Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

Tự đánh giá của sinh viên học viện cảnh sát nhân dân về một số phẩm chất nhân cách nghề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.43 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------

TRẦN THỊ LAN ANH

TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN
CẢNH SÁT NHÂN DÂN VỀ MỘT SỐ PHẨM
CHẤT NHÂN CÁCH NGHỀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------

TRẦN THỊ LAN ANH

TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN
CẢNH SÁT NHÂN DÂN VỀ MỘT SỐ PHẨM
CHẤT NHÂN CÁCH NGHỀ

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÃ THỊ THU THỦY

HÀ NỘI – 2014




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS. TS Lã Thị Thu Thuỷ
Tôi cũng xin cam đoan đề tài này không trùng với bất cứ đề tài luận văn nào
đã được công bố ở Việt Nam. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài.

Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn

Trần Thị Lan Anh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất
đến PGS. TS Lã Thị Thu Thủy, người đã hết lòng giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các quý thầy, cô trong trường Học viện
Cảnh sát nhân dân đã tạo điều kiện, nhiệt tình giúp đỡ tôi, đặc biệt xin cảm ơn các
thầy cô trong Khoa Tâm lý học, trường Đại học Khoa học xã hội nhân văn đã cung
cấp cho tôi nền tảng kiến thức quý báu và sự giúp đỡ tận tình để tôi có thể hoàn
thành luận văn của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn đã tận tình
chỉ bảo hướng dẫn, đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho luận văn được hoàn chỉnh.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các bạn sinh viên trường Học viện Cảnh sát
nhân dân đã giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra, thu thập số liệu phục vụ luận văn

Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, đồng nghiệp cùng bạn
bè đã tạo điều kiện giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học cũng như thực
hiện luận văn.

Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2014
Học viên

Trần Thị Lan Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 6
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN VỀ CÁC
PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH NGHỀ.................................................................. 10
1.1.Tổng quan một số công trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu..........10
1.1.1.Một số nghiên cứu ở nước ngoài............................................................. 10
1.1.2.Các công trình nghiên cứu ở trong nước................................................. 13
1.2.Một số vấn đề lý luận chung....................................................................... 14
1.2.1.Tự đánh giá............................................................................................. 14
1.2.2.Phẩm chất nhân cách.............................................................................. 15
1.2.3. Sinh viên Học viện Cảnh sát nhân dân và một số đặc điểm tâm lý.........21
1.3Một số vấn đề lý luận về tự đánh giá của sinh viên Học viện Cảnh sát về
những phẩm chất nhân cách nghề.................................................................... 22
1.3.1 Khái niệm tự đánh giá của sinh viên Học viện Cảnh sát về những phẩm
chất nhân cách nghề........................................................................................ 22
1.3.2. Một số phẩm chất nhân cách nghề của sinh viên Học viện Cảnh sát.....22
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá về những phẩm chất nhân cách
nghề của sinh viên............................................................................................ 27
Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..........................31
2.1. Vài nét về Học viện Cảnh sát nhân dân.................................................... 31

2.2. Tổ chức nghiên cứu..................................................................................... 33
2.2.1. Nghiên cứu lý luận................................................................................. 33
2.2.2. Nghiên cứu thực tiễn.............................................................................. 33
2.3. Các phƣơng pháp nghiên cứu................................................................... 35
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu........................................................... 35
2.3.2. Phương pháp chuyên gia........................................................................ 35
2.3.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi..................................................... 35
2.3.4. Phương pháp phỏng vấn sâu.................................................................. 37
2.3.5. Phương pháp xử lý thông tin bằng thống kê toán học............................37
1


Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA
SINH VIÊN HỌC VIÊN CẢNH SÁT NHÂN DÂN VỀ MỘT SỐ PHẨM CHẤT

NHÂN CÁCH NGHỀ............................................................................................ 40
3.1. Thực trạng tự đánh giá của sinh viên Học viện Cảnh sát nhân dân về
một số phẩm chất nhân cách nghề.................................................................... 40
3.1.1. Đánh giá chung...................................................................................... 40
3.1.2. Tự đánh giá của sinh viên về các phẩm chất nhân cách cụ thể..............44
3.1.3. Sự khác biệt trong tự đánh giá về các phẩm chất nhân nghề ở các
nhóm sinh viên khác nhau................................................................................ 61
3.1.4. Lý do chọn trường và mong muốn khi ra trường của sinh viên..............66
3.2. Thực trạng các yếu tố ảnh hƣởng đến tự đánh giá của sinh viên Học viện

Cảnh sát về phẩm chất nhân cách nghề........................................................... 69
3.2.1. Các yếu tố chủ quan............................................................................... 69
3.2.2. Các yếu tố khách quan........................................................................... 74
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 82


PHỤ LỤC

2


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Mẫu nghiên cứu...................................................................................... 33
Bảng 2.2: Độ tin cậy của thang đo.......................................................................... 36
Bảng 3.1. Tự đánh giá của sinh viên về một số phẩm chất nhân cách nghề............40
Bảng 3.2. Đánh giá của sinh viên về sự cần thiết các phẩm chất nhân cách nghề...42
Bảng 3.3. Tự đánh giá của sinh viên về tính dũng cảm........................................... 44
Bảng 3.4. Tự đánh giá của sinh viên về tính trung thực.......................................... 46
Bảng 3.5. Tự đánh giá của sinh viên về tính đoàn kết............................................. 48
Bảng 3.6. Tự đánh giá của sinh viên về tính kỷ luật................................................ 50
Bảng 3.7. Tự đánh giá của sinh viên về tính năng động.......................................... 52
Bảng 3.8. Tự đánh giá của sinh viên về tính linh hoạt mềm dẻo.............................54
Bảng 3.9. Tự đánh giá của sinh viên về tính cụ thể của lý tưởng............................56
Bảng 3.10. Tự đánh giá của sinh viên về tính khiêm tốn......................................... 58
Bảng 3.11. Tự đánh giá của sinh viên về tính trách nhiệm...................................... 59
Bảng 3.12. Tự đánh giá của sinh viên về tính vị tha................................................ 60
Bảng 3.13. Sự khác biệt về giới tính khi tự đánh giá về một số phẩm chất nhân cách nghề . 62

Bảng 3.14. Sự khác biệt về học lực khi tự đánh giá về một số phẩm chất nhân cách nghề 63

Bảng 3.15. Sự khác biệt về chuyên ngành khi tự đánh giá về một số phẩm chất
nhân cách nghề........................................................................................................ 64
Bảng 3.16. Sự khác biệt về nghề nghiệp của bố mẹ khi tự đánh giá về một số phẩm
chất nhân cách nghề................................................................................................ 65
Bảng 3.17. Lý do sinh viên chọn trường Học viện Cảnh sát................................... 67

Bảng 3.18. Mong muốn sau khi ra trường của sinh viên......................................... 68
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của nhận thức nghề đến tự đánh giá các phẩm chất nhân
cách nghề của sinh viên........................................................................................... 70
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của hứng thú nghề đến tự đánh giá các phẩm chất nhân cách
nghề của sinh viên................................................................................................... 71
Bảng 3.21. Mối tương quan giữa niềm tin vào tương lai nghề và sự tự đánh giá các
phẩm chất nhân cách nghề....................................................................................... 72
3


Bảng 3.22. Mối tương quan giữa mức độ hài lòng với chuyên ngành đang theo học
và sự tự đánh giá các phẩm chất nhân cách nghề.................................................... 73
Bảng 3.22. Ảnh hưởng của môi trường học tập đến tự đánh giá các phẩm chất nhân
cách nghề................................................................................................................ 75
Bảng 3.23. Ảnh hưởng của gia đình đến tự đánh giá các phẩm chất nhân cách nghề
................................................................................................................................ 76
Bảng 3.24. Mối tương quan giữa tự đánh giá các phẩm chất nhân cách nghề với
nhóm yếu tố ảnh hưởng khách quan........................................................................ 77

4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ĐTB:

Điểm trung bình

ĐLC


Độ lệch chuẩn

TĐG

Tự đánh giá

CAND

Công an nhân dân

CSND

Cảnh sát nhân dân

CS

Cảnh sát

5


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại theo
nền kinh tế thị trường, đồng thời đang từng bước gia nhập vào nền kinh tế thế giới.
Mặt khác, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã đặt ra yêu cầu xã hội cần có một đội
ngũ nhân lực trí tuệ để hội nhập nền kinh tế quốc tế. Muốn đạt được mục tiêu đó

bước đầu của khâu đào tạo là cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng
được nhu cầu phát triển các mặt của xã hội.
Bên cạnh giáo dục gia đình và nhà trường, quá trình tự giáo dục và tự rèn
luyện bản thân của mỗi con người là điều cốt yếu nhất để trở thành người có ích cho
xã hội. Đó là việc mỗi cá nhân tiếp nhận những tri thức từ gia đình và xã hội, đồng
thời biến nó thành những quan điểm, lập trường của bản thân tác động trở lại xã hội.
Khi đã là một người trưởng thành họ phải biết tự phân tích, tự đánh giá vấn đề và xử
lý các vấn đề trong cuộc sống theo hướng tích cực. Tâm lý học hoạt động cho rằng,
việc cá nhân tự đối chiếu bản thân với chuẩn mực xã hội giúp cho họ nhận ra giá trị
của bản thân, từ đó cá nhân có những ứng xử phù hợp với những chuẩn mực đó,
chính là năng lực tự đánh giá bản thân.
Học viện Cảnh sát nhân dân là cơ quan đầu ngành đào tạo cán bộ, sĩ quan cho lực
lượng cảnh sát nhân dân. Mỗi năm có khoảng 1000 sinh viên cảnh sát tốt nghiệp, tham gia
công tác tại các đơn vị. Sinh viên Học viện Cảnh sát ngoài những đặc điểm chung của sinh
viên Việt Nam thì còn có những điểm riêng, mang đặc trưng của ngành. Với chức năng là
công cụ duy trì pháp luật và trật tự Nhà nước, người cảnh sát nhân dân có một vai trò quan
trọng trong xã hội. Việc tự đánh giá bản thân về những phẩm chất nhân cách phù hợp với
hoạt động nghề của những sinh viên này có ý nghĩa quan trọng đối với việc định hướng
trong công tác của mỗi cá nhân, do đó có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề xã hội khác.... Có
thể nói, nếu “cái Tôi” được nhận thức đúng đắn sẽ giúp cho thanh niên - sinh viên nói
chung và sinh viên trường Học viện Cảnh sát nhân dân nói riêng đánh giá chính xác thực
lực của mình để phấn đấu nhiều hơn nữa trong học tập cũng như trong cuộc sống …

Xuất phát từ đặc thù công tác của lực lượng cảnh sát nhân dân, một loại hình
nghề nghiệp đặc biệt với nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và thực thi
6


pháp luật, góp phần hoàn thiện nhân cách con người đòi hỏi người cảnh sát phải có
những phẩm chất nhân cách phù hợp với yêu cầu công việc, được xã hội chấp nhận.

Do vậy, việc nghiên cứu rèn luyện tự đánh giá về một số phẩm chất nhân
cách nghề của người cảnh sát nhân dân cho học viên trường cảnh sát là một việc
làm quan trọng, góp phần củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ cảnh sát nhân dân
nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Hơn nữa,
việc nghiên cứu sự đánh giá về phẩm chất nhân cách của người cảnh sát nhân dân
trên một nhóm khách thể chuẩn bị làm nghề - sinh viên học viện cảnh sát là điều rất
hữu ích.
Từ những lí do trên chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu việc tự đánh giá của
sinh viên Học viện cảnh sát nhân dân về những phẩm chất nhân cách phù hợp với hoạt
động nghề hiện nay là vấn đề cấp thiết không chỉ về mặt lí luận mà còn cả về thực tiễn,
đóng góp về lý luận giúp gia đình, nhà trường, các cơ quan chức năng có biện pháp
giáo dục phù hợp với lứa tuổi này, đồng thời giúp sinh viên tự đánh giá phù hợp và định
hướng đúng đắn trong việc tìm bản thân đi riêng vào cuộc sống. Xuất phát từ những lý
do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là: “Tự đánh giá của sinh viên Học viện
Cảnh sát nhân dân về một số phẩm chất nhân cách nghề”.

2.

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn mức độ tự đánh giá của sinh viên Học
viện Cảnh sát nhân dân về những phẩm chất nhân cách nghề và các yếu tố ảnh
hưởng đến chúng, đề xuất một số kiến nghị để tìm ra những người phù hợp, rèn
luyện để phù hợp với nghề cảnh sát.
3.

Đối tƣợng nghiên cứu

Biểu hiện của mức độ tự đánh giá của sinh viên Học viện Cảnh sát nhân dân
về một số phẩm chất nhân cách nghề.

4.

Nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Hệ thống một số lí luận về TĐG, TĐG của sinh viên Học viện cảnh sát nhân
dân và một số yếu tố ảnh hưởng đến TĐG của sinh viên Học viện cảnh sát nhân dân
về những phẩm chất nhân cách nghề.

7


4.2. Làm rõ thực trạng TĐG về những phẩm chất nhân cách nghề của sinh viên
Học viện Cảnh sát nhân dân và các yếu tố ảnh hưởng.
4.3. Đề xuất một số kiến nghị.
5. Khách thể nghiên cứu
Tổng số khách thể nghiên cứu bao gồm: 280 sinh viên, trong đó:

-

-

Khách thể tham gia khảo sát thử: 30 sinh viên

-

Khách thể tham gia khảo sát trên diện rộng: 250 sinh viên

Khách thể tham gia phỏng vấn sâu: 10 sinh viên (số sinh viên này nằm

trong số sinh viên khảo sát trên diện rộng).

6. Giới hạn nghiên cứu
-

Giới hạn về mặt nội dung: Đề tài nghiên cứu TĐG của sinh viên về 10

phẩm chất nhân cách phù hợp với hoạt động nghề cảnh sát: Tính kỷ luật, lòng dũng
cảm, tính trung thực, tính mềm dẻo linh hoạt, tính đoàn kết, tính cụ thể của lý tưởng,
tính năng động, tinh thần trách nhiệm, tính khiêm tốn và vị tha.
-

Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên sinh

viên năm thứ ba, thứ tư và năm cuối thuộc 4 nhóm ngành học: Kinh tế, Quản lý
hành chính, Môi trường, Kỹ thuận hình sự và Hình sự.
7. Giả thuyết khoa học
Phần lớn sinh viên Học viện Cảnh sát nhân dân TĐG khá cao bản thân mình
có những phẩm chất nhân cách phù hợp với hoạt động nghề như: Tính kỷ luật, lòng
dũng cảm, tính trung thực, tính mềm dẻo, linh hoạt…
Mức độ TĐG này chịu ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan như: nhận thức về
tầm quan trong của nghề, hứng thú, niềm tin vào hương lai của nghề và các yếu tố
khách quan như: môi trường học tập, mức độ quan tâm và định hướng của gia đình.
Trong đó, các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng mạnh hơn các yếu tố khách quan.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
-

Phương pháp nghiên cứu tài liệu;

-

Phương pháp chuyên gia;


-

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi;

-

Phương pháp phỏng vấn sâu;
8


-

Phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học.

9. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có ba phần:
-

Phần mở đầu

-

Phần nội dung: Gồm 3 chương, cụ thể:

+

Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu

+


Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu

+

Chương 3: Kết quả nghiên cứu

-

Phần kết luận và kiến nghị

Ngoài ba phần trên, luận văn còn có thêm phần mục lục, phụ lục và tài liệu
tham khảo.

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN VỀ CÁC
PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH NGHỀ
1.1. Tổng quan một số công trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
Từ những năm 90 của thế kỉ XIX, đã có nhiều nghiên cứu về TĐG ở nước
ngoài. Các tác giả tập trung chủ yếu vào các vấn đề như: nghiên cứu về cái Tôi; về các
yếu tố của tự đánh giá; vai trò của tự đánh giá đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách cá nhân… Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về vấn đề này.

Một trong những người đầu tiên nghiên cứu về TĐG bản thân là William
James - nhà Tâm lý học người Mỹ. Trong chương sách “Ý thức về bản thân” thuộc
tác phẩm “Những điều trọng yếu trong tâm lý học” , W. James có quan điểm nghiên

cứu về cái Tôi khá thuyết phục.Ông cho rằng khái niệm cái tôi được phát triển từ sự
so sánh xã hội, chúng ta thường so sánh mình với “những người quan trọng khác”.
Trong hoạt động, người ta luôn so sánh thành tích đạt được với những nguyện vọng
được hình thành. Thông qua kinh nghiệm bản thân và ảnh hưởng của người khác mà
cá nhân nhận ra: Tôi là ai? Tôi sẽ là người như thế nào? Họ muốn tôi là người như
thế nào?... Để tìm câu trả lời này, trong quá trình so sánh mình với người khác các
cá nhân đã có sự tự đánh giá về mình và tự đánh giá về người khác, qua đó thấy
được vai trò và vị thế của mình trong các nhóm xã hội. Như vậy, ông đã đưa ra công
thức của TĐG bản thân = Thành công/ khả năng [28, tr47].
Đồng quan điểm với W. James khi nghiên cứu tự đánh giá, George H.Mead (nhà
Tâm lý học, Xã hội học người Mỹ) đã nghiên cứu về cái Tôi và con đường hình thành
cái Tôi. Coi trọng yếu tố tương tác xã hội tạo nên cái tôi, Mead tập trung vào quá trình
cá nhân gia nhập và trở thành thành viên của một nhóm xã hội. Ông cho rằng, nguyên
nhân của quá trình này là cá nhân nội tâm hoá những ý tưởng và thái độ của những
nhân vật quan trọng trong cuộc sống mà anh ta đã quan sát, chấp nhận chúng và thể
hiện chúng ra ngoài như là của riêng mình. Nội tâm hoá thái độ của người khác đối với
mình, cá nhân đánh giá cao bản thân khi được những người khác chấp nhận và
10


ngược lại cá nhân đánh giá thấp bản thân khi bị bác bỏ, từ chối. Do đó, có thể hiểu
cái Tôi được hình thành trên việc “nội tâm hoá thái độ” và điều chỉnh thái độ của
bản thân dựa trên đánh giá của người xung quanh về mình.
Theo Sigmund Freud (1856 - 1939), cấu trúc tâm lý nhân cách của con người
gồm 3 phần: Bản năng, ý thức và siêu ý thức. Trong đó Freud cho rằng ý thức tự
ngã luôn luôn bị chi phối bởi bản năng mà nội dung chính của nó là “libido”; là nơi
trú ngụ các bản năng nguyên thuỷ và các xúc cảm đi ngược lên tới cái quá khứ xa
xưa khi mà con người còn là một con thú, bản chất của cái nó là thuộc về dục tính
(sexual in nature), nó vốn vô thức. Mục đích của nó là thoả mãn các ham muốn bản
năng và các khoái cảm, không cần biết đến các hậu quả. Nhưng khi ý thức tự ngã bị

kiềm chế bởi cái tôi - những định khuôn, quy ước xã hội (social conventions) – thì
lúc này cái tôi đóng vai trò là “viên trọng tài giữa những đòi hỏi bản năng của cái nó
và sự kiểm soát của thế giới bên ngoài”. Do đó, “cái Tôi” luôn bị mâu thuẫn bởi sự
chi phối của bản năng dục vọng và sự kiềm chế của ý thức xã hội. Cho nên, cá nhân
luôn diễn ra sự đấu tranh nội tâm, có sự đánh giá chính mình để vừa thoả mãn
những nhu cầu bản năng đồng thời phù hợp với chuẩn mực xã hội. Do đó, đây cũng
chính là một trong những nguồn gốc bên trong của TĐG [dẫn theo 9, tr10].
Các nhà Tâm lý học theo chủ nghĩa Freud mới là H.S. Sullivan, K. Horney,
A. Adler nghiên cứu sự hình thành TĐG đã lý thuyết hoá nguồn gốc của sự TĐG
bản thân. Mối quan hệ liên nhân cách là nền tảng của sự TĐG bản thân, nhấn mạnh
sự quan trọng đặc biệt của cha mẹ, anh chị em ruột. Cụ thể là, việc cha mẹ nuông
chiều con cái có ảnh hưởng tiêu cực đến đứa trẻ: những đứa trẻ được nuông chiều sẽ
có một giá trị thổi phồng không thực tế so với giá trị thực của chúng; Chúng trở
thành tự kỷ trung tâm và đòi hỏi, không muốn hoặc không chuẩn bị phấn đấu cho sự
trưởng thành trong các mối quan hệ xã hội.
Horney cho rằng: đứa trẻ có nguy cơ bị mắc chứng nhiễu tâm liên quan đến
sự phát triển không thuận lợi của các mối tương quan ở trẻ, ảnh hưởng đến tự đánh
giá, dẫn đến việc trẻ mang hình tượng cái tôi bị xuyên tạc: “Nó không mang lại cho
người bị nhiễu tâm khả năng hiểu và chấp nhận bản thân thực tế với chính mình”.
11


Chứng rối nhiễu tâm lý có thể phòng ngừa được nếu ở lứa tuổi ấu thơ đứa trẻ ở
trong một gia đình có đủ tình yêu thương, ấm áp và thông cảm, nó cảm thấy được
an toàn. Do đó có thể khẳng định, TĐG của cá nhân chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu
tố giáo dục gia đình.
Tác giả Morris Rosenberg là một trong số người có nhiều cống hiến cho việc
nghiên cứu nguồn gốc và yếu tố ảnh hưởng đến sự TĐG. Là một nhà xã hội học,
ông cho rằng các điều kiện xã hội có ảnh hưởng nhiều đến sự TĐG, trong đó sự
quan tâm và chú ý của người cha khác nhau trong các nhóm dân tộc, địa vị, nhóm

thiểu số có liên quan có ý nghĩa tới sự TĐG của con cái. Thanh thiếu niên có sự gần
gũi với cha mình có sự TĐG cao hơn những người có mối quan hệ cha con xa cách.
Stanley Coopersmith cũng nghiên cứu về nguồn gốc của sự TĐG trong tác phẩm
“Những tiền đề của tự đánh giá” và cho rằng nguồn gốc của TĐG ở trẻ:
Là toàn bộ hoặc gần như toàn bộ sự chấp nhận của cha mẹ đối với
đứa trẻ.
-

Các giới hạn và nội quy đối với đứa trẻ được xác định rõ.

- Sự tôn trọng các hành động cá nhân tồn tại trong giới hạn được xác định trên.
Hệ quả là cha mẹ của những đứa trẻ có sự TĐG cao thì quan tâm và chú ý tới

đứa trẻ và xây dựng một cuộc sống phù hợp với những cách thức mà họ cho là phù
hợp và cho phép một mức độ tự do tương đối lớn trong khuôn khổ đã được hình
thành. Khi giới hạn được xác định rõ, cho phép đứa trẻ đánh giá được rõ các thành
tích hiện có cũng như so sánh các hành vi và thái độ trước đó. Điều này sẽ giúp cho
đứa trẻ có sự TĐG bản thân cao [26, tr56].
Một hướng nghiên cứu của Alfred Adler liên quan đến TĐG đó là, yếu tố thể
chất của cá nhân cũng ảnh hưởng đến TĐG của cá nhân đó: Sự không khoẻ mạnh về
thể chất, sự yếu ớt trong việc phát triển cơ bắp, sự thiếu hụt một vài bộ phận trên cơ
thể… có ảnh hưởng lớn đến TĐG của cá nhân. Khái niệm “mặc cảm tự ti” nảy sinh
khi cá nhân nhận thấy sự thua kém của bản thân khi cố gắng vượt qua những nhược
điểm nhưng nhiều lần bị thất bại; hoặc cá nhân quá chú ý đến sự kém cỏi của bản
thân sẽ dẫn đến sự tự ti.

12


Có thể thấy rằng, TĐG đã được nghiên cứu từ rất sớm dưới nhiều góc độ khác

nhau trong đó có Tâm lý học. Nhìn chung, các tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ
như: sự hình thành của TĐG, các đặc trưng của TĐG, vai trò của TĐG đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách cá nhân. Trong đó, đối tượng của TĐG chính là bản thân
chủ thể, là “cái Tôi”: Cá nhân đánh giá khái quát về các giá trị của mình đồng thời đánh
giá cụ thể từng phẩm chất năng lực của bản thân trong mối tương quan với người khác.
TĐG là điều kiện bên trong của tự ý thức, tự hoàn thiện nhân cách.TĐG có nguồn gốc
từ đặc điểm và thái độ của các nhóm xã hội mà cá nhân tham gia vào, đồng thời cũng
xuất phát từ bên trong là mong muốn, nguyện vọng của mỗi cá nhân.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Theo quan điểm thông thường tại Việt Nam thì “đánh giá là nhận thức cho rõ giá trị
của một người hoặc một vật”. Từ những quan điểm trên có thể thấy rằng khái niệm đánh
giá chỉ việc định giá về giá trị của một con người, một sự vật, một hiện tượng.

“Nghiên cứu tự đánh giá thái độ học tập môn toán của sinh viên cao đẳng sư
phạm Hà Nội” (năm 2000), tác giả Đào Lan Hương đã tiến hành nghiên cứu trên
360 sinh viên. Phương pháp chính được sử dụng trong nghiên cứu là điểu tra bằng
bảng hỏi, bên cạnh đó tác giả còn sử dụng phương pháp thực nghiệm khảo sát thực
trạng mức độ phù hợp của TĐG về thái độ học toán ở sinh viên; và áp dụng biện
pháp thử nghiệm tác động nhằm nâng cao khả năng TĐG phù hợp của sinh viên về
thái độ học toán; đồng thời nghiên cứu cũng tiến hành thực nghiệm kiểm chứng
biện pháp nâng cao khả năng TĐG phù hợp của sinh viên về thái độ học toán.
Với nghiên cứu này, Đào Lan Hương đã rút ra một số kết luận:
Khả năng TĐG thái độ học toán của sinh viên phát triển không đồng đều với các
mức độ khác nhau: Có sự khác biệt về khả năng TĐG thái độ học toán ở những sinh
viên khác nhau về kết quả học tập, thái độ học tập, vị thế trong tập thể, hoạt động nghề
nghiệp và môi trường học tập, cụ thể là: TĐG phù hợp chiếm tỉ lệ cao nhất ở nhóm sinh
viên khá, giỏi là 44.16%, sinh viên có học lực trung bình có tỉ lệ là 26.25% và sinh viên
yếu, kém là 8.7%. Trong đó, những sinh viên học tập đạt kết quả thấp lại


13


có xu hướng tự đánh giá cao: 61.25% ở nhóm học lực trung bình và 83.04% ở nhóm
học lực yếu, kém. Sinh viên có thái độ học tập tích cực tự giác ở mức cao hơn thì tự
đánh giá cũng phù hợp hơn: 45.66% ở sinh viên khá, giỏi. 27.87% ở sinh viên học
lực trung bình và 20.66% ở sinh viên học lực yếu, kém. Nghiên cứu này cũng chỉ ra
một số yếu tố ảnh hưởng đến TĐG của sinh viên: Trình độ phát triển nhân cách là
yếu tố bên trong ảnh hưởng đến sự tiếp thu của cá nhân đối với đánh giá bên ngoài,
vì vậy nó ảnh hưởng một cách gián tiếp lên TĐG [13].
Nếu tự đánh giá là thích hợp - nghĩa là phù hợp với khách quan, trên cơ sở
đạo đức, tiến bộ, đúng đắn thì sẽ thuận lợi cho sự phát triển tâm lý và đạo đức. Trái
lại, sự tự đánh giá không phù hợp có thể diễn ra theo hai hướng: Hoặc là thấp hơn
khả năng thực tế của bản thân, hoặc là cao hơn. Trong trường hợp thấp hơn, nếu
không thấp quá thì không có hại gì, nhưng nếu thấp quá so với khả năng thực tế thì
chủ thể đạo đức rơi vào tình trạng hoài nghi, mất tự tin thậm chí có thể bi quan và
do nhu cầu tự khẳng định bị tổn thương dễ làm cho nhân cách “co lại”, tự ti. Ngược
lại, nếu tự đánh giá lệch lạc về hướng quá cao sẽ làm cho bản thân rơi vào tình trạng
tự cao tự đại, có thể dẫn đến coi thường tập thể.


Việt Nam, TĐG được nghiên cứu khá phong phú ở lứa tuổi học sinh, sinh

viên. Các tác giả đã đề cập đến vấn đề TĐG dưới nhiều khía cạnh liên quan đến
nhận thức, cảm xúc về bản thân và ý thức về bản ngã… Các tác giả tập trung nghiên
cứu ở các lứa tuổi như: tuổi mẫu giáo, học sinh trung học cơ sở hay nghiên cứu ở
thanh niên sinh viên…nhằm mục đích chỉ ra những đặc trưng TĐG của từng lứa
tuổi. Với sinh viên, một số tác giả đã chỉ ra đặc điểm khái quát về sự phát triển tâm
lý lứa tuổi của sinh viên, trong đó có nhấn mạnh đến TĐG của các em.Tuy nhiên,
các tác giả vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể biểu hiện của TĐG ở lứa sinh viên trong

các mặt cụ thể, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến TĐG của lứa tuổi này.
1.2. Một số vấn đề lý luận chung
1.2.1. Tự đánh giá

14


Theo nhà xã hội học Morris Rosenberg trong cuốn “Xã hội và hình ảnh bản
thân của thanh thiếu niên” (1965) đã định nghĩa tự đánh giá như là “thái độ tốt hay
không tốt đối với bản thân” [26, tr95].
Cùng quan điểm nêu trên, tác giả Vũ Dũng cho rằng, cá nhân đánh giá chính
mình, đánh giá những năng lực, phẩm chất và vị trí của mình so với những người
khác. Giá trị mà cá nhân gán cho mình hoặc cho những phẩm chất riêng biệt của
mình gọi là tự đánh giá.
Theo tác giả Đỗ Ngọc Khanh: TĐG là một hình thức phát triển cao của tự ý
thức, là sự đánh giá tổng thể của một cá nhân về các giá trị bản thân với tư cách là
một con người trong hoạt động và giao tiếp với người khác [14, tr33].
Qua tìm hiểu một số khái niệm về tự đánh giá, chúng tôi nhận thấy mỗi tác
giả đã nhấn mạnh tới các nội dung khác nhau trong tự đánh giá: Có tác giả thì nhấn
mạnh mặt thái độ, có tác giả thì nhấn mạnh mặt nhận thức, hoặc nhấn mạnh mặt
quan hệ.... Song các tác giả đều thống nhất ở một điểm là đều coi tự đánh giá có bản
chất là sự nhận xét, đánh giá về chính mình, là sự phát biểu của chủ thể về chính
bản thân mình. Tổng hợp từ các nghiên cứu về tự đánh giá, trong nghiên cứu này,
chúng tôi xác định:
Tự đánh giá là một hình thức phát triển cao của tự ý thức, trong đó con
người nhận thức về chính bản thân mình, đánh giá tổng thể về các giá trị của bản
thân trong mối quan hệ với những người xung quanh.
Tự đánh giá là một trong những chỉ số của mức độ phát triển tự nhận thức và
là thành phần cơ bản của tự ý thức. Trong bậc thang phản ánh thì đây là trình độ
phản ánh của phản ánh, khi con người tự nhìn nhận, tự phê phán và tự đánh giá

chính mình. Tự đánh giá là đánh giá tổng thể của cá nhân về các giá trị của bản
thân, thể hiện qua các mặt khác nhau của nhân cách với tư cách là một thành viên
của xã hội.
1.2.2. Phẩm chất nhân cách

15


Nhân cách là một khái niệm rộng và phức tạp của tâm lý học. Ở mỗi góc độ
khác nhau, các nhà nghiên cứu có những quan niệm khác nhau về nhân cách.Vì vậy,
có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách. Ngay từ năm 1949, G.Allport đã dẫn
ra trên 50 định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về nhân cách.
Khái niệm nhân cách chỉ nói về mặt xã hội, mặt tâm lý của cá nhân với tư cách
thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ người-người, của hoạt
động có ý thức và giao tiếp. Nhà Tâm lý học Xô viết X.L. Rubinstein đã viết: “Con
người là cá tính do nó có những thuộc tính đặc biệt, con người là nhân cách do nó xác
định được quan hệ của mình với người xung quanh một cách có ý thức” [23, tr278].

Trong các quan niệm về nhân cách, cũng có những quan niệm sai lầm coi
nhân cách nằm trong các đặc điểm sinh vật hay đặc điểm hình thể của con người
theo kiểu “nhìn hình dáng để đoán số mệnh con người”. Hoặc có quan niệm lại lấy
quan hệ gia đình, dòng họ để thay thế một cách đơn giản máy móc các thuộc tính
của cá nhân. Có quan niệm chỉ chú ý đến cái chung, bỏ qua cái riêng trong nhân
cách, đồng nhất nhân cách với con người…
Ngày nay, tâm lý học coi nhân cách là một phạm trù xã hội, có bản chất xã
hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung của những điều kiện lịch
sử cụ thể của xã hội được chuyển vào trong mỗi con người. Có thể nêu một số định
nghĩa tiêu biểu về nhân cách như: “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một
vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”, hay
“Nhân cách là một con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm

chất tâm lý, quy định hình thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội”.
Ở mỗi cá nhân, nhân cách do các thuộc tính tâm lý của cá nhân hợp nhất lại
mà thành. Trong nghiên cứu này, nhân cách được hiểu là tổ hợp các đặc điểm,
thuộc tính tâm lý của cá nhân quy định bản sắc và giá trị xã hội của con người.
Phân tích khái niệm này cho thấy, nhân cách có một số đặc điểm sau đây:

16


Thứ nhất, nhân cách không phải là tất cả các đặc điểm cá thể của con người
mà chỉ bao hàm những đặc điểm quy định bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị và cốt cách
làm người của con người như là một thành viên của xã hội.
Thứ hai, nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lý riêng lẻ mà
là một cấu tạo tâm lý phức hợp. Nói cách khác nhân cách là tổng thể những đặc
điểm tâm lý đặc trưng với một cơ cấu xác định.
Thứ ba, nhân cách con người không bẩm sinh, không tự nhiên có, nhân cách
được hình thành dần trong quá trình tham gia các mối quan hệ của con người.
Nhân cách quy định bản sắc riêng của cá nhân trong sự thống nhất biện
chứng với cái chung, cái phổ biến của cộng đồng mà cá nhân đó là đại biểu. Nhân
cách biểu hiện trên ba cấp độ: bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ siêu
cá nhân
Ở cấp độ bên trong cá nhân, nhân cách thể hiện tính riêng biệt, tính không
đồng nhất, tính tích cực trong việc khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và của
bản thân. Phân tích nhân cách ở cấp độ bên trong cá nhân là xem xét nhân cách của
bản thân cá nhân.


cấp độ liên cá nhân, nhân cách được thể hiện trong các mối quan hệ, liên

hệ với nhân cách khác. Như vậy, phân tích nhân cách ở mức độ liên cá nhân là đã

đặt nhân cách trong nhóm của nó (trong nhóm, trong tập thể, trong giai cấp…).
Cấp độ siêu cá nhân là mức độ cao nhất, ở cấp độ này nhân cách được xem xét
như là một chủ thể đang tích cực hoạt động và gây những biến đổi ở người khác. Phân

tích nhân cách ở mức độ siêu cá nhân là xem xét những hoạt động của nhân cách có
ảnh hưởng như thế nào tới những nhân cách khác, ảnh hưởng tới mức độ nào.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách thì nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm là
những phẩm chất nhân cách cốt lõi.
-

Nhân là thật thà, thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào… sẵn sàng

chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu

17


sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền. Những người đã không ham, không e,
không sợ thì việc gì là việc phải, họ đều làm được.
-

Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc

gì phải giấu đoàn thể, ngoài lợi ích của đoàn thể, không có lợi ích riêng phải lo toan.
-

Trí là không bị việc gì làm cho mù quáng, đầu óc lúc nào cũng sáng suốt,

trong sạch, dễ hiểu lý, dễ tìm phương hướng, biết xét người, xét việc. Vì vậy mà
biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho đoàn thể.

-

Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc gì khó phải có gan làm, thấy khuyết

điểm phải có gan sửa chữa, cực khổ, khó khăn phải có gan chịu đựng. Có gan chống
lại những sự vinh hoa, phú quý không chính đáng.
Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng,
không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại không bao giờ
hủ hóa. Chỉ có một cái ham là ham học, ham làm và ham tiến bộ [18, tr186].
Có thể so sánh quan điểm của Hồ Chí Minh và Khổng Tử về đạo đức của con
người. Khổng Tử cũng nêu lên năm đức tính: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Mặc dù quan niệm
của Khổng Tử về năm đức tính đó là tiến bộ trong thời đại của ông.Nhưng thực chất cũng
chỉ nhằm phục vụ cho giai cấp thống trị. Ông đề cao đại nhân, còn tiểu nhân vẫn bị ông coi
thường. Điều khác so với nội dung đạo đức của Khổng Tử là lễ và tín, ở nội dung đạo đức
Hồ Chí Minh là dũng và liêm. Điều này thể hiện tính chất cách mạng trong quan niệm đạo
đức Hồ Chí Minh. Con người có phẩm chất dũng cảm, có ý chí mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng và xã hội giao cho. Người cán bộ tiêu chuẩn quan trọng phải là liêm
khiết, không tham ô, tham nhũng thì mới gọi là con người có đạo đức.

Đức và tài là cách nói quen thuộc của Việt Nam (phù hợp với quan niệm cấu
trúc nhân cách 4 khối) và được sắp xếp thành 2 mặt thống nhất đức và tài. Theo
quan niệm này thì đức và tài là phẩm chất và năng lực dưới sự chỉ đạo của ý thức
"bản ngã" tức là cái tôi [23, tr312].
ĐỨC (phẩm chất)
1. Phẩm chất xã hội (hay đạo đức chính

18



trị) Bao gồm
- Thế giới quan, nhân sinh quan
- Lập trường
- Thái độ chính trị, thái độ lao động
- Lý tưởng niềm tin
2. Phẩm chất cá nhân (hay đạo đức tư
cách:
- Các tính nết, thói quen.
- Ham muốn, hứng thú
3. Phẩm chất ý chí
- Tính kỷ luật, tự chủ
- Tính mục đích, quả quyết
- Tính phê phán, hoài nghi khoa học
4. Cung cách ứng xử
- Tác phong, tính khí
- Lễ tiết
- Phẩm chất nhân cách người cảnh sát nhân dân
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động trong đó, nhờ được đào tạo, con
người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất
hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng
năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm,
lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm
nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.
Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục nghìn chuyên
môn.Ở Liên Xô trước đây, người ta đã thống kê được 15.000 chuyên môn, còn ở
nước Mỹ, con số đó lên tới 40.000.
19



Những chuyên môn có những đặc điểm chung, gần giống nhau được xếp
thành một nhóm chuyên môn và được gọi là nghề. Nghề là tập hợp của một nhóm
chuyên môn cùng loại, gần giống nhau.
Hoạt động nghề là quá trình hoạt động của con người bằng các năng lực
chuyên môn của mình, thực hiện những nhiệm vụ nhất định mà xã hội giao phó để
đảm bảo sự sinh tồn của mỗi cá nhân và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Với mỗi nghề nghiệp nhất định thì sẽ có những hoạt động nghề khác nhau
với những nhóm chuyên môn khác nhau.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta,
người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân luôn quan tâm chăm lo xây
dựng lực lượng vũ trang, trong đó có CAND. Người đã dành nhiều tâm trí, tình cảm
cho quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển của lực lượng CAND, từ việc
xác định quan điểm, đường lối; biện pháp công tác; xây dựng tổ chức; bố trí cán bộ
đến những lời huấn thị, dạy bảo ân cần. Bác luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng các
phẩm chất của người chiến sĩ công an với quan điểm Công an của ta là Công an
nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào dân mà làm việc.
Bác nói: Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng mấy chục triệu tai
mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào dân thì việc gì cũng xong. Bác khái quát tư cách
của người Công an cách mệnh là:
“Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm,
chính Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung
thành Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ
phép Đối với công việc, phải tận tuỵ
Đối với địch, phải cương quyết khôn khéo”.
Lời dạy trên cũng chính là lời huấn thị chung cho lực lượng CAND [22,
tr46].

20



Như vậy có thể hiểu phẩm chất nhân cách của người cảnh sát là tổ hợp
những thuộc tính tâm lý của người cảnh sát nhân đáp ứng được các yêu cầu của
hoạt động nghề nghiệp, được hình thành và phát triển trong thực tiễn đời sống và
trong hoạt động công tác của người cảnh sát.
1.2.3. Sinh viên Học viện Cảnh sát nhân dân và một số đặc điểm tâm lý
liên quan đến hoạt động nghề
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La tinh là “student” có nghĩa là
những người làm việc và học tập tích cực, tìm hiểu và khai thác tri thức khoa học.
Theo I.X Kôn thì: sinh viên là một bộ phận của thanh niên, mặt khác lại là một bộ
phận của giới tri thức. Có thể nói, sinh viên là một nhóm xã hội đặc thù, nhóm xã
hội này vừa mang những đặc điểm chung của tầng lớp thanh niên và những đặc
điểm riêng của mình là những người đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng
hay trung học chuyên nghiệp.
Sinh viên Học viện Cảnh sát, một bộ phận cấu thành quan trọng của lực
lượng sinh viên Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của đất
nước. Sinh viên công an là tập hợp những người đang học tập tại các trường học
viện, đại học, trung cấp công an trên phạm vi cả nước và được hưởng những chính
sách đặc biệt của nhà nước dành cho lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngoài những đặc điểm tâm lý chung của sinh viên như: tuổi đời còn trẻ,
thường từ 18 đến 25, ưa các hoạt động giao tiếp, có tri thức đang được đào tạo
chuyên môn, vì thế dễ tiếp thu cái mới, thích cái mới, thích sự tìm tòi, sáng tạo và
tham gia các hoạt động tập thể thì sinh viên Học viện Cảnh sát còn có những đặc
điểm tâm lý đặc trưng riêng. Số sinh viên trúng tuyển vào đào tạo của trường đại bộ
phận là những đoàn viên gương mẫu được chọn lựa qua sơ tuyển về phẩm chất đạo
đức, năng lực và tiêu chuẩn chính trị, có tâm huyết phấn đấu và rèn luyện trong môi
trường của lực lượng vũ trang. Là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an
ninh trật tự, lực lượng Công an nhân dân luôn xứng đánh là công cụ sắc bén để bảo
vệ đảng, bảo vệ nhân dân. Chính vì vậy, trong môi
21



×