Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

So sánh hoạt động của đảng dân chủ và đảng cộng hòa trong hệ thống chính trị mỹ từ năm 2001 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.18 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

SO SÁNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VÀ
ĐẢNG CỘNG HÒA TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
MỸ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

SO SÁNH HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VÀ
ĐẢNG CỘNG HÒA TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
MỸ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Thiết Sơn

Hà Nội - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết
quả trong luận văn này là trung thực, chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về những kết quả nghiên cứu trong
công trình này.
Học viên

Nguyễn Thị Huyền Trang


LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được gửi lời cảm ơn
chân thành nhất đến Thầy hướng dẫn - GS. TS. Nguyễn Thiết Sơn - người đã
tận tình hướng dẫn, theo sát quá trình nghiên cứu của tôi, đưa ra những gợi ý,
lời khuyên xác đáng để tôi hoàn thành Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới các Thầy, Cô Phòng sau Đại học và
giảng viên Khoa Khoa học chính trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn anh, chị, em học viên lớp Cao học Chính trị học
khóa 2013 – 2015 đã ủng hộ, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và hoàn
thành luận văn.
Cuối cùng, tôi muốn dành lời cảm ơn đến Lãnh đạo, đồng nghiệp
trường Đại học Đại Nam – nơi tôi đang làm việc; cảm ơn gia đình, người thân
và bạn bè đã luôn ở bên ủng hộ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho tôi thực hiện luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12/2015
Học viên


Nguyễn Thị Huyền Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.................................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................................... 6
6. Dự kiến đóng góp của đề tài................................................................................................... 6
7. Kết cấu của đề tài......................................................................................................................... 6
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ ĐẢNG PHÁI TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ MỸ.............................................................................................................................. 7
1.1. Một số khái niệm cơ bản................................................................................................... 7
1.1.1. Hệ thống chính trị Mỹ........................................................................................................ 7
1.1.2. Đảng chính trị..................................................................................................................... 15
1.1.3. Đảng cầm quyền................................................................................................................. 18
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Đảng phái chính trị Mỹ........18
1.2.1. Sự hình thành của hệ thống đa đảng ở Mỹ........................................................... 18
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của Đảng chính trị...................................................... 21
1.3. Cơ cấu tổ chức của Đảng chính trị Mỹ....................................................................... 28
1.3.1. Đảng cấp quốc gia (Đảng chính trị toàn quốc)................................................. 30
1.3.2. Đảng cấp bang.................................................................................................................... 32
1.3.3. Đảng cấp địa phương...................................................................................................... 33
Tiểu kết chƣơng 1........................................................................................................................ 35
Chƣơng 2. HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VÀ ĐẢNG CỘNG
HÒA TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY.......................................................................................... 37
2.1. Hoạt động bầu cử................................................................................................................ 37

2.1.1. Vài nét về bầu cử ở Mỹ................................................................................................... 37
2.1.2. Cuộc tranh cử của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa.................................. 41


2.2. Hoạt động kinh tế - xã hội............................................................................................. 46
2.3. Về hoạt động an ninh quân sự.................................................................................... 51
2.4. Cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố của hai Đảng sau sự kiện
11/9/2001......................................................................................................... 54

2.4.1. Cuộc chiến chống khủng bố dưới chính quyền Tổng thống George W.
Bush (2001 đến 2009) .....................................................................................
2.4.2. Cuộc chiến chống khủng bố dưới chính quyền Tổng thống Barack
Obama (2009 – đến nay) .................................................................................
2.5. Chính sách của hai Đảng đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dƣơng .......
Tiểu kết chƣơng 2 ..........................................................................................
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG DÂN
CHỦ VÀ ĐẢNG CỘNG HÒA .....................................................................
3.1. Nguyên tắc hoạt động của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa ...........
3.1.1. Nguyên tắc dân chủ ...............................................................................
3.1.2. Nguyên tắc theo đa số ...........................................................................
3.1.3. Nguyên tắc phi tập trung .......................................................................
3.2. Học thuyết của George W. Bush và Barack Obama ..........................
3.2.1. Học thuyết Bush. ...................................................................................
3.2.2. Học thuyết Obama .................................................................................
3.3. Triển vọng bầu cử năm 2016 của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng
hòa ...................................................................................................................
Tiểu kết chƣơng 3 ..........................................................................................
KẾT LUẬN ....................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................



DANH MỤC VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
CHDCND

CA –TBD

DR-CAFTA

IMF

ISAF

YSE

NATO

LHQ
GDP
GNP
EU
R&D


TPP
WB
USD
WMD
WTC



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước Mỹ là một trong những quốc gia xuất hiện muộn, lịch sử hình
thành và phát triển không dài - hơn 200 năm. Tuy nhiên, nước Mỹ đã vươn
lên và trở thành cường quốc số một, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước trên
thế giới. Là một quốc gia đa dạng về chủng tộc, có nhiều đảng chính trị khác
nhau, nhưng từ khi Đảng chính trị được ra đời tại Mỹ cho đến nay, chỉ có hai
đảng lớn là Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay nhau cầm quyền, giữ vai
trò quan trọng trên chính trường nước Mỹ. Và trong hoạt động bầu cử Tổng
thống, cũng chỉ có hai đảng này giành được chiến thắng. Các ứng cử viên
trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng chủ yếu đều thuộc hai đảng lớn, dù đảng
thứ ba có xuất hiện trong các cuộc bầu cử Tổng thống, thì đảng này cũng chưa
bao giờ giành được chiến thắng. Mỗi đảng khi đưa người ra ứng cử với một
đường lối, chiến lược và quan điểm điều hành nước Mỹ khác nhau nhưng đều
tuân theo một nguyên tắc hoạt động chung của đảng phái trong hệ thống chính
trị, nhằm đạt mục tiêu duy trì vị thế lãnh đạo thế giới của Mỹ, duy trì hình ảnh
một cường quốc quan trọng và giàu có nhất trên hành tinh.
Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao một quốc gia dân chủ, đa dạng như Hoa Kỳ
lại duy trì tình trạng chỉ có hai đảng chủ chốt thay nhau cầm quyền? Yếu tố nào
chi phối sự tồn tại, phát triển bền vững và ảnh hưởng mạnh mẽ từ trước đến nay
của các đảng cầm quyền? Trong nhiệm kỳ của mình, các Tổng thống – thuộc
Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa, đã đưa ra những chính sách, phương thức
hoạt động riêng, mang đặc trưng, dấu ấn của đảng mình để duy trì sự phát triển,
tăng cường các mối quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ đồng minh.

Bước sang thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, tác động
đến nhiều quốc gia và Mỹ cũng không ngoại lệ. Sự kiện khủng bố ngày
11/9/2001 vào nước Mỹ, làm gần 3000 người thuộc khoảng 90 quốc gia thiệt


1


mạng và mất tích, nước Mỹ lâm vào khủng hoảng, thế giới bất ổn. Lúc đó,
nước Mỹ với sự cầm quyền của Tổng thống George W.Bush – Đảng Cộng hòa
đã phát động cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa khủng bố trên phạm vi toàn
thế giới. Trong thời gian từ năm 2001 đến nay (2015), nước Mỹ với sự cầm
quyền của Tổng thống George Bush và Tổng thống Barack Obama (đương
nhiệm) đã đưa ra những chiến lược an ninh quốc gia mới, thực hiện chống chủ
nghĩa khủng bố cực đoan, khôi phục và phát triển kinh tế…, nhằm đảm bảo
cho nước Mỹ có an ninh và thịnh vượng, duy trì được vị thế lãnh đạo thế giới
của mình.
Nước Mỹ đang bước vào mùa bầu cử năm 2016 để bầu ra một Tổng
thống mới, có khả năng lãnh đạo nước Mỹ đương đầu với những thách thức
trong và ngoài nước, đưa nước Mỹ tiếp tục đi lên. Cuộc bầu cử Tổng thống
Mỹ diễn ra vào tháng 11/2016 với các hoạt động tranh cử của ứng viên thuộc
Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa không những ảnh hưởng sâu sắc đến tình
hình chính trị trong nước mà còn thu hút sự quan tâm, tác động mạnh đến
nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu hoạt động của hai
đảng lớn tại Mỹ trong thời điểm hiện nay đang đặt ra yêu cầu ngày càng cấp
bách với giới nghiên cứu Việt Nam.
Nhiều công trình nghiên cứu của các học giả, tác giả trong và ngoài
nước đã chứng minh rằng, chính sách đối nội và đối ngoại của các Tổng thống
Mỹ thuộc Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa có tác động đến nhiều quốc gia
trên thế giới. Mặc dù vấn đề về đảng chính trị tại Mỹ là một vấn đề không mới
nhưng trong sự biến đổi của bối cảnh an ninh – chính trị nước Mỹ sau vụ
khủng bố 11/9 và hậu quả mà nó để lại cho Mỹ thì đó thực sự là một trong
những vấn đề quốc tế nổi bật.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu hoạt động và vai trò của Đảng Dân chủ và
Đảng Cộng hòa là vấn đề quan trọng, để hiểu rõ hơn về tầm ảnh hưởng của

hai đảng với Mỹ, cũng như thế giới và trong quan hệ Việt – Mỹ ngày nay,
2


nhất là đối với việc tăng cường hơn nữa quan hệ ngày càng mở rộng giữa hai
nước. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến nay, các nghiên cứu hầu như chưa đề cập
sâu đến việc so sánh hoạt động của hai đảng chính trị lớn ở Mỹ. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu vấn đề trở nên cấp thiết hiện nay, và tác giả đã mạnh dạn
chọn đề tài: “So sánh hoạt động của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa
trong hệ thống chính trị Mỹ từ năm 2001 đến nay” để làm Luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa từ trước tới nay vẫn
luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm và nghiên cứu của các học giả trong và
ngoài nước. Có nhiều công trình nghiên cứu về chính sách, hoạt động của hai
đảng cầm quyền ở Mỹ, nhưng những công trình đó do xuất phát từ những
quan điểm nghiên cứu khác nhau, nên kết quả nghiên cứu ít nhiều có quan
điểm khác nhau.
Trước tiên phải kể đến Cuốn “Hệ thống chính trị Mỹ” do TS.Vũ Đăng
Hinh chủ biên (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001). Tác giả đã trình bày
chi tiết về lịch sử hình thành, các nguyên tắc hoạt động, đến các thiết chế, thể
chế chính trị; các đảng phái chính trị, những nhóm lợi ích trong hệ thống
chính trị Mỹ và các hoạt động chính trị. Tác giả đã có cách tiếp cận mới để đi
đến việc nghiên cứu hệ thống chính trị một cách toàn diện, từ thể chế, đến
thiết chế.
Cuốn “Nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XXI” của tác giả Nguyễn Thiết
Sơn (NXB Khoa học Xã hội Hà Nội, 2002) đã đề cập rõ về khả năng và
những chính sách của nước Mỹ về quân sự, kinh tế ngoại giao… nhằm bảo vệ
quyền thống trị của Mỹ.
Cuốn “Logic chính trị Mỹ” của Samuel Kernell và Gary C. Jacobson
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007). Đây là một cuốn giáo trình về chính

quyền Mỹ được nghiên cứu và trình bày công phu, chặt chẽ, phác họa toàn bộ
cấu trúc của hệ thống chính trị Mỹ. Trong Chương 12 về “Đảng chính trị Mỹ”,

3


tác giả giải thích một cách cặn kẽ, chi tiết về nguyên nhân và tại sao đảng phái
được hình thành; nêu ra sự phát triển và biến đổi của hệ thống đảng phái…
Cuốn “Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ” (mô hình tổ chức và hoạt
động) do GS.TS. Nguyễn Văn Huyên chủ biên (NXB Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2007). Tác giả đã tập trung nghiên cứu về quá trình hình thành, mô hình
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ. Đánh giá ưu,
nhược điểm, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Anh, Pháp,
Mỹ. Đặc biệt, tác giả đã phân tích và nêu ra những giá trị tham khảo cho việc
đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
“Một số vấn đề về Đảng cầm quyền và đảng đối lập trong đời sống
chính trị Hoa Kỳ” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh (NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2012). Trong tác phẩm này, tác giả đã giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ
về các vấn đề của đảng cầm quyền và đảng đối lập trong đời sống chính trị
Hoa Kỳ. Đặc biệt, tác giả đã có những đánh giá phù hợp về đảng cầm quyền
và đảng đối lập, từ đó nhận định về tính bền vững của hệ thống hai đảng chủ
yếu thay nhau cầm quyền tại Hoa Kỳ.
Ngoài ra các bài viết: “Tìm hiểu vai trò và phương thức lãnh đạo của
Đảng cầm quyền ở Mỹ” (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 11/2007, tr. 3-19, số
12/2007, tr. 3-17) và bài viết“Chính sách và vai trò của Mỹ ở khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương” (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1/2005, tr. 3-11) của tác
giả Nguyễn Thiết Sơn; “Chính sách đối ngoại Mỹ trong những năm cuối
nhiệm kỳ của Tổng thống Geogre W. Bush” (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số
2/2007, tr. 21-32) của Nguyễn Thái Yên Hương; bài viết “Sự hình thành của
hệ thống lưỡng đảng trong nền chính trị Hoa Kỳ” của tác giả Lê Lan Anh

(Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, tháng 8/2005) và bài viết của nhiều tác giả khác
đăng trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế với các nội
dung chủ yếu tập trung vào phân tích hoạt động, việc điều chỉnh chiến lược,
chính sách của nước Mỹ dưới chính quyền Tổng thống G. Bush và Tổng
thống B. Obama.
4


Những công trình trên đây đã trình bày sâu sắc và khá toàn diện về đảng
phái ở Mỹ, cho chúng ta thấy được những nét cơ bản của quá trình hình thành,
phát triển, vai trò và tác động của các đảng chính trị Mỹ trong đời sống xã hội
Mỹ. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều vấn đề cần được lý giải và nghiên cứu cụ thể
hơn, cập nhật hơn về hệ thống đảng phái ở Mỹ, nhằm làm sáng tỏ hơn bản chất,
vai trò, ý nghĩa của các đảng chính trị trong đời sống xã hội Mỹ hiện nay.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài Luận văn có mục đích nghiên cứu là so sánh hoạt động của Đảng
Cộng hòa và Đảng Dân chủ ở Mỹ từ 2001 đến nay trong một số lĩnh vực như:
bầu cử, kinh tế xã hội, an ninh quân sự, cuộc chiến chống khủng bố và chính
sách “xoay trục” sang Châu Á – Thái Bình Dương dưới thời Tổng thống Bush
và Tổng thống Obama. Từ đó tìm ra sự giống và khác nhau trong mô hình
hoạt động của hai đảng trong hệ thống chính trị Mỹ.
Để đạt được mục đích đó, Luận văn có nhiệm vụ:
-

Nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ khái niệm, bộ phận cấu thành của hệ

thống chính trị, hệ thống đảng phái chính trị trong hệ thống chính trị Mỹ.

-

Nghiên cứu các khái niệm về đảng chính trị, đảng cầm quyền; quá trình

hình thành và các giai đoạn phát triển của đảng chính trị ở Mỹ cho đến nay.
-

Trọng tâm nghiên cứu là về hoạt động của hai đảng lớn: Đảng Dân

chủ và Đảng Cộng hòa trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay, dưới thời hai
Tổng thống George Walker Bush của Đảng Cộng hòa và Tổng thống Barack
Obama của Đảng Dân chủ.
-

Đưa ra một số nhận xét về hoạt động của Đảng Cộng hòa và Đảng

Dân chủ để hiểu rõ hơn bản chất và vai trò của hai đảng đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Nghiên cứu, so sánh hoạt động của Đảng Cộng hòa và Đảng
Dân chủ trong hệ thống chính trị Mỹ từ 2001 đến nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến hoạt động của hai đảng lớn tại Mỹ từ năm 2001 đến nay (Mốc thời
gian hiện tại là đến năm 2015).
5


5.

Phƣơng pháp nghiên cứu


Trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử được áp dụng trong đề tài luận văn, đề tài sử dụng
các phương pháp nghiên cứu của khoa học chính trị, phương pháp so sánh,
phương pháp nghiên cứu lịch sử, các phương pháp thu thập tài liệu, phân tích
và tổng hợp. Lấy phương pháp so sánh làm phương pháp nghiên cứu chính
của Luận văn.
6.
-

Dự kiến đóng góp của đề tài
So sánh hoạt động của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa từ năm 2001

đến nay, trong hoạt động bầu cử, kinh tế xã hội, an ninh quân sự, cuộc chiến
chống chủ nghĩa khủng bố và sự điều chỉnh chính sách hướng về Châu
Á

– Thái Bình Dương dưới thời Tổng thống George Wakler Bush (2001-

2009) và Tổng thống Barack Obama (2009 – 2016), nhằm hiểu rõ hơn về
quan điểm, chính sách điều hành chính quyền của Tổng thống G. Bush và
Tổng thống B. Obama.
-

Đề tài nêu rõ quá trình hình thành, phát triển hệ thống lưỡng đảng

trong hệ thống chính trị Mỹ và các giai đoạn cầm quyền của Đảng Dân chủ và
Đảng Cộng hòa. Từ đó, nêu ra sự khác biệt trong hoạt động của hai đảng từ
năm 2001 đến nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội

dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về đảng phái trong hệ thống chính trị Mỹ
Chương 2: Hoạt động của Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa từ năm
2001 đến nay
Chương 3: Một số nhận xét về hoạt động của Đảng Dân chủ và Đảng
Cộng hòa

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẢNG PHÁI TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỸ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Hệ thống chính trị Mỹ
Năm 1768, cuộc đấu tranh giành độc lập của Mỹ dưới sự lãnh đạo của
George Washington bắt đầu. Năm 1776, Đại hội Lục địa tại Philadenphia đã
thông qua bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, tuyên bố thành lập nhà nước Liên
bang gồm 13 bang đầu tiên. Vào giai đoạn này, cơ cấu liên bang còn rất lỏng
lẻo, chỉ là một hợp bang, hay một liên minh hữu nghị giữa các bang được
thành lập. Trung tâm của liên minh này là Quốc hội một viện, được gọi là Đại
hội hợp bang. Mỗi bang có một phiếu, không phụ thuộc vào quy mô của bang.
Các hoạt động quan trọng đều phải cần đến sự đồng thuận của ít nhất 9 bang
và đối với các nội dung trong điều khoản liên bang phải do cả 13 bang đồng ý
[15, 227]. Hợp bang không có cơ quan hành pháp và hệ thống tòa án, Quốc
hội không có khả năng đánh thuế, mà chỉ được yêu cầu các bang hỗ trợ ngân
quỹ. Mỗi bang vẫn giữ chủ quyền, tự do và độc lập. Quốc hội cũng không có
quyền hạn trực tiếp nào đối với các công dân.
Đứng trước những vấn đề đó, mùa hè năm 1787, một Hội nghị lập hiến
được triệu tập với sự tham dự của các đại biểu của 13 bang để soạn thảo Hiến
pháp mới cho nước Mỹ, đến tháng 6 – 1788, sau khi đã có tối thiểu 9 chữ ký,

Hiến pháp mới chính thức có hiệu lực. Đây cũng là thời điểm chính thức đánh
dấu sự ra đời của hệ thống chính trị Mỹ.
Hệ thống chính trị Mỹ hiện nay gồm hai bộ phận cấu thành chính là thể
chế và thiết chế. Thể chế gồm các loại định chế như: Hiến pháp, pháp luật và
cá quy định hành chính trong đó Hiến pháp là định chế quan trọng nhất. Hiến
pháp có vị trí quan trọng số một trong các loại hình định chế vì nó là văn bản
pháp lý chứa đựng những thỏa thuận chung nhất giữa các lực lượng chính trị,
những thỏa thuận này được coi như những nguyên tắc để xây dựng lên toàn
7


bộ hệ thống chính trị Liên bang Mỹ. Thiết chế gồm hai bộ phận: thiết chế
chính thức, đó là bộ máy công quyền và thiết chế phi chính thức, đó là các
đảng phái chính trị, các nhóm lợi ích, các phong trào chính trị…
Theo Hiến pháp, Nhà nước Liên bang Hoa kỳ gồm 3 bộ phận: lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Mỗi bộ phận có chức năng và quyền hạn độc lập với
nhau. Hệ thống chính trị của Mỹ hiện nay có nhiều điểm khác biệt so với thời
kỳ mới hình thành nước Mỹ, tuy nhiên, những nguyên tắc cơ bản, những bộ
phận cấu thành chủ yếu được hình thành từ khi lập nước vẫn còn tồn tại cho
tới ngày nay.


Ngành lập pháp

Trong hệ thống chính trị Mỹ, ngành lập pháp có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc xây dựng thể chế để quản lý xã hội và kiềm chế - đối trọng
với các thiết chế khác trong hệ thống chính trị. Theo quy định của Hiến pháp
Mỹ, Quốc hội đóng vai trò là trung tâm của hệ thống chính trị, có những
quyền lực rất lớn, như quyền làm ra luật cho toàn quốc, quyền sửa đổi điều
luật, giám sát hoạt động của bộ máy hành pháp, tư pháp và các tổ chức chính

trị khác. Quốc hội Mỹ là một thể chế lưỡng viện, gồm hai nhánh: Thượng viện
và Hạ viện.
+

Thượng viện có quy chế làm việc tự do hơn so với Hạ viện. Quy mô của

Quốc hội Mỹ phát triển theo quy mô phát triển của đất nước. Với quy chế mỗi
bang chỉ có hai thượng nghị sĩ, Quốc hội đầu tiên của Mỹ chỉ có 26 thành viên.
Khi có một bang mới, Thượng viện sẽ tăng thêm 2 thành viên và vì vậy, Thượng
viện Mỹ hiện nay có 100 thượng nghị sĩ được bầu từ 50 bang khác nhau.

Ứng cử viên Thượng viện phải từ 30 tuổi trở lên, là công dân Mỹ ít nhất
9 năm và là người cư trú tại chính bang mà họ đại diện. Các khu hành chính
trực thuộc không có đại diện tại Thượng viện. Các Thượng nghị sĩ có nhiệm
kỳ 6 năm và được bầu lại bởi cử tri các bang. Cứ hai năm một lần, Thượng
viện tổ chức bầu cử lại 1/3 số thượng nghị sĩ. Về mặt pháp lý, Phó
8


Tổng thống đồng thời là Chủ tịch Thượng viện. Song trên thực tế, điều hành
công việc hàng ngày của Thượng viện là thủ lĩnh phe đa số trong Thượng
viện. Phó Tổng thống chỉ bỏ phiếu khi cần thiết để tránh bế tắc, trong trường
hợp Thượng viện rơi vào tình huống 50/50 về một vấn đề nào đó [57].
+

Hạ viện: So với Thượng viện, Hạ viện có quy mô lớn hơn. Quốc hội

đầu tiên của Mỹ có 67 hạ nghị sĩ. Do dân số tăng lên, quy mô Hạ viện cũng
tăng theo. Năm 1992, Quốc hội đã thông qua một đạo luật quy định số lượng
thành viên cố định của Hạ viện là 435 hạ nghị sĩ [15, 246]. Khác với Thượng

viện, ứng cử viên Hạ viện phải là công dân Mỹ từ 25 tuổi trở lên, đã có 7 năm
mang Quốc tịch Mỹ và là công dân của bang mà họ đại diện trước ngày bầu
cử. Hạ viện có nhiệm kỳ hai năm và các nghị sĩ được bầu lên từ các đơn vị
bầu cử của bang. Số hạ nghị sĩ đại diện cho bang phụ thuộc vào dân số của
bang. Mỗi bang có quyền có tối thiểu một hạ nghị sĩ. Việc phân bổ số hạ nghị
sĩ cho các bang được tiến hành 10 năm một lần dựa trên kết quả điều tra dân
số. Đứng đầu Hạ viện là Chủ tịch Hạ viện. Chủ tịch Hạ viện có thể là người
có thế lực lớn thứ hai trong nền chính trị Mỹ sau Tổng thống. Với tư cách là
người đứng đầu phe đa số, Chủ tịch Hạ viện có vai trò thúc đẩy, hoặc loại bỏ
một số dự luật không có lợi cho đảng của mình.
Cả hai viện đều có quyền quyết định chiến tranh, kiểm soát các lực
lượng vũ trang, đánh thuế, vay tiền, phát hành tiền, điều tiết thương mại, và
ban hành luật cần thiết cho hoạt động của chính quyền. Trong đó, Thượng
viện có đặc quyền cố vấn, thông qua các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước
ngoài và các chức vụ do Tổng thống bổ nhiệm. Ví dụ, Hiệp định Thương mại
Việt Nam – Hoa Kỳ được Chính phủ hai nước ký tháng 7 năm 2000 và đến
tháng 11 năm 2001 mới được Thượng viện Hoa Kỳ thông qua và đến
10/12/2001 mới có hiệu lực thi hành.
Cả Thượng viện và Hạ viện đều có những Uỷ ban riêng của mình. Tuy
nhiên, giữa Thượng viện và Hạ viện có một số uỷ ban phối hợp để xử lý một
9


số công việc chung. Cả Thượng viện và Hạ viện đều có quyền đưa ra văn bản
pháp lý về bất cứ vấn đề gì, trừ các dự luật về thu ngân sách là phải bắt nguồn
từ Hạ viện. Các bang lớn bề ngoài dường như có nhiều ảnh hưởng đối với
công quỹ hơn so với bang nhỏ. Thượng viện có thể không tán thành một dự
luật về thu ngân sách của Hạ viện, hoặc bất kỳ một dự Luật nào liên quan đến
vấn đề này. Trong trường hợp đó, một tiểu ban tham vấn sẽ được thành lập,
gồm các thành viên của cả hai viện, để đi tới một thỏa hiệp có thể chấp nhận

đối với cả hai bên, trước khi dự luật trở thành luật.
Thượng viện có quyền xác nhận sự bổ nhiệm của Tổng thống đối với
các quan chức cấp cao và các đại sứ của chính quyền liên bang, cũng như phê
chuẩn tất cả các hiệp ước với 2/3 số phiếu thuận. Khi đó, hành động không
ủng hộ của Thượng viện sẽ vô hiệu hóa hành động của ngành hành pháp.
Hạ viện có toàn quyền đưa ra lời buộc tội về hành vi bất chính có thể
dẫn tới việc xét xử ở tòa án. Khi ấy, Thượng viện cũng có toàn quyền kiểm tra
những trường hợp luận tội và xác minh xem các quan chức là có tội, hay vô
tội. Các quan chức liên bang sẽ buộc phải rời khỏi cơ quan nhà nước khi bị
phát hiện là phạm tội.
+

Quyền hạn của Quốc hội

Quốc hội là nơi diễn ra các sự thỏa hiệp của các đảng chính trị, do
chính trị quyết định, hay nói một cách khác, hoạt động của nó luôn phụ thuộc
vào từng cơ quan, lực lượng chính trị, mà hai Đảng Dân chủ và Đảng Cộng
hòa đóng vai trò quyết định. Hiến pháp Mỹ trao cho Quốc hội quyền hành rất
lớn, đó là quyền lập pháp, quyền sửa đổi hiến pháp và pháp luật. Điều I, mục
8 của Hiến pháp Hoa Kỳ đã quy định quyền hạn rộng lớn của Quốc hội như
sau [55]:
+

Đánh thuế và thu thuế; vay tiền cho công quỹ; thiết lập các luật lệ và các

quy chế điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các bang và với nước ngoài; thiết
lập các quy định thống nhất cho việc nhập tịch của công dân nước ngoài; thiết
lập hệ thống tòa án liên bang; tuyên bố chiến tranh, và một số quyền lực khác…

10



Ngoài ra, hiến pháp cũng có những điều cấm cụ thể đối với những hoạt
động nhất định của Quốc hội. Quốc hội không được phép [55]:
+

Thông qua các luật trong đó lên án ai đó về sự phạm tội, hay hành vi

phạm pháp, mà không thông qua tòa án; Đánh thuế trực thu lên công dân, trừ
trường hợp dựa trên cơ sở một cuộc điều tra dân số đã được tiến hành; Đánh
thuế hàng xuất khẩu từ bất cứ bang nào và nhiều điều cấm khác…


Ngành hành pháp

Vào thời tất cả các quốc gia lớn ở Châu Âu đều có chế độ quân chủ cha
truyền con nối, thì ý tưởng về một vị Tổng thống với nhiệm kỳ có giới hạn tự
nó đã mang tính cách mạng. Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua năm 1787 đã
trao quyền hành pháp cho Tổng thống và đến tận ngày nay điều đó vẫn tiếp
tục tồn tại. Hiến pháp còn quy định việc bầu ra một Phó Tổng thống, người sẽ
kế nhiệm Tổng thống trong trường hợp Tổng thống qua đời, từ chức, hay
không có đủ năng lực.
Ngành hành pháp là một trong ba thiết chế chính thức trong hệ thống
chính trị của Mỹ. Nó có vai trò to lớn, đặc biệt ngày càng nổi bật trong đời
sống chính trị của Mỹ. Theo Điều 2, Khoản 1 Hiến pháp Hoa Kỳ “Quyền
hành pháp sẽ giao cho một vị Tổng thống Hợp chủng Quốc Châu Mỹ”. Tổng
thống có chức năng thực thi pháp luật, kiềm chế hai nhánh quyền lực khác
trong chính quyền và tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Như vậy,
ngành hành pháp được quyền ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện luật và
những phương tiện buộc các đối tượng bị điều chỉnh của luật phải thực thi,

được quyền có tiếng nói quyết định trong những vấn đề quan trọng cùng hai
nhánh quyền lực hữu quan, được quyền hoạch định chính sách.
Hiến pháp đòi hỏi Tổng thống phải là công dân Mỹ, sinh ra trên đất Mỹ
và có tuổi đời ít nhất là 35 tuổi. Các ứng cử viên Tổng thống được các chính
đảng bầu chọn nhiều tháng trước cuộc bầu cử Tổng thống, được tổ chức 4
năm một lần. Điều sửa đổi Hiến pháp thứ 22, được phê chuẩn năm 1951, đã
11


giới hạn Tổng thống chỉ được giữ chức hai nhiệm kỳ [55]. Nhiệm vụ của
Tổng thống bao gồm việc thảo luận các hiệp ước quốc tế, ký hoặc phủ quyết
các dự luật, bổ nhiệm các thành viên nội các, thẩm phán, đại sứ, cũng như ân
xá những ai vi phạm luật liên bang. Tất cả các dự luật liên bang được Quốc
hội liên bang thông qua, phải được Tổng thống ký mới trở thành luật. Hiến
pháp cho phép Tổng thống quyền phủ quyết dự luật đã được Quốc hội liên
bang thông qua. Vì quyền lực lớn như vậy, nên Tổng thống Mỹ thường được
ví như là người có quyền lực lớn nhất trên thế giới. Tuy nhiên, những quyền
hạn lớn của Tổng thống cũng bị giới hạn, vì có sự kiểm tra và giám sát của
các cơ quan khác được ghi trong Hiến pháp. Nhưng trong thời gian gần đây,
sức mạnh của báo chí và tầm quan trọng của chính sách ngoại giao đã làm
tăng vị thế của Tổng thống.
Ngoài Tổng thống, bộ máy hành pháp Hoa Kỳ còn có Phó Tổng thống, 15
bộ và trên 60 Ủy ban độc lập. Các bộ trưởng do Tổng thống bổ nhiệm và phải
được Thượng viện thông qua. Phó Tổng thống là Chủ tịch Thượng viện, giám sát
các vấn đề thủ tục và có quyền biểu quyết trong trường hợp phiếu của các
thượng nghị sỹ rơi vào thế cân bằng. Phó tổng thống cũng chủ trì phiên họp
chung của Quốc hội khi Quốc hội chính thức đếm phiếu của cuộc bầu cử Tổng
thống. Vị trí của Phó Tổng thống đã được củng cố trong thế kỷ 20, khi theo tục lệ
Phó Tổng thống được mời tham dự các cuộc họp của nội các. Và hơn nữa vào
năm 1949, Quốc hội đã cho phép Phó Tổng thống trở thành một trong bốn thành

viên chính thức của Hội đồng An ninh Quốc gia [68].

Trong hệ thống hành pháp liên bang còn có Văn phòng Nhà trắng, Văn
phòng quản trị và tài chính, các hội đồng cố vấn. Các hội đồng cố vấn đóng
vai trò quan trọng trong hoạch định chính sách của Tổng thống. Đáng chú ý
nhất là Hội đồng an ninh quốc gia, Hội đồng cố vấn kinh tế, và Hội đồng
chính sách phát triển.
Ngành hành pháp Mỹ có hệ thống hành pháp liên bang và hệ thống
hành pháp các bang. Cơ quan hành pháp bang do Thống đốc bang đứng đầu.
12




các bang, thẩm quyền của Thống đốc là khác nhau, những Thống đốc bang

có nhiệm kỳ ngắn (dưới 4 năm) thường phải chia sẻ quyền hành với một số
quan chức hành pháp bang khác như Phó Thống đốc bang, Bộ trưởng Tài
chính, Bộ trưởng Tư pháp. Thống đốc bang kiểm soát cảnh sát và quân đội.
Trong lĩnh vực lập pháp, Thống đốc bang chịu trách nhiệm thi hành một phần,
chứ không phải tất cả luật pháp. Khác với Tổng thống Hoa Kỳ, Thống đốc
bang thường có cấp dưới là các viên chức hành chính do dân bầu ra. Những
người này có thể độc lập thực hiện công việc của mình, mà không cần đến sự
chỉ đạo của Thống đốc. Ngoài ra, Thống đốc còn có thể vươn lên chức vụ cao
hơn. Khi một Thượng nghi sĩ chết, vị Thống đốc bang này có thể từ chức và
để vị Phó Thống đốc bang bổ nhiệm mình vào Thượng viện.
 Ngành tƣ pháp

Là ngành thứ ba trong chính quyền liên bang, ngành tư pháp bao gồm
một hệ thống tòa án rải trên khắp đất nước, đứng đầu là Tòa án tối cao Hợp

chúng quốc Hoa Kỳ. Ngành tư pháp có chức năng bảo vệ hiến pháp và pháp
luật, thông qua hoạt động xét xử mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật;
giải thích hiến pháp và luật phục vụ cho quản lý xã hội; kiềm chế các thiết chế
khác trong hệ thống chính trị [15, 216].
Hệ thống tòa án Mỹ được Quốc hội thành lập sau khi thông qua đạo
luật về tư pháp năm 1789 và những đạo luật sau đó. Hệ thống tòa án được
chia thành những cấp bậc từ thấp đến cao. Tuy nhiên, chế độ liên bang đã dẫn
đến sự tồn tại song song hai hệ thống tòa án: Tòa án liên bang và tòa án các
bang. Hệ thống tòa án liên bang được điều chỉnh bởi pháp luật liên bang và hệ
thống tòa án các bang chịu sự điều chỉnh của pháp luật các bang. Tuy nhiên,
hai hệ thống này không hoàn toàn tách biệt nhau, bởi theo quy định, hiến pháp
và các đạo luật của các bang phải phù hợp với luật pháp liên bang.
+

Hệ thống tòa án liên bang đã tồn tại từ trước khi Hiến pháp được dự

thảo. Hiến pháp trao cho tòa án liên bang một quyền lực hạn chế. Điều III của
13


Hiến pháp nêu rõ cơ sở của hệ thống tòa án liên bang là: "Quyền lực tư pháp của
Hợp chúng quốc được trao cho Tòa án Tối cao và các tòa án cấp dưới mà Quốc
hội có thể thiết lập trong một số trường hợp” [56]. Hệ thống tòa án liên bang
gồm ba cấp xét xử: tòa sơ thẩm là các tòa án khu vực liên bang; tòa phúc thẩm là
các tòa phúc thẩm lưu động liên bang và Tòa án tối cao liên bang.

+ Hệ thống tòa án các bang
Mỗi bang đều có một hệ thống thống tòa án riêng. Hệ thống toà án tại
mỗi bang được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến pháp
và luật của bang đó. Hệ thống tòa án ở mỗi bang đều có 3 cấp xét xử: Tòa án

tối cao bang, tòa án phúc thẩm và tòa án sơ thẩm.
Mối quan hệ giữa hệ thống tòa án liên bang và hệ thống tòa án bang là
mối quan hệ giữa hệ thống pháp luật liên bang và hệ thống pháp luật bang.
Mối quan hệ này thể hiện sự phân quyền giữa liên bang và bang và tính tối
cao của pháp luật Liên bang.
-

Các nhóm lợi ích



Mỹ, ngoài Hiến pháp, hệ thống đảng chính trị, tổ chức bộ máy Nhà

nước thì các nhóm lợi ích (nhóm áp lực) cũng là những bộ phận của hệ thống
chính trị, có vai trò rất quan trọng, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của hệ
thống chính trị, tác động rất lớn đến nền chính trị nước Mỹ. Các nhóm lợi ích
được coi là những quyền lực đứng đằng sau giật dây hệ thống chính trị, để
phục vụ cho những nhu cầu của họ. Hiến pháp Mỹ không đề cập nhiều đến
các nhóm lợi ích. Tuy nhiên, người soạn thảo Hiến pháp 1787 đã thừa nhận
nhiều nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội, nhưng lại không công nhận vai trò
của chúng trong việc điều hành đất nước.
Các nhóm lợi ích tạo cho người Mỹ một phương tiện để bày tỏ quan
điểm của họ đối với các nhà hoạch định chính sách. Trong khi các đảng chính
trị cạnh tranh với nhau để giành các vị trí quyền lực trong bộ máy công quyền,
thì các nhóm lợi ích chỉ cố gắng gây ảnh hưởng đến kết quả bầu cử.
14


Nguồn tài chính của các nhóm lợi ích là những khoản đóng góp hay các khoản
lệ phí thành viên. Các thành viên của nhóm lợi ích liên lạc với nhau chủ yếu

qua các bản tin, thư từ, hội thảo.
Có nhiều dạng nhóm lợi ích khác nhau: nhóm lợi ích kinh doanh, nhóm
công đoàn, nhóm nghề nghiệp và nhóm lợi ích công. Hoạt động của các nhóm
lợi ích chủ yếu là vận động hành lang và tham gia vào hoạt động bầu cử.
Là một quốc gia ra đời muộn dựa trên những bài học kinh nghiệm từ
các mô hình chính trị đã có trong lịch sử, cũng như từ những kinh nghiệm
thực tế của các bang đầu tiên, các nhà lập quốc Mỹ đã thiết kế cho mình một
mô hình chính trị riêng. Về cơ bản, hệ thống chính trị Mỹ hiện nay vẫn giữ
nguyên những nguyên tắc đã được định hình từ thời lập quốc và với cách thức
tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để, hình
thành cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy
công quyền. Bộ máy công quyền được phân quyền, đồng thời có nhiều quy
định để kiềm chế lẫn nhau, nên không có nhánh quyền lực nào được toàn
quyền ở lĩnh vực nào. Điều này đã hạn chế một cách đáng kể khả năng lạm
quyền của các cơ quan công quyền.
1.1.2. Đảng chính trị
Đảng là tập hợp một nhóm người có chung mục đích, lý tưởng. Người
ta gọi đảng phái có nghĩa là cơ cấu chính trị trong đó nhiều đảng tranh giành
quyền lãnh đạo chính quyền một cách hòa bình với nhau thông qua bầu cử.
Ngày nay, trên thế giới không có quốc gia nào lại không có đảng chính
trị. Hình thức tiền thân của đảng chính trị là các nhóm chính trị, các câu lạc bộ
chính trị… Sự ra đời và phát triển của các đảng chính trị có liên quan chặt chẽ
với quyền tồn tại của các nhóm khác nhau trong xã hội, quyền các nhóm được
kiểm soát, chi phối lãnh đạo và hạn chế quyền của đảng cầm quyền. Có thể
thấy, các đảng phái là sản phẩm của một logic chính trị, xuất phát từ những
hành động mang tính chiến lược của các chính trị gia và các công dân
15


khi theo đuổi những mục tiêu chính trị của họ trong khuôn khổ những thể chế

do Hiến pháp tạo ra. Tùy theo số lượng đảng chính trị lớn ở trong một nước,
người ta chia thành các loại lưỡng đảng, đa đảng…
Đảng chính trị với đúng nghĩa của nó chỉ bắt đầu xuất hiện vào những
năm cuối thế kỷ XVIII (1791), sau khi Nhà nước Mỹ được thành lập dưới chính
quyền Tổng thống Washington. Năm 1800, nước Mỹ trở thành quốc gia đầu tiên
phát triển các chính đảng non trẻ trên toàn quốc nhằm thực hiện việc chuyển giao
quyền hành pháp từ đảng này sang đảng khác thông qua bầu cử. Theo một khía
cạnh nào đó, đảng phái đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của bộ máy
thể chế trong nền chính trị Mỹ. Sự phát triển và mở rộng các đảng phái chính trị
sau đó gắn kết chặt chẽ với việc mở rộng quyền bầu cử.

Các học giả trên thế giới đã đề xuất rất nhiều định nghĩa về đảng chính
trị. Hai trong số những định nghĩa nổi bật nhất hoàn toàn trái ngược nhau là
của Edmund Burke và Anthony Downs. Edmund Burke, một chính trị gia và
là nhà khoa học chính trị của nước Anh thể kỷ XVIII định nghĩa: “Đảng phái
là một tổ chức của những người tập hợp với nhau nhằm thúc đẩy lợi ích quốc
gia, thông qua những nỗ lực chung của họ, dựa trên một số nguyên tắc cụ thể
được tất cả nhất trí” [36, 495]. Anthony Downs, trong nghiên cứu kinh điển
thời hiện đại của ông với nhan đề “Một lý thuyết kinh tế về nền dân chủ” (An
Economic theory of Democracy) đã định nghĩa đảng phái là: “Một nhóm
người tìm cách kiểm soát bộ máy chính quyền bằng việc giành lấy những
chức vụ trong các cuộc bầu cử được tổ chức theo thời hạn” [36, 495].
Theo từ điển Bách khoa thư Việt Nam, Đảng chính trị là bộ phận tích
cực nhất và có tổ chức của một giai cấp, làm công cụ đấu tranh cho lợi ích của
giai cấp đó. Các đảng chính trị xuất hiên ngay từ những giai đoạn phát triển
cao của xã hội có giai cấp, gắn liền với sự khác nhau về lợi ích của các giai
cấp và của các tập đoàn hợp thành giai cấp.
Theo các học giả Mỹ, một tổ chức chính trị được gọi là đảng phái
thường có những dấu hiệu sau [12, 11-12]:
16



1.

Có biểu tượng và có tên đảng để hoạt động và thể hiện trên hòm phiếu.

2.

Phải gây được một ấn tượng tâm lý đáng kể với cử tri để khi hành

động, họ tự hào nhận rằng “tôi là người Dân chủ” hay “tôi là người Cộng hòa”.
3.

Phải tổ chức được hội nghị toàn quốc theo định kỳ để lựa chọn

người ra ứng cử vào chức vụ tổng thống.
4.

Có một văn phòng họp riêng ở cơ quan lập pháp để các đại biểu

Quốc hội có thể trao đổi với đại diện của đảng.
5.

Có một trụ sở quốc gia với một Chủ tịch và những người cộng sự.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là dấu hiệu bên ngoài, còn dấu hiệu mang tính
cốt lõi của một đảng chính trị ở Mỹ “là một tổ chức cùng chung lý tưởng, tích
cực tìm cách kiểm soát bộ máy nhà nước thông qua tuyển cử”. Ở đây, điều hết
sức căn bản về thực chất tồn tại của “tổ chức” này là lợi ích. Bởi lẽ thông qua
sự kiểm soát bộ máy nhà nước lợi ích của đảng cầm quyền được thực hiện ở

mức cao nhất.
Với những quan điểm như trên, đảng chính trị ở Mỹ được định nghĩa
như sau: “Đảng chính trị là một nhóm các cá nhân, được tổ chức lại nhằm
giành chiến thắng trong cuộc bầu cử để điều hành chính phủ và quyết định
chính sách công cộng.” [12, 14]
Dựa trên những quan điểm và cách giải thích về đảng chính trị như
trên, tôi cho rằng, đảng chính trị là một tổ chức chính trị gắn chặt với hoạt
động chủ yếu là giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Các đảng thông
qua việc thực hiện những lợi ích chung của nhân dân, để đạt được lợi ích của
phe nhóm và giai cấp mà đảng chính trị đại diện.
Chính vì vậy, hoạt động của các đảng chính trị ngày nay luôn gắn với
cuộc đấu tranh giành chính quyền, để từ đó hiện thực hóa lợi ích của phe
nhóm, giai cấp. Các đảng chính trị luôn mong muốn trở thành đảng cầm
quyền, đứng ra thành lập chính phủ để thể hiện ý chí và lợi ích của tầng lớp,
giai cấp mình đại diện. Hay trở thành đảng cầm quyền chính là nhiệm vụ chủ
yếu làm cơ sở cho việc thực hiện các nhiệm vụ khác của đảng chính trị.
17


×