Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Cạnh tranh ở một số ngành dịch vụ ở Việt Nam - Phương pháp đánh giá: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 104 trang )

Chứng khoán

85

tham gia vào TTCK là các CTCK, UBCKNN là cơ quan cấp giấy
phép thành lập và hoạt động; giám sát hoạt động kinh doanh; tiến
hành tranh tra và xử lí các vi phạm của CTCK theo Luật Chứng khoán
nhằm đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai,
công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các
nhà đầu tư.
III. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH TRONG
LĨNH VỰC KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
1. Các yếu tố ảnh hưởng tới cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán
1.1. Tình hình phát triển kinh tế
Công cuộc đổi mới nền kinh tế, giảm dần vai trò kinh tế nhà
nước thông qua hoạt động cổ phần hóa và phát triển kinh tế tư nhân
dẫn đến nhu cầu vốn cho phát triển ngày càng gia tăng. Thị trường
chứng khoán Việt Nam ra đời đã trở thành một kênh huy động vốn
hiệu quả cho nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp nói riêng.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thị trường
chứng khoán cũng phát triển và hoàn thiện, tạo nhiều cơ hội cho các
doanh nghiệp tham gia. Sự ra đời của các CTCK không chỉ đóng vai
trò cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát
hành huy động vốn một cách nhanh chóng, mà còn cung cấp các dịch
vụ cần thiết góp phần cho TTCK hoạt động ổn định. Công ty chứng
khoán với lợi thế chuyên môn hoá, trình độ, kinh nghiệm nghề nghiệp
sẽ thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư, tìm kiếm đối tác và làm trung
gian mua bán chứng khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí
trong từng giao dịch. Do nhu cầu của nhà đầu tư và sự phát triển của
TTCK, các loại hình dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách hàng


ngày càng đa dạng. Các mảng hoạt động như tư vấn niêm yết, tư vấn
phát hành, bảo lãnh phát hành có sự cạnh tranh khá quyết liệt không
chỉ trên mức phí áp dụng mà còn phụ thuộc vào quan hệ giữa tổ chức
phát hành và tổ chức tư vấn.
1.2. Xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam được hình thành và bắt đầu
hoạt động từ tháng 7/2000, đến nay sau hơn 10 năm vận hành đã từng


86

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

bước có sự phát triển theo hướng hiện đại, tính minh bạch trong thông
tin ngày càng cao và trình độ của nhà đầu tư cũng được nâng cao dần.
UBCKNN hiện đang xây dựng chiến lược phát triển thị trường chứng
khoán giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu là phát triển về quy mô,
chất lượng hoạt động cho thị trường chứng khoán, duy trì sự ổn định
và an toàn cho thị trường vốn. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật tạo hành lang pháp lý cho TTCK hoạt động cũng từng bước được
hoàn chỉnh. Các nội dung cụ thể của chiến lược này bao gồm việc phát
triển hàng hóa cho thị trường chứng khoán, phát triển thị trường giao
dịch chứng khoán, phát triển các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng
khoán, phát triển tổ chức phụ trợ, phát triển nhà đầu tư, phát triển cơ
sở hạ tầng công nghệ thông tin TTCK, hội nhập quốc tế về thị trường
chứng khoán và quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán.
Nhìn chung, hiện nay sự phát triển của thị trường chịu tác động
của yếu tố đòn bẩy tài chính và các công cụ hỗ trợ nhà đầu tư. Điều
này ảnh hưởng lớn đến hoạt động cạnh tranh giữa các công ty chứng
khoán. Đòn bẩy tài chính được hiểu là việc công ty chứng khoán cho

phép nhà đầu tư được giao dịch ký quỹ, theo đó chỉ phải bỏ ra một
phần của tổng số tiền để mua chứng khoán (theo tỷ lệ ví dụ 50/50,
20/80) là có thể tham gia giao dịch, và trong một số trường hợp thì lại
có thể thực hiện bán trước khi cổ phiếu chính thức về tài khoản. Các
dịch vụ đơn giản khác như thanh toán nhanh (còn gọi là ứng trước
tiền) cũng được các công ty tích cực sử dụng để nhà đầu tư có tiền
ngay sau khi bán chứng khoán chứ không phải chờ 3 ngày như trước
đây. Điều này đã khiến cho thanh khoản của thị trường tăng rất mạnh
trong năm 2009 và làm nguồn thu từ phí giao dịch của các công ty
chứng khoán tăng cao. Cấu trúc thị trường cũng thay đổi theo do các
CTCK rất linh hoạt trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính nhằm thu hút
khách hàng. Việc sử dụng công cụ này lại phụ thuộc vào tiềm năng tài
chính của CTCK và chính vì vậy đã tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các
công ty lớn. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về chứng khoán
các CTCK không được phép cung cấp các dịch vụ này.
Tính chuyên nghiệp và trình độ phát triển ngày càng cao của
TTCK khiến các doanh nghiệp trong ngành phải liên tục tự đổi mới để
tồn tại. Việc sử dụng tiên phong các sản phẩm mới cũng đang là xu


Chứng khoán

87

hướng cạnh tranh giữa các CTCK và trở thành chuẩn chung của
ngành, khiến cạnh tranh giữa các CTCK trở nên gay gắt hơn.
Theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, hiện nay
các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài đã được phép tham gia
vào thị trường chứng khoán Việt Nam dưới hình thức liên doanh (vốn
góp của nhà đầu tư nước ngoài tại CTCK không quá 49%). Đã có một

số CTCK nước ngoài (Morgan Stanley, Kim Eng, Mirae…) tiến hành
mua cổ phẩn của các CTCK trong nước. Với kinh nghiệm hoạt động
trên thị trường chứng khoán quốc tế ở trình độ phát triển cao hơn cùng
với tiềm lực tài chính mạnh, chắc chắn họ sẽ có chiến lược kinh doanh
mới làm tăng tính cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán.
1.3. Kế hoạch phát triển thị trường chứng khoán và công ty
chứng khoán
Thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung. Nhận
thức được điều đó, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ cũng như
tạo điều kiện cho sự hình thành của thị trường chứng khoán. Theo Đề
án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến
năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ thông qua ngày 02 tháng 8 năm
2007, là bộ phận chủ đạo trong đó thị trường chứng khoán sẽ được
phát triển theo hướng sau đây:
- Mở rộng quy mô và đa dạng hóa các loại trái phiếu.
- Đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, tổng
công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế và các ngân hàng thương mại nhà
nước, gắn việc cổ phần hóa với niêm yết trên thị trường chứng khoán;
mở rộng việc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị trường.
- Phát triển các loại chứng khoán phái sinh.
Đối với các định chế trung gian và dịch vụ thị trường, tăng số
lượng hợp lý, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính cho
các công ty chứng khoán. Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp
trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch
vụ; đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường.
Cụ thể đối với các CTCK, ngày 20 tháng 11 năm 2006,
UBCKNN đã ban hành quyết định phát triển CTCK giai đoạn 2006 -



88

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

2010. Theo đó, cần nâng cao quy mô và năng lực của các CTCK đã
được cấp phép, đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường chứng khoán
thông qua việc xây dựng và ban hành các văn bản yêu cầu nâng cao về
vốn pháp định đối với các CTCK, đặc biệt yêu cầu đối với những
nghiệp vụ đòi hỏi vốn lớn như bảo lãnh phát hành và tự doanh; các
quy định tiêu chuẩn tối thiểu về cơ sở vật chất phục vụ hoạt động kinh
doanh chứng khoán hay cung cấp các dịch vụ mới.
Tóm lại có thể thấy rằng, cơ quan quản lý nhà nước một mặt tạo
điều kiện thúc đẩy sự phát triển của CTCK, bên cạnh đó vẫn tăng
cường giám sát chất lượng hoạt động của dịch vụ này. Điều này đã
thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các CTCK khi mà mở rộng thị trường
tạo cơ hội cho các công ty mới gia nhập, đồng thời nâng cao năng lực
hoạt động, buộc các CTCK phải tự hoàn thiện về cơ cấu tổ chức lẫn
cách thức hoạt động, tạo ra những sản phẩm mới tăng tính cạnh tranh
trên thị trường.
1.4. Các rào cản gia nhập thị trường
Để duy trì tính cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp mới
cần phải có khả năng gia nhập, đồng thời các doanh nghiệp hiện tại
cần phải có cơ hội mở rộng hoặc rút khỏi thị trường. Nếu có rào cản
ngăn chặn hoặc trì hoãn việc gia nhập một cách đáng kể, hoặc khiến
cho chi phí gia nhập thị trường trở nên tốn kém thì các doanh nghiệp
hiện tại hoàn toàn có thể chi phối được thị trường. Việc gia nhập, hoặc
khả năng gia nhập thị trường của những doanh nghiệp mới, có thể hạn
chế được sức mạnh đối với thị trường của các doanh nghiệp này. Do
đó, các rào cản gia nhập có ảnh hưởng rất lớn tới tính cạnh tranh trên
thị trường.

Rào cản gia nhập thị trường được hiểu là các yếu tố ngăn cản sự
gia nhập của các doanh nghiệp mới vào một ngành công nghiệp hoặc
một thị trường ngay cả khi các doanh nghiệp đang tồn tại trên thị
trường đó kiếm được lợi nhuận lớn. Điều 8 Nghị định số
116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh
tranh cũng đã nêu rõ các yếu tố được coi là rào cản gia nhập thị
trường. Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng quát hơn Báo cáo sẽ xem xét
các rào cản gia nhập lĩnh vực kinh doanh chứng khoán theo Khuôn
khổ đánh giá cạnh tranh. Theo đó, các rào cản được phân thành 3


Chứng khoán

89

nhóm chính đó là rào cản tự nhiên, rào cản chiến lược và rào cản pháp
lý chính sách.
Rào cản tự nhiên bắt nguồn từ việc doanh nghiệp phải sở hữu
nguồn lực hay công nghệ nào đó để có thể tham gia vào thị trường.
Các rào cản này bao gồm hiệu quả kinh tế của quy mô, sự khó khăn
khi tiếp cận công nghệ, nguyên liệu thô, các kênh phân phối hay
những chi phí chìm mà doanh nghiệp không thể thu hồi nếu quyết
định rút lui khỏi thị trường. Rào cản chiến lược bắt nguồn từ những
biện pháp, hành vi của các doanh nghiệp hiện tại có mặt trên thị
trường nhằm cản trở việc gia nhập mới. Có thể thấy rõ rằng, đối với
lĩnh vực kinh doanh chứng khoán không xuất hiện các loại rào cản này
mà tập trung chủ yếu vào các rào cản pháp lý chính sách do cung cấp
dịch vụ chứng khoán là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện (theo quy
định của Nghị định số số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 quy định
chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn

chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện) và chịu sự quản lý của cơ
quan chuyên ngành là UBCKNN. Các rào cản về pháp lý chính sách
cụ thể như sau:
1.4.1. Rào cản về vốn
Theo Nghị định số 14/2007/NĐ-CP thì yêu cầu về vốn pháp định
đối với các nghiệp vụ của công ty chứng khoán được quy định như sau:
Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng; Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ
đồng; Bảo lãnh phát hành: 165 tỷ đồng; Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10
tỷ đồng, nghĩa là tổng cộng ở mức 300 tỷ VNĐ. Yêu cầu về vốn này
liên tục tăng từ mức ban đầu là 43 tỷ, sau đó lên 170 tỷ và cuối cùng là
mức 300 tỷ như hiện nay. Nhiều công ty trong năm 2009 đã phải xin rút
bớt các nghiệp vụ kinh doanh, chỉ để lại các nghiệp vụ yêu cầu ít vốn
như môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán.
1.4.2. Rào cản về chính sách phát triển thị trường
Với việc số công ty chứng khoán hiện khá lớn (trên 100 công
ty), Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã nhiều lần bày tỏ quan điểm
không khuyến khích việc tiếp tục ra đời của các công ty chứng khoán.
Ngoài ra, các quy định về cấp phép cũng lại chính là rào cản cho các
doanh nghiệp. Ví dụ Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC quy định "trong
vòng 6 tháng kể từ ngày được chấp thuận nguyên tắc, tổ chức xin cấp


90

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

phép thành lập và hoạt động CTCK phải hoàn tất việc đầu tư cơ sở vật
chất kỹ thuật và phong toả vốn pháp định"; "CTCK phải chính thức
hoạt động trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép
thành lập và hoạt động". Nhiều công ty xin được cấp phép trong năm

2008 nhưng do điều kiện thị trường đi xuống đã không thể đi vào hoạt
động trong thời hạn quy định và phải xin cấp phép lại từ đầu.
1.4.3. Rào cản về thu hút khách hàng
Khác với các lĩnh vực kinh doanh khác, với quy định một cá
nhân chỉ được mở một tài khoản giao dịch, việc gia nhập thị trường
của các công ty mới vào lĩnh vực cung ứng dịch vụ chứng khoán là rất
khó khăn trong việc xây dựng hệ thống khách hàng. Đối với các lĩnh
vực cũng có độ cạnh tranh cao như dịch vụ ngân hàng, thông tin di
động, internet… một khách hàng có thể sử dụng dịch vụ của nhiều
hãng khác nhau cùng một lúc và có thể tự đưa ra quyết định cuối cùng
về việc chọn lựa của mình, thì điều này là không tưởng đối với các
công ty chứng khoán. Các công ty mới gia nhập thường hoặc phải dựa
trên các khách hàng có quan hệ sẵn có đối với công ty mình để làm cơ
sở phát triển (ví dụ như các công ty chứng khoán của các ngân hàng
thương mại thì bắt đầu phát triển hệ thống khách hàng từ các khách
hàng của ngân hàng mẹ, các công ty chứng khoán khác thì dựa trên
chính những khách hàng của cổ đông sáng lập). Việc thu hút khách
hàng từ các công ty khác khá khó khăn do phải cung cấp được những
ưu đãi đủ lớn, mà điều này thường dẫn tới việc ảnh hưởng mạnh đến
lợi nhuận của công ty. Việc chuyển đổi tài khoản chứng khoán cũng
không phải là việc dễ dàng có thể thực hiện được do thủ tục chuyển
đổi khá phức tạp, hơn nữa sẽ mất đi cơ hội đầu tư.
1.4.4. Rào cản về nguồn nhân lực
Là ngành dịch vụ liên quan đến lĩnh vực tài chính nên nguồn
nhân lực của CTCK phải đáp ứng những yêu cầu theo quy định của
pháp luật, cụ thể như sau: Giám đốc hoặc tổng giám đốc và các nhân
viên thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán phải có Chứng chỉ
hành nghề chứng khoán. Để có thể đạt được chứng chỉ hành nghề, các
cá nhân phải đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 79 Luật Chứng
khoán cũng như Quy chế hành nghề chứng khoán được Bộ Tài chính

ban hành theo Quyết định số 15/2008/QĐ-BTC. Các CTCK luôn cạnh


Chứng khoán

91

tranh để thu hút nguồn nhân lực đầu vào. Giai đoạn 2006 - 2007, khi
mà các CTCK tăng trưởng nhanh thì hiện tượng thiếu hụt nhân sự ở
CTCK đã xảy ra. Đây cũng là một trong số những nguyên nhân khiến
một số CTCK được cấp phép nhưng không thể đi vào hoạt động.
Khoản 2 Điều 5 Quy chế Tổ chức và hoạt động của CTCK sửa đổi đã
quy định rõ trong vòng 6 tháng kể từ ngày được chấp thuận nguyên
tắc, CTCK ngoài việc hoàn tất việc đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật và
phong tỏa vốn pháp định, còn phải chuẩn bị đủ người hành nghề
chứng khoán.
2. Thực trạng hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán
Kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực dịch vụ đặc thù nên
hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực này có một số đặc điểm khác với
các lĩnh vực dịch vụ tài chính khác.
2.1. Đặc điểm cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán
Theo quy định về quy chế giao dịch của các SDGCK, nhà đầu tư
(NĐT) chỉ được có một tài khoản giao dịch chứng khoán và chỉ được
mở tại một công ty chứng khoán duy nhất. Do đó, cạnh tranh giữa các
CTCK trong lĩnh vực môi giới chứng khoán để thu hút các NĐT mở
tài khoản và tiến hành giao dịch tại công ty là rất lớn. Cụ thể như sau:
2.1.1. Công nghệ và thông tin đóng vai trò rất quan trọng
Trong giao dịch chứng khoán, bên cạnh yếu tố về giá và lượng

mua/bán, lệnh của NĐT được khớp sẽ ưu tiên về yếu tố thời gian. Khi
các NĐT sử dụng dịch vụ của CTCK họ sẽ quan tâm nhiều đến việc,
các lệnh khi đưa ra sẽ khớp được bao nhiêu, tỷ lệ rớt lệnh nhiều hay ít.
Hoạt động của CTCK lại phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống máy tính.
Do đó, cơ sở hạ tầng công nghệ của CTCK đóng vai trò quan trọng
trong việc thu hút cũng như giữ chân khách hàng, ở đây là NĐT. Nếu
có nền tảng công nghệ thông tin tốt, đem lại nhiều tiện ích cho NĐT,
CTCK sẽ lôi kéo được đông đảo khách hàng và ngược lại. Điều này
càng có ý nghĩa hơn khi mà cả sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội và
Tp. Hồ Chí Minh đã tiến hành giao dịch trực tuyến. Thời gian truyền


92

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

lệnh nhanh hơn gấp 10 lần, chỉ còn 50mili giây/lệnh (trước đây, trung
bình từ 2-3 giây/lệnh). Thời gian trả kết quả khớp lệnh cho CTCK
cũng được rút ngắn xuống dưới 1 giây/lệnh. UBCKNN đã yêu cầu
một mặt bằng chung về hệ thống công nghệ thông tin cho các CTCK
bằng việc ra Quyết định số 106/QĐ-UBCK.
Để có thể đưa ra một quyết định đầu tư đúng đắn, NĐT cần có
những thông tin về thị trường. Mặc dù, thông tin trên TTCK là công
khai và minh bạch theo nguyên tắc hoạt động của nó nhưng rõ ràng
việc phân tích, đưa ra những dự báo cho NĐT là công việc thuộc về
các CTCK. Trên cơ sở những phân tích, dự báo đó, CTCK đưa ra
những khuyến nghị cho NĐT ra quyết định cuối cùng. Rõ ràng, một
CTCK nắm giữ được đội ngũ nhân sự có khả năng phân tích tình hình
TTCK tốt sẽ thu hút được nhiều khách hàng.
2.1.2. Xây dựng hệ thống khách hàng là nền tảng hoạt động

của CTCK
Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trên thị trường thì cùng với
lợi nhuận, thu hút khách hàng luôn là mục tiêu mà họ hướng tới và
trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán cũng vậy. Tuy nhiên, với tính
chất đặc thù của mình, khách hàng đối với các CTCK lại có những đặc
điểm riêng. Mỗi khách hàng (mỗi nhà đầu tư) chỉ được mở một tài
khoản để tiến hành giao dịch và tại một CTCK duy nhất. Tính đến hết
năm 2009, số tài khoản của các NĐT trên toàn thị trường là 793 nghìn.
Số tài khoản này sẽ được chia cho hơn 100 CTCK đang hoạt động. Có
thể thấy được mức độ cạnh tranh gay gắt giữa các CTCK trong việc
thu hút cũng như xây dựng hệ thống khách hàng cho riêng mình. Các
CTCK lớn và có uy tín rõ ràng sẽ có lợi thế hơn trong hoạt động này,
đặc biệt là đối với các NĐT có tổ chức (các quỹ đầu tư, NĐT nước
ngoài). Có nhiều cách thức để các CTCK phát triển hệ thống khách
hàng này, ví dụ như dựa trên các quan hệ sẵn có (đối với ngân hàng
mẹ hay cổ đông sáng lập) hoặc thu hút môi giới viên từ CTCK khác.
(Môi giới viên của CTCK nắm trong tay danh sách khách hàng. Nếu
như một nhân viên chuyển từ CTCK A sang CTCK B, rất có thể bằng
sự thuyết phục của mình anh ta hoàn toàn có thể kéo theo các khách
hàng sang cho CTCK B).


Chứng khoán

93

2.1.3. Hoạt động của CTCK liên quan đến các dịch vụ tài chính
khác
TTCK là một kênh huy động vốn cho nền kinh tế. Các hoạt
động giao dịch diễn ra trên thị trường đều mang tính chất đầu tư. Các

CTCK hỗ trợ cho NĐT trong việc thực hiện các hoạt động giao dịch
chứng khoán. Để có thể giúp NĐT tiến hành hoạt động đầu tư của
mình một cách thuận lợi nhất trên thị trường, các CTCK cần phải cung
cấp cả các dịch vụ hỗ trợ tài chính kèm theo.
2.2. Thực trạng hoạt động cạnh tranh giữa các CTCK
Cũng như bất kỳ các doanh nghiệp nào khác hoạt động trên thị
trường, các CTCK luôn cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị
trường và thu hút khách hàng nhằm mục tiêu tối đa lợi nhuận. Tính
chất cạnh tranh gay gắt giữa các CTCK xuất phát từ tính đặc thù của
sản phẩm dịch vụ mà các CTCK cung cấp có tính tương đồng cao.
Mặt khác, trong cạnh tranh các CTCK không chỉ sử dụng các phương
thức cạnh tranh mang tính truyền thống như phí, các dịch vụ, chương
trình khuyến mãi mà còn sử dụng các công nghệ hiện đại để đa dạng
hóa cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tinh thần và thái
độ phục vụ khách hàng. Do đó, có thể nói hoạt động kinh doanh
chứng khoán cạnh tranh bằng nhiều phương thức khác nhau. Tuy
nhiên, các phương thức đó có thể được gộp vào 3 nhóm sau đây: mức
phí; khả năng cung cấp dịch vụ một cách tối ưu; các dịch vụ tài chính
hỗ trợ cho nhà đầu tư. Vì đối với các NĐT, 3 yếu tố họ quan tâm nhất
khi lựa chọn các CTCK để mở tài khoản và tiến hành giao dịch đó là
công nghệ, hỗ trợ tài chính và tư vấn thông tin.
2.2.1. Cạnh tranh dựa trên mức phí
Giá dịch vụ trong hoạt động môi giới chứng khoán là mức phí
mà NĐT phải trả cho CTCK mỗi khi tiến hành giao dịch thành công
(mua hoặc bán) và mức phí này tính trên tổng giá trị giao dịch.
UBCKNN đã khống chế mức trần đối với mức phí này 0,5%/tổng giá
trị giao dịch. Trong mức phí thu của khách hàng, các CTCK phải nộp
0,03% cho SGDCK mà công ty làm thành viên được gọi là phí giao
dịch. Thực tế hiện nay, mức phí này được các CTCK phân nhóm theo
giá trị giao dịch khác nhau. Giá trị giao dịch càng lớn thì mức phí càng



94

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

nhỏ. Chênh lệch mức phí đối với mỗi giá trị giao dịch giữa các CTCK
là không lớn (từ 0,05 - 0,1%).
Khi TTCK mới phát triển, phí được coi là một trong những yếu
tố NĐT quan tâm khi quyết định mở tài khoản tại một CTCK do vào
thời điểm đó số lượng CTCK hoạt động còn ít nên sự chênh lệch về
mức phí là rất đáng kể, hơn nữa đây được coi là một trong những cách
thức hỗ trợ tài chính mà CTCK dành cho các NĐT. Nhiều CTCK đã
thành công trong việc thu hút khách hàng bằng mức phí trong giai
đoạn thăng hoa của TTCK Việt Nam (2006 - 2007). Các CTCK đã hạ
phí hoặc miễn phí giao dịch nhưng chỉ thực hiện trong thời gian ngắn
(trong các chương trình khuyến mại) để khuyến khích các NĐT mở tài
khoản, sau đó vẫn tiến hành thu phí khi khách hàng đã tin tưởng và
lựa chọn CTCK. Việc hạ phí này chủ yếu tập trung vào các CTCK
mới gia nhập thị trường. Tuy nhiên, khi TTCK đã phát triển ở mức
nhất định, số lượng tài khoản mở thêm tăng không nhiều thì đây
không phải là một chiến lược chiếm thị phần của các CTCK.
2.2.2. Cạnh tranh dựa trên khả năng cung cấp dịch vụ một cách
tối ưu
Khả năng cung cấp dịch vụ một cách tối ưu ở đây được hiểu là
việc CTCK giúp NĐT thực hiện giao dịch một cách nhanh chóng,
thuận tiện và chính xác. Điều này phụ thuộc vào khả năng kết nối giữa
NĐT với CTCK và CTCK với SGDCK. Nếu như trước đây, hầu hết
các công đoạn này được thực hiện một cách thủ công. NĐT lên sàn
(trụ sở, chi nhánh, đại lý nhận lệnh của CTCK) để viết lệnh, sau đó

nhân viên nhập lệnh sẽ chuyển lệnh đến đại diện của CTCK tại sàn
giao dịch chứng khoán Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh thông qua
điện thoại. Việc rớt lệnh của khách hàng là chuyện xảy ra bình
thường. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, các CTCK đã
đầu tư vào hệ thống máy tính, đường truyền Internet, điện thoại để
NĐT có thể thực hiện lệnh thông qua điện thoại hay mạng Internet.
Các CTCK đầu tư cho hệ thống thông tin để khách hàng có sự tiện lợi
khi sử dụng dịch vụ. Thay vì phải đến trụ sở, chi nhánh hay các đại lý
nhận lệnh, thì NĐT có thể tiến hành giao dịch mọi nơi hết sức thuận
tiện, giúp khách hàng chủ động hơn trong mọi tình huống. Không chỉ
tiến hành giao dịch qua mạng hay điện thoại mà các CTCK còn cung
cấp các dịch vụ tiện ích khác để hỗ trợ nhà đầu tư như: kiểm tra tài


Chứng khoán

95

khoản online, báo kết quả giao dịch qua tin nhắn, mở tài khoản trực
tuyến… Đây có thể coi như bước đi mới trong hoạt động cạnh tranh
giữa các CTCK. Gia tăng dịch vụ cho khách hàng nhằm tăng lợi thế
cạnh tranh của một số CTCK chính là việc áp dụng cung cấp miễn phí
cho từng đối tượng khách hàng. Các CTCK có tiềm lực về vốn như
SSI, Sacombank, VCBS… thì đầu tư cho công nghệ tốt hơn. Thêm
vào đó, họ có kinh nghiệm trong việc quản lý, triển khai các hoạt động
này từ lâu nên có ưu thế hơn đối với các CTCK khác. Lệnh của NĐT
đều tập trung tại SGDCK, do đó khâu quan trọng chính là việc chuyển
lệnh từ CTCK lên SGDCK. Tháng 01/2009, việc giao dịch trực tuyến
của sàn chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã được thực hiện, sau
1 năm thì sàn chứng khoán Hà Nội cũng hoạt động dưới phương thức

này. Thực tế, có không ít các CTCK thành viên không đáp ứng được
các yêu cầu của SGDCK để có thể tiến hành giao dịch theo phương
thức này mà vẫn thực hiện tại sàn. Đối với các NĐT thì rõ ràng các
CTCK có cơ sở hạ tầng thực hiện được việc giao dịch trực tuyến với
SGDCK sẽ được ưu tiên lựa chọn khi tiến hành mở tài khoản giao
dịch. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi mà nhu cầu giao dịch trên
TTCK của các NĐT ngày càng gia tăng.
2.2.3. Cạnh tranh dựa trên dịch vụ tài chính hỗ trợ cho nhà đầu tư
Đối với các NĐT, điều họ quan tâm nhất là các hỗ trợ về tài
chính mà CTCK cung cấp để có thể giúp họ gia tăng được tốc độ vòng
quay của dòng tiền, tận dụng cơ hội đầu tư và có thể giảm được rủi ro.
Hiện nay, các CTCK cạnh tranh với nhau chủ yếu dựa trên yếu tố này.
Có rất nhiều cách thức mà các CTCK hỗ trợ cho nhà đầu tư và cùng
với sự phát triển của TTCK mà nó trở lên ngày càng đa dạng. Hai biểu
hiện rõ nhất của phương thức cạnh tranh này là sử dụng đòn bẩy tài
chính và cho bán cổ phiếu ngày T+1, T+2, T+3. Sử dụng đòn bẩy tài
chính là việc CTCK hỗ trợ NĐT bằng cách chỉ phải bỏ ra một phần
của tổng số tiền để mua chứng khoán (theo tỷ lệ thỏa thuận giữa
CTCK và NĐT) là có thể tham gia giao dịch. Biểu hiện thứ 2 là việc
CTCK cho NĐT bán cổ phiếu trước khi về tài khoản theo quy định
của UBCKNN là 4 ngày sau thời điểm giao dịch. Nếu như trước đây
NĐT có thể vay ở các ngân hàng thương mại để tiến hành đầu tư
chứng khoán thì sau khi Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN (khống chế
mức vay đầu tư chứng khoán không được vượt quá 3% dư nợ của các
ngân hàng thương mại) và Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN (quy
định tổng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh


96


Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín
dụng) ra đời, sự hỗ trợ tài chính của các ngân hàng đối với NĐT
chứng khoán cũng bị hạn chế. Các CTCK có tiềm lực tài chính mạnh
hay có liên kết với ngân hàng sẽ có lợi thế hơn nếu cạnh tranh bằng
việc sử dụng đòn bẩy tài chính. Cũng tương tự như vậy, các CTCK có
danh mục tự doanh cổ phiếu đa dạng sẽ giúp cho NĐT dễ dàng khi
cho vay cổ phiếu để bán trước ngày T+4.
Bên cạnh các hỗ trợ về mặt tài chính, các CTCK còn cung cấp
cho NĐT thông tin về TTCK hay các công ty niêm yết dưới dạng các
bản tin, bài nghiên cứu, khuyến nghị đầu tư hay hội thảo. Rất nhiều
CTCK đã thực hiện tốt hoạt động này nhờ có một đội ngũ nhân sự có
khả năng phân tích chuyên sâu. Đây cũng là một cách thức hữu ích để
thu hút NĐT đến với CTCK. Trong giai đoạn 2006 - 2008, đại lý nhận
lệnh cũng là một phương thức mà các CTCK sử dụng để nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình. Hoạt động của các đại lý nhận lệnh sẽ giúp
cho CTCK tiếp cận, mở rộng mạng lưới khách hàng trên khắp cả nước.
3. Nhận diện các hành vi phản cạnh tranh trong lĩnh vực
kinh doanh chứng khoán
Luật Cạnh tranh là luật chung điều chỉnh hoạt động cạnh tranh
trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ của nền kinh tế bao gồm cả
lĩnh vực chứng khoán. Vì vậy, để nhận diện các hành vi phản cạnh
tranh trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán cần phải căn cứ vào các
quy định của Luật Cạnh tranh. Cụ thể như sau:
3.1. Hành vi hạn chế cạnh tranh
3.1.1. Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Như ở phần II đã trình bày, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là
hành vi diễn ra giữa hai hay nhiều doanh nghiệp nhằm mục đích làm
giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Các dấu hiệu của

hành vi bao gồm việc thống nhất cùng hành động và hành động đó của
nhóm doanh nghiệp gây tổn hại tới cạnh tranh trên thị trường. Các
hành vi được quy định cụ thể liên quan tới ấn định giá, phân chia thị
trường, hạn chế hay kiểm soát khối lượng, số lượng sản xuất và mua
bán, hạn chế phát triển kỹ thuật…
Đối chiếu với các hành vi cạnh tranh giữa các CTCK thì không
có các hành vi cùng thực hiện, hay bắt tay hành động chung giữa một


Chứng khoán

97

nhóm các CTCK để gây khó khăn hay cản trở hoạt động kinh doanh
của các CTCK khác. Đối tượng mà các CTCK nhắm tới là các NĐT
và thông thường trước khi đi vào hoạt động các CTCK đều đã thiết lập
được một hệ thống khách hàng cơ bản. Sự ra đời của rất nhiều các
CTCK kể cả trong điều kiện TTCK đi xuống cũng cho thấy rằng rào
cản mà các CTCK hiện hữu trên thị trường gây ra đối với doanh
nghiệp mới là hoàn toàn không có. Các CTCK mới ra đời vẫn thu
được doanh thu từ hoạt động môi giới, các CTCK ở tốp dẫn đầu thị
phần giảm qua thời gian chứng tỏ sự cạnh tranh gay gắt. Có những
CTCK chỉ trong thời gian ngắn hoạt động đã chiếm được thị phần
tương đối. Việc các CTCK ở trong tốp đầu qua nhiều năm có thể giải
thích được do đây là các CTCK thành lập khi TTCK được hình thành,
thêm vào đó có tiềm lực về vốn, đào tạo được đội ngũ nhân sự nên có
uy tín và thương hiệu đối với các NĐT.
Cũng có thời điểm các CTCK cùng nhau giảm mức phí giao
dịch. Tuy nhiên, hành động này chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian
thực chất là hoạt động khuyến mại. Các CTCK ở nhóm đầu (có thị

phần lớn) không thực hiện mà tập trung chủ yếu ở các CTCK mới đi
vào hoạt động nhưng cũng không phải là thỏa thuận cùng nhau thực
hiện giữa các công ty. Đây là đặc trưng của dịch vụ tài chính nói
chung khi dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng là khá
tương đồng nên khi một doanh nghiệp mới gia nhập thị trường thì việc
đưa ra mức giá thấp hơn để cạnh tranh là một điều dễ hiểu.
3.1.2. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và lạm dụng vị trí
độc quyền
Dấu hiệu để phát hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và lạm
dụng vị trí độc quyền theo quy định của Luật Cạnh tranh là trước hết
CTCK phải có vị trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền trên thị trường.
Qua việc xem xét cấu trúc thị trường ở phần I ta có thể thấy, không có
công ty hay nhóm công ty nắm giữ vị trí thống lĩnh và càng không thể
có vị trí độc quyền trên thị trường có tới hơn 100 nhà cung cấp dịch
vụ. Như vậy có thể thấy rằng, dấu hiệu xuất hiện hành vi này là hoàn
toàn không thể có.


98

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

3.1.3. Hành vi tập trung kinh tế
Theo Luật Cạnh tranh, tập trung kinh tế là các hành vi sáp nhập,
hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp.
Hành vi này không được quy định trong các văn bản pháp luật
trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán nhưng theo Luật Cạnh tranh, các
hành vi nói trên bị cấm nếu các doanh nghiệp tham gia có thị phần kết
hợp trên thị trường liên quan trên 50% trừ trường hợp thuộc diện miễn
trừ theo quy định tại Điều 19 Luật Cạnh tranh hoặc sau khi thực hiện

hành vi tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo
quy định của pháp luật.
Tập trung kinh tế bị cấm được xem xét miễn trừ khi (i) một hoặc
nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể
hoặc lâm vào tình trạng phá sản; (ii) việc tập trung kinh tế có tác dụng
mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ
kỹ thuật, công nghệ.
Gần đây có một loạt vụ chuyển nhượng phần vốn góp trong vốn
điều lệ của các công ty chứng khoán cho các đối tác nước ngoài. Công
ty Cổ phần Chứng khoán Hướng Việt chuyển nhượng 48,33% vốn
điều lệ cho Morgan Stanley Holdings Pte (Singapore); Công ty Cổ
phần Chứng khoán Nhấp & Gọi (Click & Phone) chuyển nhượng 49%
vốn điều lệ cho Công ty Golden Bridge (Hàn Quốc); Công ty Cổ phần
Chứng khoán Việt Nam chuyển nhượng 49% cho Ngân hàng RHB
(Malaysia).
Trong thời điểm khó khăn trên thị trường chứng khoán như năm
2008, các CTCK có quy mô nhỏ, hạ tầng đầu tư thiếu đồng bộ, trình
độ nhân lực yếu… hoặc mới thành lập chắc chắn sẽ phải nghĩ đến
chuyện sáp nhập hoặc bán lại. Cả nước hiện có trên 100 công ty chứng
khoán hoạt động, với khoảng trên 700.000 tài khoản. Các công ty
chứng khoán mạnh về vốn, công nghệ, nhân lực, uy tín đang ngày
càng mở rộng hoạt động, chiếm lĩnh phần lớn mảng dịch vụ. Trong
khi đó, mảng tự doanh không đem lại lợi nhận cao như trước đây,
đồng thời do cạnh tranh khốc liệt nên sẽ có nhiều công ty chứng khoán
thua lỗ17.

17

Năm 2008, theo số liệu của UBCKNN có tới 80% số CTCK bị thua lỗ.



Chứng khoán

99

Sáp nhập và mua lại công ty chứng khoán giúp tận dụng tối đa
sức mạnh về tài chính, kinh nghiệm cũng như các thế mạnh về công
nghệ thông tin của các đối tác, đặc biệt là đối tác nước ngoài. Hoạt
động M&A ở đây được xem như một công cụ chiến lược để phát triển
hay tái cơ cấu lại công ty chứng khoán, do sau khi sáp nhập, mua lại
lợi ích của các bên tham gia thu được là rất lớn. Đó là sự tăng cường
hiệu quả kinh tế nhờ quy mô khi tăng thị phần, giảm chi phí cố định,
chi phí nhân lực... Các công ty chứng khoán hợp nhất còn bổ sung cho
nhau những thế mạnh của mình như thương hiệu, cơ sở khách hàng những yếu tố rất quan trọng trong kinh doanh chứng khoán.
Các tập đoàn đầu tư nước ngoài cũng đang có ý định thâu tóm
các công ty chứng khoán Việt Nam thông qua việc mua lại cổ phần.
Tuy nhiên, theo các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, các tổ chức
nước ngoài chỉ được phép sở hữu tối đa 49% cổ phần của các CTCK.
Các hành vi nói trên không phải là các hành vi tập trung kinh tế chịu
sự điều chỉnh trực tiếp của Luật Cạnh tranh. Bởi khi xem xét thị phần
của các CTCK tại phần I thì hiện nay không thể xảy ra trường hợp
doanh nghiệp sau khi tiến hành tập trung kinh tế có thị phần kết hợp
trên thị trường liên quan chiếm trên 30%.
3.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là một trong hai bộ
phận cấu thành pháp luật về cạnh tranh nói chung. Pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh ngăn chặn những mưu toan tạo ra lợi thế
không chính đáng cho một bên trong tương quan cạnh tranh, buộc các
đối thủ cạnh tranh phải tham gia kinh doanh một cách bình đẳng và
công bằng.

Trong số các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, một số hành
vi thể hiện sự xâm hại trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh như xâm phạm
bí mật kinh doanh, gièm pha, quấy rối doanh nghiệp khác, một số
hành vi có thể ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh, đồng thời lại vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng
cáo và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Đối với hoạt
động cạnh tranh của các CTCK cũng có xuất hiện một số hành vi có
dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh như: tung tin đồn sai sự thật về
hoạt động của CTCK, một số công ty chứng khoán khuyến mãi miễn


100

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

phí giao dịch cho NĐT. Bên cạnh đó còn xuất hiện hiện tượng các
CTCK thao túng và làm giá cổ phiếu. Có tiềm lực tài chính cộng với
khả năng nắm trước được thông tin, một số CTCK tự mình hoặc bắt
tay với các Quỹ đầu tư tiến hành mua, bán cổ phiếu để đẩy giá lên thu
lợi nhuận. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới các NĐT trên thị trường,
đặc biệt là các NĐT cá nhân. Luật Chứng khoán cũng có quy định
cấm các CTCK thực hiện hành vi này.
Có thể thấy rằng trong thực tiễn lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán có một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang các yếu tố
đặc thù và đã được quy định trong Luật Chứng khoán là những hành
vi bị cấm đối với CTCK. Vấn đề đặt ra ở đây là cần bổ sung những
quy định cụ thể về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
kinh doanh chứng khoán về cả khái niệm và hình thức xử lý để phù
hợp với các quy định trong Luật Cạnh tranh.
4. Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh trên thị trường

kinh doanh chứng khoán trong mối liên hệ với Luật Chứng khoán
và các luật có liên quan
Trong hoạt động kinh doanh cung ứng các dịch vụ trên thị trường,
các CTCK cũng có những hành vi tạo ra sự cạnh tranh thiếu bình đẳng.
Tuy nhiên, nếu xem xét dưới góc độ của Luật Cạnh tranh thì các hành
vi này không thuộc diện điều chỉnh của Luật. Trong thời gian vừa qua
các cơ quan quản lý nhà nước đã phối hợp chặt chẽ trong việc xây dựng
hành lang pháp lý cũng như kiểm soát hoạt động kinh doanh của CTCK
để ngăn ngừa các hành vi phản cạnh tranh trên thị trường.
UBCKNN và Cục Quản lý cạnh tranh đã phối hợp trong việc
xây dựng dự thảo hướng dẫn về việc hợp nhất, sáp nhập, mua bán các
tổ chức kinh doanh chứng khoán. Việc xây dựng dự thảo này đáp ứng
đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn khi mà nhiều CTCK hoạt động không
hiệu quả trên thị trường đã quyết định sáp nhập hay bán lại cổ phần
cho các tổ chức khác. Để hướng dẫn các CTCK thực hiện hoạt động
này cho phù hợp với các quy định của Luật Chứng khoán cũng như
Luật Cạnh tranh, cần phải có những quy định cụ thể. Trong Dự thảo,
đã có các quy định dẫn chiếu tới Luật Cạnh tranh trong một số trường
hợp sáp nhập, hợp nhất các CTCK phải xin ý kiến cơ quan quản lý
cạnh tranh trước khi nộp hồ sơ lên UBCKNN.


Chứng khoán

101

Tuy nhiên, để thực thi Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán còn thiếu một số quy định cụ thể như:
- Cách tính thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan.
Các lĩnh vực liên quan đến dịch vụ tài chính như bảo hiểm và các tổ chức

tín dụng, đã được quy định cụ thể về cách tính doanh thu tại Nghị định
116/2005/NĐ-CP nhưng đối với lĩnh vực kinh doanh chứng khoán thì
hiện nay chưa có, mặc dù lĩnh vực này cũng có những đặc thù riêng.
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán có những khác biệt so với các lĩnh vực dịch vụ tài
chính khác, nên cần có những quy định cụ thể cho phù hợp với Luật
Cạnh tranh và Luật Chứng khoán
- Tiêu chí để xác định một CTCK có sức mạnh thị trường để có
thể gây ra các hành vi hạn chế cạnh tranh. Dịch vụ kinh doanh chứng
khoán có những đặc thù riêng, một doanh nghiệp hoạt động trên thị
trường muốn nắm giữ vị trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền không chỉ
căn cứ vào thị phần và hơn thế nữa, khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể cũng là một yếu tố cần được quy định rõ đối với
lĩnh vực này.
IV. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ KHUYẾN NGHỊ
1. Đánh giá về môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán
Mức độ tập trung trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán cho
thấy thị trường chứng khoán có mức độ tập trung không cao. Điều này
đồng nghĩa với việc tính cạnh tranh giữa các CTCK ngày càng tăng.
Kinh doanh chứng khoán là lĩnh vực dịch vụ liên quan đến tài chính
nên uy tín cũng như tên tuổi của các doanh nghiệp có ảnh hưởng nhiều
đến khách hàng khi lựa chọn nhà cung ứng. Bên cạnh đó, nhiều công
ty chứng khoán dù ra đời sau nhưng vẫn có chỗ đứng trên thị trường,
chiếm được mức thị phần tương đối, san sẻ thị phần của nhóm CTCK
đứng đầu.
Phương thức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán
khá đa dạng, từ mức phí cho đến các dịch vụ hỗ trợ cho NĐT. Nhóm
các CTCK ra đời sau thường áp dụng cách thức cạnh tranh dựa trên
mức phí nhưng không mang lại hiệu quả do điều mà NĐT quan tâm là



102

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

các hỗ trợ về tài chính và thông tin trên thị trường. Điều này mang lại
lợi thế cạnh tranh cho các CTCK có tiềm lực mạnh về tài chính và đội
ngũ nhân sự.
Các dấu hiệu của hành vi phản cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán chưa xuất hiện nhiều, chủ yếu là các hành vi có
dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh như tung tin đồn, khuyến mãi
nhằm mục đích lôi kéo khách hàng.
2. Khuyến nghị
Thực tiễn kinh nghiệm quốc tế và tại Việt Nam cho thấy, khả
năng xảy ra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hoạt động của các
CTCK là rất ít và hầu như là không có. Do đó, các khuyến nghị chủ
yếu tập trung vào 2 nhóm vấn đề chính sau đây: hoàn thiện hành lang
pháp lý liên quan đến hoạt động cạnh tranh giữa các CTCK cho phù
hợp với Luật Cạnh tranh và Luật Chứng khoán; cơ chế phối hợp và
thực thi pháp luật giữa cơ quan cạnh tranh và cơ quan quản lý thị
trường chứng khoán.
2.1. Về môi trường pháp lý
Luật Cạnh tranh điều chỉnh 2 nhóm hành vi phản cạnh tranh
(bao gồm hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh). Thực
tiễn trên TTCK Việt Nam cũng như kinh nghiệm quốc tế cho thấy,
hoạt động cạnh tranh giữa các CTCK có nguy cơ nảy sinh và xuất
hiện nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhiều hơn. Luật
Chứng khoán đã có quy định liên quan đến các hành vi này nhưng
chưa thực sự rõ ràng và hơn nữa do hoạt động kinh doanh chứng

khoán có những đặc thù riêng. Do đó, UBCKNN cần bổ sung các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán bị cấm và quy định chi tiết các hành vi này cho phù
hợp với pháp luật cạnh tranh.
Như phần trên đã phân tích, đối với hành vi hạn chế cạnh tranh,
một yếu tố rất quan trọng sẽ được xem xét để căn cứ vào đó quyết
định mức độ vi phạm pháp luật cạnh tranh đó là thị phần trên thị
trường liên quan. Đối với những lĩnh vực tài chính đặc thù như bảo
hiểm hay ngân hàng, đã có những quy định riêng về cách tính thị phần
đối với doanh nghiệp tại Nghị định số 116/2007/NĐ-CP. Kinh doanh
chứng khoán mang những đặc điểm riêng khác biệt so với các lĩnh vực
sản xuất hay dịch vụ khác, do đó rất cần có những quy định cụ thể cả


Chứng khoán

103

về tính doanh thu của doanh nghiệp cũng như xác định thị trường liên
quan. Tuy nhiên, thị phần không phải là yếu tố quyết định khi xét tới
sức mạnh thị trường của một doanh nghiệp. Tại Nghị định số
116/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh
tranh đã nêu rõ một số yếu tố khiến doanh nghiệp có khả năng cạnh
tranh đáng kể trên thị trường. Tùy từng ngành, từng lĩnh vực sẽ căn cứ
vào đó có sự áp dụng cho phù hợp. Kinh doanh chứng khoán cũng
không phải là ngoại lệ.
Thông tư hợp nhất, sáp nhập, mua bán các tổ chức kinh doanh
chứng khoán được xây dựng căn cứ trên một số luật và văn bản hướng
dẫn, trong đó có Luật Cạnh tranh, nên các quy định trong Thông tư
cần nhất quán và phù hợp với quy định của Luật Cạnh tranh về nội

dung “tập trung kinh tế”. Bên cạnh đó, các quy định cụ thể căn cứ
theo quy định của Luật Cạnh tranh cũng cần được nhất quán trong
toàn bộ văn bản của Thông tư như các khái niệm về hợp nhất, sáp
nhập, thị phần, thị phần kết hợp, mua, bán tổ chức kinh doanh chứng
khoán. Cụ thể như sau:
 Về hợp nhất (Mục II)
- Điểm 2.7, Mục II quy định về thông báo việc tập trung kinh tế,
đề nghị sửa lại cho phù hợp với Điều 18, 19, 20 của Luật Cạnh tranh
như sau:
a/ Tổ chức kinh doanh chứng khoán tham gia hợp nhất phải
thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh theo quy định tại Luật Cạnh
tranh trong trường hợp tổ chức kinh doanh chứng khoán hợp nhất có
thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan (cần bổ
sung khái niệm thị trường liên quan. Tại điều 152,153 Luật Doanh
nghiệp cũng quy định thị phần trên thị trường liên quan).
b/ Trong trường hợp thị phần kết hợp của tổ chức kinh doanh
chứng khoán hợp nhất chiếm hơn 50% trên thị trường liên quan mà
thuộc đối tượng miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm, phải làm
thủ tục thực hiện các trường hợp miễn trừ quy định tại Mục 4, Chương
II - Luật Cạnh tranh.
Theo quy định của Luật Cạnh tranh, các giao dịch tập trung
kinh tế (trong đó có hợp nhất) có thị phần kết hợp hơn 50% trên thị


104

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

trường liên quan bị cấm, trừ trường hợp miễn trừ nên cần có quy
định rõ như trên.

- Điểm 3.1/p, Mục II: Đề nghị sửa lại cho rõ như sau: “Ý kiến
bằng văn bản của cơ quan quản lý cạnh tranh theo quy định tại điểm
2.7 khoản 2 Mục này. Trường hợp hợp nhất thuộc đối tượng không
phải thông báo cơ quan quản lý cạnh tranh thì đại diện hợp pháp của
tổ chức kinh doanh chứng khoán phải có văn bản giải trình lý do.”
 Về sáp nhập (Mục III)
Tương tự, Thông tư cũng cần có những sửa đổi như trên đối với
hoạt động sáp nhập tại các điểm 2.7/a, b và điểm 3.1/q.
 Về bán tổ chức kinh doanh chứng khoán (Mục V)
Theo khái niệm mua, bán tổ chức kinh doanh chứng khoán tại
điểm 2.7, Mục I của Dự thảo, việc mua, bán tổ chức kinh doanh chứng
khoán thuộc loại hình mua lại doanh nghiệp thuộc tập trung kinh tế
(Điều 17, Luật Cạnh tranh). Vì vậy, Mục V cũng cần có các quy định
về thủ tục thông báo tập trung kinh tế/miễn trừ đối với loại hình tập
trung kinh tế này. Hiện nay, trong Dự thảo không có các quy định này.
UBCKNN cũng cần nhanh chóng ban hành các quy định hướng
dẫn các dịch vụ mà CTCK được phép tiến hành để đáp ứng nhu cầu
phát triển của thị trường và tránh được sự cạnh tranh bất bình đẳng
trong hoạt động kinh doanh.
2.2. Sự phối hợp giữa 2 cơ quan - UBCKNN và Cục QLCT
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự hợp tác và phối hợp giữa cơ
quan quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý thị trường chứng khoán là
hết sức cần thiết. Nó không chỉ giúp cho việc kiểm soát hoạt động cạnh
tranh giữa các CTCK mà còn nhằm mục đích quản lý thị trường chung,
đặc biệt liên quan đến các giao dịch M&A trên TTCK. Có thể nói đây
là một kênh thông tin rất hữu ích mà các cơ quan quản lý cạnh tranh tại
nhiều nước phát triển đã sử dụng (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc). Khi
mà các dấu hiệu phản cạnh tranh giữa các CTCK chưa xuất hiện trên thị
trường Việt Nam thì vấn đề đáng quan tâm của hai cơ quan là quản lý
các giao dịch M&A trên TTCK. Trong thời gian vừa qua, Cục QLCT

và UBCKNN đã phối hợp và hợp tác trong nhiều hoạt động, nhưng cần
phải có một cơ chế hợp tác cụ thể được quy định rõ ràng.


PHẦN C

DỊCH VỤ CHUYỂN PHÁT NHANH
I. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ CHUYỂN
PHÁT TẠI VIỆT NAM
1. Thị trường liên quan
1.1. Thị trường sản phẩm liên quan
Luật Cạnh tranh quy định, thị trường sản phẩm liên quan là thị
trường của những hàng hóa có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục
đích sử dụng và giá cả. Đối với thị trường chuyển phát, hiện Luật Bưu
chính không có định nghĩa cụ thể về dịch vụ này mà chỉ có các quy
định về hoạt động bưu chính nói chung. Trong đó, “hoạt động bưu
chính” được hiểu là các hoạt động đầu tư, kinh doanh, cung ứng, sử
dụng dịch vụ bưu chính, dịch vụ bưu chính công ích và tem bưu chính.
Ngành bưu chính được phân chia thành hai nhóm chủ yếu, đó là dịch
vụ bưu chính công ích và dịch vụ bưu chính ngoài công ích18.
Dịch vụ bưu chính là “dịch vụ chấp nhận, vận chuyển và phát
bưu gửi bằng các phương thức từ địa điểm của người gửi đến địa điểm
của người nhận qua mạng bưu chính, trừ phương thức điện tử”; dịch
vụ bưu chính công ích là “dịch vụ bưu chính cung cấp theo yêu cầu
của Nhà nước, gồm dịch vụ bưu chính phổ cập, dịch vụ bưu chính
phục vụ quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ đặc thù khác”19. Dịch vụ
chuyển phát là một phân nhánh thuộc dịch vụ bưu chính, nhưng là
dịch vụ sinh lời mang tính cạnh tranh, do đó nó là dịch vụ bưu chính
ngoài công ích, có thể gọi dưới tên gọi khác là dịch vụ bưu chính
chuyển phát. Trong phạm vi của báo cáo này, đối tượng nghiên cứu

chủ yếu là dịch vụ bưu chính chuyển phát (dịch vụ bưu chính ngoài
công ích). Dịch vụ bưu chính chuyển phát bao gồm: dịch vụ bưu
18
19

Luật Bưu chính - số 49/2010/QH12
Luật Bưu chính - số 49/2010/QH12


106

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

phẩm, dịch vụ bưu kiện chuyển phát hàng hóa và dịch vụ chuyển phát.
Trong thị trường này, dịch vụ được cung cấp tương đối đa dạng,
nhưng nhìn chung, tính chất “chuyển phát hàng hóa đến tay người
nhận” của dịch vụ này không có nhiều khác biệt, do đó thị trường sản
phẩm liên quan là thị trường bưu chính ngoài công ích hay thị trường
dịch vụ chuyển phát.
1.2. Thị trường địa lý liên quan
Về cơ bản, đối với dịch chuyển phát, đối tượng của dịch vụ
(thông tin dưới dạng văn bản hoặc kiện, gói hàng hóa) có thể được
gửi/nhận trong phạm vi nội địa hoặc gửi/nhận giữa Việt Nam và các
nước khác. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ người sử dụng dịch vụ
(người tiêu dùng) thì có thể cho rằng thị trường địa lý là toàn bộ lãnh
thổ20 Việt Nam.
Như vậy, thị trường liên quan21 được nghiên cứu là “Thị trường
dịch vụ chuyển phát trên toàn lãnh thổ Việt Nam”.
2. Quy mô thị trường
Biểu đồ dưới đây cho thấy các doanh nghiệp hoạt động trên thị

trường dịch vụ chuyển phát có sự tăng trưởng đều đặn về doanh thu
trong giai đoạn từ 2010 - 2012. Mặc dù trong giai đoạn này nền kinh
tế vĩ mô gặp nhiều khó khăn nhưng quy mô của thị trường này đã
được mở rộng mạnh. Doanh thu22 năm 2011 tăng 55,4% so với năm
2010, năm 2012 tăng 24,76% so với 2011. Như vậy, chỉ sau 2 năm,
dung lượng thị trường (tính theo doanh thu) tăng gần gấp đôi và được
dự đoán là sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh trong những năm sắp tới.

20

Bao gồm các đảo, quần đảo, vùng chủ quyền, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

21

Thị trường liên quan xác định trong phần này chỉ có ý nghĩa tham khảo và phục
vụ cho nghiên cứu đánh giá về thực trạng cạnh tranh. Để xác định chính xác thị
trường liên quan đối với một vụ việc hạn chế cạnh tranh (bao gồm tập trung kinh tế)
cần tiến hành theo đúng trình tự Luật Cạnh tranh 2005.
22

Lưu ý rằng số liệu doanh thu dưới đây là doanh thu của các doanh nghiệp trên thị
trường, trong đó bao gồm doanh thu lĩnh vực bưu chính công ích của Tổng Công ty
Bưu chính Việt Nam.


107

Dịch vụ chuyển phát nhanh

Biểu đồ 14: Doanh thu của các doanh nghiệp hoạt động trên thị

trường chuyển phát giai đoạn 2010 - 2012
5,000,000
4,500,000

4,069,936

4,000,000
3,500,000

3,262,166
3,000,000

Doanh thu (tr. VNĐ)

2,500,000
2,000,000

2,099,220

1,500,000
1,000,000
2010

2011

2012

Nguồn: Tổng cục Thống kê

3. Cấu trúc thị trường

3.1. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường
Trên thị trường chuyển phát hiện có khoảng 28523 doanh nghiệp
đang hoạt động, tuy nhiên chỉ có khoảng 7924 doanh nghiệp chuyển
phát hay doanh nghiệp bưu chính ngoài công ích được chính thức cấp
phép hoạt động, các doanh nghiệp còn lại chưa đủ điều kiện hoặc
không đăng kí kinh doanh. Ngoài ra, còn có một bộ phận không nhỏ
loại hình kinh doanh kết hợp với các hãng xe vận tải.
Mặc dù nhu cầu thị trường chuyển phát chịu ảnh hưởng nhất
định do sự suy giảm của tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng nhìn chung
số lượng doanh nghiệp vẫn tăng ổn định. Chỉ trong vòng 2 năm, từ
2010 đến hết năm 2012, số lượng doanh nghiệp đã tăng gần gấp 3 (từ
109 lên 285 doanh nghiệp).

23
24

Số liệu của Tổng cục Thống kê
Theo Sách trắng của Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2013


108

Đánh giá cạnh tranh trong một số ngành dịch vụ của Việt Nam

Biểu đồ 15: Số lượng doanh nghiệp hoạt động trên thị trường
chuyển phát giai đoạn 2010 - 2012
285

300
250


215

200
150
109
100
50
0

2010

2011

2012

Nguồn: Tổng cục Thống kê

3.2. Thị phần và mức độ tập trung trên thị trường
Theo thống kê có 285 doanh nghiệp đang hoạt động trên thị
trường (79 doanh nghiệp chính thức được cấp phép hoạt động bưu
chính), nhưng thị phần chỉ tập trung vào một số ít doanh nghiệp. Liên
tục trong các năm từ 2010 đến 2012, các doanh nghiệp nắm giữ thị
phần lớn là DHL - VNPT (khoảng 20% thị phần), Viettel Post, TNT,
UPS, Fedex, Chuyển phát nhanh Bưu điện.
Bảng 5: Thị phần của các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường trong
lĩnh vực dịch vụ chuyển phát năm 2010
STT

Doanh nghiệp


Doanh thu
(tr.VNĐ)

Thị phần
(%)

1

Công ty TNHH Chuyển phát nhanh
DHL-VNPT

503.607

23,99

2

Công ty CP Chuyển phát nhanh Bưu
Điện

374.471

17,83

3

Công ty LD TNT VIETRAN WORL
DE


302.080

14,39

4

Công ty CP Bưu chính Viettel

280.736

13,37


109

Dịch vụ chuyển phát nhanh

5

Công ty CP Chuyển phát nhanh Tín
Thành

87.879

4,19

6

Công ty TNHH Chuyển phát nhanh
Thành Đạt


87.009

4,14

7

Công ty TNHH TM&DV Song Bình
(Fedex)

78.375

3,73

8

Công ty CP Chuyển phát nhanh Hợp
Nhất

67.898

3,23

9

Công ty CP Chuyển phát nhanh Hợp
Nhất Miền Bắc

40.289


1,92

10

Công ty TNHH Đầu Tư TM&DV
Vận tải quốc tế

29.780

1,42

Nguồn: Tổng cục thống kê

Biểu đồ 16: Thị phần của các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường
trong lĩnh vực dịch vụ chuyển phát năm 2010

Công Ty TNHH Chuyển phát nhanh DHL-VNPT
23.99%
Công ty CP Chuyển phát nhanh Bưu Điện 17.83%

1.92
3.23
3.73
4.14
4.19

1.42

Công ty LD TNT VIETRAN WORL DE 14.39%


11.79

23.99

Công ty CP Bưu Chính Viettel 13.37%
Công ty CP Chuyển phát nhanh Tín Thành 4.19%

17.83

13.37
14.39

Công ty TNHH Chuyển phát nhanh Thành Đạt 4.14%
Công ty TNHH TM&DV Song Bình (Fedex) 3.37%
Công ty CP Chuyển phát nhanh Hợp Nhất 3.23%
Công ty CP Chuyển phát nhanh Hợp Nhất Miền Bắc
1.92%
Công ty TNHH Đầu tư TM&DV Vận tải Quốc Tế
1.42%
Doanh nghiệp khác 11.79%


×