương mại tự do (free trade area/agreement); thiết lập liên minh thuế
quan (custom union); thiết lập thị trường chung (common market) và thiết lập liên minh
1

kinh tế (economic union) . Lý thuyết này giúp phân tích mức độ hội nhập của các mô
hình, sáng kiến của các chính quyền cánh tả Mỹ Latinh về hội nhập khu vực cũng như
cho phép đưa ra dự đoán về những dự định trong xu hướng hội nhập khu vực của các
nước Mỹ Latinh, dù không phải là tuyệt đối.



Lý thuyết phụ thuộc trong quan hệ quốc tế (dependency theory)

Lý thuyết phụ thuộc trong quan hệ quốc tế, được đưa ra từ thập niên 1950 bởi
các học giả châu Âu và Nam Mỹ. Lý thuyết này phân chia thế giới thành khu vực
trung tâm và khu vực ngoại vi. Lý thuyết này cho rằng sự kém phát triển ở các nước
ngoại vi là do sự phụ thuộc của các nước này vào các nước trung tâm, các nước
2

giàu, đặc biệt là Mỹ . Tuy vậy, trong các nhà lý thuyết của chủ nghĩa phụ thuộc lại
chia thành hai nhóm quan điểm. Một nhóm cấp tiến thì cho rằng các nước chậm
phát triển cần cắt đứt những mối liên hệ kinh tế với các nước trung tâm để có thể
độc lập phát triển. Biểu hiện rõ ràng cho quan điểm này ở các nước Mỹ Latinh là
việc nhiều nước trong khu vực muốn loại bỏ sự can thiệp của Mỹ vào khu vực. Một
nhóm quan điểm khác thì cho rằng việc duy trì các mối liên hệ đó là cần thiết để các
nước nghèo có thể phát triển kinh tế dần lên, dần chuyển thành
1

Bùi Trường Giang (2010), Hướng tới chiến lược FTA của Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Đông Á,

NXB KHXH.
2 Sunil Kukreja (2012), “Hai khía cạnh của phát triển”2, (Khoa Quan hệ Quốc tế dịch), Tập bài đọc Kinh
tế Chính trị Quốc tế, tp.HCM, trang 313- 352. (Bản gốc tiếng Anh xuất bản năm 2001)

9


các nước giàu, nhưng mối quan hệ đó phải được điều chỉnh theo hướ ng công bằng
hơn cho các nước nghèo. Việc áp dụng khung lý thuyết này cho phép giải thích các
quan điểm, chính sách của các nước cánh tả, đặc biệt là các nước cánh tả cấp tiến
trong khu vực.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp lịch sử: được sử dụng để trình bày về tiến trình, các mốc

quan trọng trong sự hội nhập của các nước MLT.
-

Phương pháp định lượng: sử dụng các số liệu, chỉ số, thống kê nhằm phân

tích thực trạng, mức độ hiệu quả của các sáng kiến hội nhập kinh tế.
-

Phương pháp so sánh: so sánh hai xu hướng liên kết, hội nhập cánh tả ôn

hòa và theo xu hướng cánh tả cấp tiến nhằm phân tích các ưu, nhược điểm để đưa ra
các dự báo về triển vọng phát triển.
-


Phương pháp phân tích chính sách: căn cứ các nội dung chính sách để tìm

hiểu mục tiêu, cách thức của các chủ thể liên quan đến tiến trình hội nhập, liên kết
khu vực.
7.
-

Ý nghĩa nghiên cứu

Ý nghĩa lý luận: góp phần làm sáng tỏ các lý thuyết về chủ nghĩa khu vực,

hội nhập khu vực và về phong trào cánh tả quốc tế thông qua nghiên cứu thực tiễn
tại khu vực Mỹ Latinh sau Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là vào đầu thế kỉ 21. Làm cơ
sở cho các nghiên cứu tiếp theo về hội nhập, liên kết khu vực và nghiên cứu về Mỹ
Latinh.
-

Ý nghĩa thực tiễn: làm cứ liệu gợi mở những suy nghĩ về hội nhập khu vực

mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(Association of Southeast Asia Nations/ASEAN) trong cục diện thế giới đầu thế kỉ
21; sử dụng làm tài liệu giảng dạy về Mỹ Latinh.
8.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu bởi ba chương. Cụ thể:
Chương 1: Các yếu tố tác động đến hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả

10



×