ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––
ĐẶNG THỊ NGỌC LINH
CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ
TRONG “TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC”
CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT
NGỮ NGHĨA, NGỮ PHÁP, NGỮ DỤNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––
ĐẶNG THỊ NGỌC LINH
CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ
TRONG “TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC”
CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT
NGỮ NGHĨA, NGỮ PHÁP, NGỮ DỤNG
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 8.22.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Lộc
THÁI NGUYÊN - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ là công trình nghiên cứu của bản thân.
Các kết quả, số liệu trình bày trong luận văn là đúng sự thật, nguồn gốc rõ ràng.
Thái Nguyên, ngày 01 tháng 06 năm 2020
Tác giả
Đặng Thị Ngọc Linh
i
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trong bộ môn
Ngôn ngữ Việt Nam,Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã dành thời gian
góp ý giúp tôi hoàn thiện luận văn của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người đã tận tình
chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, các học viên cùng lớp Ngôn ngữ Việt Nam và đã tạo
điều kiện, động viên, giúp đỡ tôi trong ngày tháng học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn các nhà khoa học trong và ngoài trường; các đồng nghiệp đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong công việc để hoàn thành luận văn này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng năng lực bản thân còn hạn chế, luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
quý báu của quý thầy cô, các nhà khoa học và đồng nghiệp.
Thái Nguyên, ngày 01 tháng 6 năm 2020
Học viên
Đặng Thị Ngọc Linh
ii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2
5. Dự kiến đóng góp của đề tài ............................................................................ 3
6. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................... 3
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÍ LUẬN ............................................................................................................ 4
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 4
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu ..................................................................... 4
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu không đầy đủ .............................................. 9
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan.................. 12
1.2. Cơ sở lí luận................................................................................................ 16
1.2.1. Một số vấn đề khái quát về câu ............................................................... 16
1.2.2. Câu không đầy đủ .................................................................................... 24
1.2.3. Vài nét về Nguyễn Công Hoan và “Truyện ngắn chọn lọc” ...................
29
1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 33
Chương 2: CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP .............. 34
2.1. Nhận xét chung ........................................................................................... 34
2.2. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược................................... 36
2.2.1. Xác định câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược .................
36
3
2.2.2. Vấn đề phân biệt câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược với
câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu............................................ 38
2.2.4. Các kiểu câu tỉnh lược ............................................................................. 40
2.2.5. Vấn đề khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược ......................................... 52
2.3. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu .................................... 57
2.3.1. Câu không đầy đủ vốn là vị ngữ được tách ra thành câu ........................ 57
2.3.2. Câu không đầy đủ vốn là trạng ngữ được tách ra.................................... 59
2.3.3. Câu không đầy đủ vốn là vế câu được tách ra......................................... 60
2.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 61
Chương 3: CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA,
NGỮ DỤNG .................................................................................................... 63
3.1. Dẫn nhập..................................................................................................... 63
3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa ................................................... 63
3.2.1. Tính không đầy đủ hay tính phụ thuộc về ngữ nghĩa của câu không đầy đủ
63
3.2.2. Các kiểu câu tỉnh lược nghĩa ở câu không đầy đủ................................... 65
3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng (giao tiếp, ngữ pháp giao tiếp) ... 70
3.3.1. Cấu trúc thông tin của câu không đầy đủ ................................................ 71
3.3.2. Cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ................................................ 75
3.3.3. Câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo ..................................... 79
3.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 84
KẾT LUẬN....................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 87
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Câu không đầy đủ là câu có sự lược bỏ hoặc thiếu vắng một hay một
số thành phần bắt buộc trong câu.
1.2. Trong các loại văn bản, đặc biệt là trong văn bản nghệ thuật, câu
không đầy đủ được dùng khá phổ biến. Do có những nét đặc sắc về cấu tạo và
ý nghĩa mà từ lâu, câu không đầy đủ đã thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu.
1.3. Trong số các tác giả văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Công Hoan
là một trong những nhà văn hiện thực có những đóng góp xuất sắc trong đó có
những đóng góp về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm của ông đã được
giảng dạy trong các trường đại học cũng như trường phổ thông. Do đó, việc
nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan về nội dung và nghệ thuật,
trong đó có cách dùng từ đặt câu, không chỉ làm rõ những đóng góp của tác giả
vào nền văn học nước nhà mà còn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của
việc nghiên cứu, dạy học tác phẩm của ông trong nhà trường.
1.4. Đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về câu không
đầy đủ từ nhiều góc độ khác nhau nhưng riêng việc nghiên cứu về câu không
đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ
pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng hầu như chưa được chú ý.
1.5. Theo chúng tôi, việc nghiên cứu câu không đầy đủ trong “Truyện
ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ
dụng có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn.
Về lý luận, việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ đặc điểm của câu
không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan về các
mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng; qua đó, góp phần bổ sung một số khía
cạnh lý thuyết về câu nói chung, câu không đầy đủ nói riêng với tư cách là đơn
vị đa bình diện theo cách nhìn của ngữ pháp chức năng.
1
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài này cung cấp một tài liệu tham
khảo hữu ích, cần thiết đối với việc nghiên cứu và dạy học về ngữ pháp nói
riêng, về ngữ văn nói chung.
1.6. Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài:
Câu không đầy đủ trong “ Truyện ngắn chọn lọc”của Nguyễn Công Hoan xét
về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ
trong “ Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan; qua đó, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả của việc nghiên cứu, dạy học tiếng Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập cơ sở lí luận của đề tài.
- Thống kê, phân loại câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc”
của Nguyễn Công Hoan.
- Miêu tả, làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn
chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là câu không đầy đủ trong “Truyện
ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đặc điểm của câu không đầy đủ trong
“Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan về các mặt: ngữ pháp (kết
học), nghĩa học và dụng học.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là phương pháp miêu
tả với các thủ pháp phù hợp như : thống kê, phân loại, phân tích ngữ pháp, ngữ
nghĩa, mô hình hóa, lược bỏ, thay thế, bổ sung.
2
5. Dự kiến đóng góp của đề tài
- Về lí luận : Qua việc miêu tả làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ
trong “ Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp,
ngữ nghĩa, ngữ dụng; đề tài góp phần bổ sung một số khía cạnh lí thuyết về câu
nói chung, câu không đầy đủ nói riêng trong tiếng Việt theo quan điểm ngữ
pháp chức năng (trên cứ liệu một tác phẩm văn học của một tác giả cụ thể).
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong việc dạy học tiếng Việt và dạy học văn học trong nhà trường.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.2. Cơ sở lí luận
1.3. Tiểu kết
CHƯƠNG 2. CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP
2.1. Dẫn nhập
2.2. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng thủ pháp lược bỏ
2.3. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng thủ pháp tách câu
2.4. Tiểu kết
CHƯƠNG 3. CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA,
NGỮ DỤNG
3.1. Dẫn nhập
3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa
3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng
3.4. Tiểu kết
KẾT LUẬN
3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu
1.1.1.1. Các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu về cú pháp
Vấn đề này đã được Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến tổng kết trong
cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [20]. Dựa vào ý kiến của các tác giả trong công trình
này, có thể nêu tóm tắt các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu tiếng
Việt về cú pháp như sau:
1) Khuynh hướng truyền thống
a) Các tác giả chính và nội dung
Theo Nguyễn Văn Lộc, trong việc phân tích câu về mặt cú pháp, khuynh
hướng truyền thống luôn giữ vai trò chủ đạo với những công trình tiêu biểu của
các tác giả như Hoàng Tuệ [49], Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê [6],
Nguyễn Kim Thản [32],[33],[34],[35] I.X. Bưxtrov, Nguyễn Tài Cẩn [4], N.V.
Stankevich [17], Hoàng Trọng Phiến [22], Diệp Quang Ban [1],[2] .
Nét chung đồng thời cũng là nét cơ bản của cách phân tích câu truyền
thống là thừa nhận chủ ngữ, vị ngữ là hai thành phần chính (nòng cốt) của câu
và ngoài hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ, câu còn có các thành phần
phụ như trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ... Cách phân tích câu theo quan niệm trên
đây có tính phổ biến nhất không chỉ trong Việt ngữ học mà cả trong ngôn ngữ
học nước ngoài.
b) Đánh giá
- Về ưu điểm: Cách phân tích câu theo truyền thống đã phản ánh tương
đối đầy đủ và trung thực tổ chức cú pháp của câu. Nó đã đưa ra được một bức
tranh về thành phần câu tương đối phù hợp với cảm nhận của người bản ngữ.
Về mặt thực tiễn, hệ thống khái niệm ngữ pháp nói chung và hệ thống thành
phần câu nói riêng của ngữ pháp học truyền thống đã giúp cho người học nắm
4
được một cách khá thuận lợi tổ chức ngữ pháp của câu và có thể vận dụng có
hiệu quả trong nói, viết. Sự tồn tại lâu dài và tính ổn định tương đối của hệ
thống khái niệm ngữ pháp truyền thống chứng tỏ giá trị lí luận và thực tiễn to
lớn của nó.
- Về hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm trên đây, cách phân tích câu theo
truyền thống cũng còn những hạn chế nhất định như N.I. Tjapkina đã nhận xét:
"Trong khuôn khổ của quan niệm truyền thống, việc miêu tả một cách không
mâu thuẫn hệ thống thành phần câu vẫn chưa đạt được; hơn nữa, vẫn chưa có
được cả phương pháp cho phép định nghĩa một cách không mâu thuẫn thành
phần câu như là thể thống nhất của hình thức và nội dung của nó" (Dẫn theo
[20,194]).
Những hạn chế của khuynh hướng truyền thống khiến nhiều tác giả đã cố
gắng tìm tòi, đề xuất những cách phân tích mới.
2) Một số công trình theo hướng tìm tòi mới
a) Cách phân tích câu theo quan điểm ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo
Trong những hướng tìm tòi mới, cách phân tích câu theo quan điểm ngữ
pháp chức năng của Cao Xuân Hạo là một trong những hướng đáng chú ý.
Ảnh hưởng tư tưởng của Ch.L. Li và S.A. Thompson về tính thiên chủ đề
của một số ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt, trong công trình Tiếng Việt Sơ
thảo ngữ pháp chức năng (1991), Cao Xuân Hạo không thừa nhận cấu trúc chủ
vị là cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Theo ông, cấu trúc cú pháp cơ
bản và duy nhất của câu tiếng Việt là cấu trúc đề thuyết. Công trình trên đây
của Cao Xuân Hạo được coi là sự mở đầu cho một hướng mới trong nghiên cứu
câu tiếng Việt: hướng nghiên cứu câu theo bình diện giao tiếp (cú pháp giao
tiếp, thông báo, ngữ dụng) mà trước đó còn ít được chú ý. Tuy nhiên, theo
Nguyễn Văn Lộc, cách phân tích, phân loại câu theo đề thuyết mà Cao Xuân
Hạo chủ trương không loại trừ và thay thế cách phân tích câu theo bình diện cú
pháp như một số tác giả đã chỉ ra [10, 15].
5
b) Cách phân tích câu theo đề- thuyết của Hồ Lê
Cũng chủ trương phân tích câu theo đề- thuyết, Hồ Lê dựa vào các kiểu
quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trực tiếp tạo nên cấu trúc câu để phân loại
câu. Theo ông, ngoài câu một thành phần hay câu gọi tên (thí dụ: Mùa xuân.),
các câu hai thành phần đều có cấu tạo đề thuyết và bao gồm bốn kiểu:
- Câu chủ -vị (chủ ngữ - vị ngữ)
Ví dụ: Ông Ba đi họp.
- Câu đề - ứng (đề ngữ - ứng ngữ)
Ví dụ: Quyển sách này, ông Ba mới mua.
- Câu cách thức - hành động (thức ngữ - hành động ngữ)
Ví dụ: Một cách chậm rãi, ông Ba bắt đầu kể chuyện.
- Câu điều kiện - hệ quả (điều kiện ngữ - hệ quả ngữ)
Ví dụ: Nhờ gia đình chăm sóc tốt nên ông Ba chóng bình phục. (Dẫn theo [20,
194-195])
Theo nhận xét của Nguyễn Văn Lộc, đề xuất trên đây của Hồ Lê chưa
thật sự xuất phát từ bản chất cú pháp của câu và thành phần câu (từ ý nghĩa cú
pháp và hình thức cú pháp tương ứng) và chính điều đó không cho phép phân
biệt các biến thể khác nhau của một kiểu câu.
Ví dụ:
Ông Ba mới mua quyển sách này.
→ Quyển sách này, ông Ba mới mua. [ 20,195].
c) Cách phân tích câu của Trần Ngọc Thêm
Trong giải pháp của Trần Ngọc Thêm, mặc dù, cặp đề - thuyết cũng được
sử dụng để phân tích câu nhưng khác với các tác giả khác, ông vẫn sử dụng các
khái niệm truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ. Tác giả cho
rằng cặp chủ đề - thuật đề (cặp đề - thuyết) không đồng nhất với cặp chủ ngữ vị ngữ cũng như cặp nêu - báo (cái đã biết - cái mới) [40, 48 - 49].
Về cách phân tích này, Nguyễn Văn Lộc đã nhận xét: với việc đưa các
khái niệm đề - thuyết vào việc phân tích câu mà vẫn giữ lại các khái niệm
6
truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ..., cách phân tích của Trần
Ngọc Thêm đã gợi mở một hướng nghiên cứu phù hợp, theo đó, cấu trúc của
câu như là đơn vị đa bình diện có thể được xem xét đồng thời theo các bình
diện khác nhau, nghĩa là việc phân tích câu theo đề - thuyết không loại trừ cách
phân tích câu theo cấu trúc chủ vị. [20,195].
d) Cách phân tích câu của V.S.Panfilov (coi vị ngữ là đỉnh của câu)
V.S. Panfilov là tác giả có cách nhìn nhận có nhiều điểm khác với cách
nhìn nhận truyền thống. Xem xét vấn đề thành phần câu dựa vào "những khái
niệm xuất phát về cú pháp"được xác định, V.S. Panfilov quan niệm "thành
phần câu là phạm trù chức năng, đó là yếu tố có quan hệ hình thái - ngữ nghĩa
với vị ngữ hoặc với toàn bộ câu" [23,75]. Theo quan niệm này, hệ thống thành
phần câu được V.S. Panfilov xác định gồm các thành phần tiêu biểu như chủ
ngữ, bổ ngữ, định ngữ của vị ngữ và trạng ngữ. Vị ngữ mặc dù được coi là đỉnh
cú pháp của câu nhưng không được xếp vào số các thành phần câu. Theo
Nguyễn Văn Lộc, quan niệm trên đây của V.S. Panfilov thể hiện cách nhìn sâu
sắc đối với vấn đề cú pháp nói chung, vấn đề thành phần câu nói riêng. [20,195196].
Năm 2004, với công trình Thành phần câu tiếng Việt, Nguyễn Minh
Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp đã đưa ra giải pháp mới mẻ nhằm giải quyết triệt
để hơn vấn đề thành phần câu tiếng Việt [40, 122]. Công trình này được coi là
một dấu mốc quan trọng trong việc giải quyết vấn đề thành phần câu tiếng Việt.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Văn Lộc, cách xác định, phân tích thành phần câu thiên
hẳn về mặt hình thức của các tác giả, xét về mặt lí thuyết cũng như khả năng vận
dụng vào thực tiễn phân tích cú pháp, cũng còn những hạn chế nhất định như
Tomita Kenji đã nhận xét trong lời giới thiệu về công trình này [20,196].
3) Lí thuyết kết trị và vấn đề phân tích câu về cú pháp theo kết trị của từ
a) Vài nét về lí thuyết kết trị
Lí thuyết kết trị của L. Tesnière và cách vận dụng vào phân tích câu đã
được trình bày cụ thể trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc và
Nguyễn Mạnh Tiến (2017). Có thể nêu tóm tắt vấn đề này như sau:
7
Theo L. Tesnière, kết trị của động từ chính là thuộc tính hay khả năng
của động từ thu hút vào mình một số lượng nhất định các diễn tố (chủ ngữ, bổ
ngữ) cũng tương tự như khả năng của nguyên tử kết hợp với một số lượng xác
định các nguyên tử khác.
Có thể coi cách hiểu kết trị của động từ như trên đây của L. Tesnière là
cách hiểu hẹp về kết trị.
Dựa vào số lượng diễn tố mà động từ chi phối, L.Tesnière chia động từ
thành động từ không diễn tố hay động từ vô trị (verb avalent, ví dụ : mưa,
nắng, sáng, tối): , động từ một diễn tố hay động từ đơn trị (verb monovalent, ví
dụ: đi, chạy, nhảy, bơi… ), động từ hai diễn tố hay động từ song trị (verb
divalent, ví dụ: ăn, đọc, viết, đánh…), động từ ba diễn tố hay động từ tam trị
(verb trivalent, ví dụ: trao, tặng, mời, khuyên…) (dẫn theo Nguyễn Văn Lộc,
[20,199])
b) Các công trình vận dụng lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu về cú pháp
b1) Trong ngôn ngữ học nước ngoài
Theo Nguyễn Văn Lộc, sau khi ra đời, lí thuyết kết trị đã nhanh chóng
được phổ biến và được áp dụng rộng rãi vào việc phân tích ngữ pháp nói
chung, câu nói riêng. Những tư tưởng, khái niệm, thuật ngữ của lí thuyết kết trị
xuất hiện phổ biến trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học
nổi tiếng như: M.D. Stepanova (1973), O.I. Moskanskaja (1974), G. Helbig
(1978), A.A. Kholodovich (1979), N.I. Tjapkina (1980), S.M. Kibardina
(1982), A.M. Mukhin (1987), S.D. Kasnelson (1988)... [20,200].
Trong các tác giả trên đây, S.D. Kanelson là người đã có những kiến giải
sâu sắc về vấn đề vận lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu. Theo ông, thuộc
tính kết trị của vị từ là cơ sở để xác định các thành phần câu như chủ thể, đối
thể, hoàn cảnh (chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ). Đề cập đến cách xác định chủ thể
(chủ ngữ), S.D. Kanelson quan niệm "chủ thể (chủ ngữ) của câu đó hoặc là
tham tố (argument) duy nhất của vị từ một vị trí hoặc là một trong số các tham
8
tố của vị từ nhiều vị trí thường biểu hiện chức năng chủ đề." (Dẫn theo [20,
200]). Nguyễn Văn
9
Lộc cho rằng ý kiến trên đây của S.D. Kanelson là những gợi dẫn hết sức bổ
ích khi xác định chủ ngữ, bổ ngữ [20, 201]).
b2) Trong Việt ngữ học
Trong Việt ngữ học, lí thuyết kết trị và cách vận dụng lí thuyết này vào
việc nghiên cứu ngữ pháp nói chung, câu nói riêng đã được đề cập đến trong
các công trình của Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Quy, Đinh Văn Đức, Nguyễn
Văn Lộc, Nguyễn Văn Hiệp, Lâm Quang Đông và một số tác giả khác. Tuy
nhiên, ở hầu hết các tác giả này, lí thuyết kết trị và việc vận dụng vào phân tích
ngữ pháp chủ yếu được đề cập khi xem xét, miêu tả vị từ hoặc mặt ngữ nghĩa
(nghĩa biểu hiện) của câu. (Dẫn theo [20,202]).
Chỉ đến công trình của Nguyễn Mạnh Tiến (2016, Phân tích câu về cú
pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ [46]), vấn đề vận dụng lí thuyết kết trị
vào việc phân tích câu về cú pháp mới thực sự được đặt ra và được xem xét
một cách có hệ thống và chuyên sâu. Tài liệu này cũng là một trong những cơ
sở được dựa vào để triển khai một số nội dung quan trọng luận văn cụ thể là
vấn đề xác định thành phần chính của câu (vị ngữ) và thành phụ của câu (chủ
ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu không đầy đủ
Vấn đề câu không đầy đủ đã được đề cập đến trong một số công trình
của các tác giả nước ngoài và trong nước. Dưới đây tôi, xin nêu tóm tắt một số
quan niệm về vấn đề này.
1) Các quan niệm về câu không đầy đủ
a) Quạn niệm của L.Blum phin
Vấn đề phân chia câu bình thường thành câu đầy đủ (câu trọn vẹn) và
câu không đầy đủ (câu tỉnh lược) đã được đề cập đến từ lâu trong các công
trình nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung, về ngữ pháp nói riêng. L.Blum phin,
nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Mỹ cho rằng: "Có lẽ trong tất cả các ngôn
ngữ, câu đều được chia thành hai kiểu cơ bản có thể gọi là câu đầy đủ và câu
10
không đầy đủ (câu tỉnh lược)" (Dẫn theo [20,427]). Theo ông, câu đầy đủ là
câu có hình thức được ưa thích nhất, có tính thông dụng nhất, còn câu không
đầy đủ là những câu không có hình thức bình thường thông dụng nhất của câu
(Dẫn theo [20,427]).
b) Quan niệm của S.E.Jakhontov
S.E. Jakhontov, một nhà ngôn ngữ học người Nga, khi bàn về nguyên tắc
xác định thành phần câu trong tiếng Hán, đã đưa ra sự phân biệt câu trọn vẹn
(câu đầy đủ) và câu không trọn vẹn (câu không đầy đủ). Theo tác giả, câu
không trọn vẹn là câu:
- Chỉ có thể hiểu đúng trong ngữ cảnh cụ thể.
- Có thể biến nó thành câu không phụ thuộc vào ngữ cảnh bằng cách bổ sung
cho nó một hay một số từ. Tất cả những câu còn lại đều được coi là câu trọn
vẹn (Dẫn theo [20,427]).
Theo đánh giá của Nguyễn Văn Lộc, cách xác định câu trọn vẹn thông
qua câu không trọn vẹn của S.E. Jakhontov như trên đây được coi là có tính
khoa học, chặt chẽ và được nhiều tác giả tán thành, vận dụng. Đây cũng là quan
niệm mà tác giả luận văn tiếp thu khi xác định khái niệm câu không đầy đủ.
c) Quan niệm của Diệp Quang Ban
Diệp Quang Ban không sử dụng thuật ngữ câu không đầy đủ khi đề cập
đến những câu thiếu vắng một hay một số thành phần bắt buộc (chủ ngữ, vị
ngữ, bổ ngữ). Tác giả phân biệt hai loại câu: câu tỉnh lược và câu dưới bậc.
Sự khác nhau giữa hai loại câu này là ở chỗ:
- Ở câu tỉnh lược, thành phần bị lược bỏ có thể khôi phục lại được. Ví
dụ: “Của đáng mười Nhu chỉ bán được năm. Có khi Ø chẳng lấy được đồng
nào.” (Nam Cao). Trong câu vừa dẫn, thành phần bị lược bỏ là chủ ngữ (Nhu)
có thể khôi phục lại được.
- Ở câu dưới bậc yếu tố vắng mặt không thể khôi phụ lại một cách bình
thường. Ví dụ: “Huấn đi về trạm máy kéo. Một mình, trong đêm.” (Nguyễn
11
Thị Ngọc Tú). Câu vừa dẫn (in đậm) được coi là câu dưới bậc. Theo Diệp
Quang Ban, ở câu này không thể khôi phục lại các thành phần bắt buộc vắng
mặt. [1, 278-279]
d) Quan niệm của Trần Ngọc Thêm
Ở Trần Ngọc Thêm, câu không đầy đủ được đề cập với tên gọi là ngữ
trực thuộc. Theo tác giả, ngữ trực thuộc là những phát ngôn (câu) không hoàn
chỉnh về cấu trúc, tức là thiếu vắng một hay một số thành phần bắt buộc (chủ
ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) [40, 47]. Về thực chất, ngữ trực thuộc theo cách hiểu của
Trần Ngọc Thêm là những câu tỉnh lược thành phần bắt buộc. Như vậy, ở Trần
Ngọc Thêm, câu không đầy đủ có thể hiểu là những câu tỉnh lược thành phần
bắt buộc.
đ) Cách xác định câu không đầy đủ của Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến
Dựa vào cách xác định của S.E. Jakhontov, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn
Mạnh Tiến, đã xác định khái niệm câu đầy đủ, câu không đầy đủ một cách đơn
giản, trực tiếp. Các tác giả cho rằng có thể hiểu câu đầy đủ là câu không có
hiện tượng tỉnh lược (thiếu vắng) thành phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi
ngữ cảnh của câu. Ngữ cảnh của câu nói ở đây được hiểu bao gồm: văn cảnh
ngoài câu (được hiểu là những câu (hay phần văn bản) ở trước và sau câu được
xét) và hoàn cảnh, tình huống nói năng (gồm hình thức, tính chất, mục đích
giao tiếp, đặc điểm của chủ thể, đối thể giao tiếp). Phù hợp với cách hiểu vừa
nêu về câu đầy đủ, câu không đầy đủ được hiểu là câu có sự tỉnh lược (thiếu
vắng) thành phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi ngữ cảnh của câu. [20,427428].
2) Về cách phân loại câu không đầy đủ
Trong các công trình về ngữ pháp, câu không đầy đủ thường được phân
loại theo hai cách: theo phương thức cấu tạo và theo thành phần bị lược bỏ.
- Theo phương thức cấu tạo, cấu không đầy đủ được chia thành:
+ Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược. Ví dụ: “Tiếng hát ngừng.
Cả tiếng cười Ø.” (Nam Cao) Câu in đậm là câu không đầy đủ được tạo ra
bằng phép tỉnh lược (lược vị ngữ).
12
+ Câu được tạo ra bằng phép tách câu. Ví dụ: “Tôi đứng dậy. Dưới trời mưa.”
(Nguyễn Huy Tưởng). Câu in đậm là câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép
tách câu (tách trạng ngữ)
- Theo thành phần bị tỉnh lược, câu không đầy đủ được chia thành:
+ Câu tỉnh lược chủ ngữ. Ví dụ: “Tôi tìm dấu vết nạn lụt. Ø Vẫn còn.” (Phan
Tứ)
+ Câu tỉnh lược vị ngữ. Ví dụ: “Khang nghĩ đến Hà Nội, ánh sáng của nhà hát
lớn, sân khấu người xem. Tôi, Ø đến vợ con." (Nam Cao)
+ Câu tỉnh lược bổ ngữ. Ví dụ: “Ấy khẽ chứ cậu, để nó ngủ. Tôi vừa mới
đặt Ø xong." (Thạch Lam)
+ Câu tỉnh lược cả chủ ngữ lẫn bổ ngữ. Ví dụ: “Thật cậu Phúc ác quá. Ø Đã
không cho Ø thì thôi lại còn thả chó ra đuổi Ø.” (Thạch Lam)
+ Câu tỉnh lược cả chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ. Ví dụ: “Đó là tiếng cười, tiếng hát.
Có lẽ Ø Ø Ø của dân làng.” (Tô Hoài)
+ Câu tỉnh lược định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li. Ví dụ: “Hai mắt
ông trợn ngược. Hai má Ø phình to. Cái đầu Ø lúc lắc.” (Nam Cao)
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan là một bậc thầy truyện ngắn của văn học Việt Nam
hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như
một "bách khoa thư”, một "tấn trò đời” mà đặc trưng là xã hội thực dân phong
kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Qua các sáng tác của mình, Nguyễn Công
Hoan đã chứng tỏ là bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Các tác phẩm
của ông có sức hấp dẫn lớn, đã thu hút được rất nhiều các nhà nghiên cứu mà
tiêu biểu là: Lê Thị Đức Hạnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê,
Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Vương Trí Nhàn, Trương Chính, Nguyễn
Đức Đàn, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Khắc Thuần, Trúc Hà, Thiếu Sơn, Hải
Triều…
Trong công trình Khảo sát cấu trúc câu văn truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan Nguyễn Khắc Thuần đã nhận xét: "Nguyễn Công Hoan đã sử dụng hầu
hết các loại kiểu dạng cấu trúc câu trong tiếng Việt… Nguyễn Công Hoan sử
13
dụng tài tình, linh hoạt, có hiệu quả loại câu ngắn, đặc biệt là những câu có từ
năm chữ trở xuống. Lúc thì tác giả dùng liên tiếp tạo thành đoạn văn; lúc thì
dùng độc lập ở đầu, ở giữa, hoặc cuối truyện; lúc thì phối hợp với câu dài ở
trong cùng một đoạn văn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc đến mức trong
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, số lượng câu dài và câu ngắn tương đương
nhau nhưng khi đọc truyện ngắn của ông, người đọc có cảm giác như trong
truyện ngắn của ông, câu ngắn được dùng nhiều hơn câu dài. Chính câu ngắn
đã tạo nên nét khác lạ về câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan so với
tác giả khác”[41, 57-85].
Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh cũng đã dành nhiều tâm huyết cho
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Nhận xét về ngôn ngữ của Nguyễn Công
Hoan, tác giả đã khẳng định: "Văn Nguyễn Công Hoan khá gọn gàng, sáng sủa,
thiết thực, linh hoạt. Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của quần
chúng được chọn lọc và nâng cao, đậm hương vị ca dao, tục ngữ…chữ dùng của
ông thường giản dị, giàu hình ảnh cụ thể hay so sánh ví von” [11, 201-202].
Theo tác giả:"Nguyễn Công Hoan luôn giữ cho lời văn, ngôn ngữ trong truyện
trong sáng, chính xác, mang bản sắc của văn hóa dân tộc” [11,208]. Tác giả
còn chỉ ra tính chất cá thể hóa sâu sắc trong ngôn ngữ nhân vật của
Nguyễn Công Hoan: "Ngôn ngữ các loại nhân vật trong truyện của Nguyễn
Công Hoan cũng mang sắc thái riêng, bộc lộ được tâm lí xã hội của từng nhân
vật, trộn cũng không lẫn” [11,117]. Ngoài ra, Lê Thị Đức Hạnh còn so sánh
văn phong của Nguyễn Công Hoan với văn phong của các nhà văn hiện thực
phê phán khác với nhiều nhận xét chính xác và tinh tế về sự tương đồng, đặc
biệt là khác biệt.
Nghiên cứu chất hài trong câu văn Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thanh
Tú nhận xét: "Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là thứ ngôn ngữ suồng sã.
(…) Trong nội bộ câu văn của Nguyễn Công Hoan thường mang mâu thuẫn hài
hước đối chọi ở bên trong. (…) Nhà văn có những lối ví von so sánh, độc đáo,
những liên tưởng bất ngờ, thú vị. (…) Câu văn Nguyễn Công Hoan thường
14
ngắn gọn (…) có sự tuân thủ phép lặp cú pháp vì mục đích nghệ thuật gia tăng
sắc thái hài hước” [27, 209-215]. Trong bài "Lời văn mỉa mai trong Đồng hào
có ma”, tác giả đã chỉ rõ tài sử dụng ngôn ngữ “suồng sã” để "lật ngửa”, "lộn
trái” đối tượng nhằm mục đích mỉa mai, phê phán đối tượng.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan kể trên đây còn có loạt công trình là luận văn, luận án nghiên cứu
về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan từ các góc độ, bình diện khác nhau. Có
thể kể đến một số công trình sau đây.
Lò Thị Duyên trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm ngôn ngữ của truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan, đã nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật, đối thoại và độc
thoại về các mặt từ vựng, cú pháp, các biện pháp tu từ. Tác giả cho rằng ngôn
ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ trào phúng, châm biếm với
sự tinh tế, lão luyện.
Luận văn thạc sĩ "Phương tiện tu từ nói mỉa trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan” (Nguyễn Thị Hương Lan, 2000) đã đề cập đến các dạng thức nói
mỉa trên nhiều cấp độ văn bản: cấp độ từ ngữ trong câu, cấp độ đoạn văn, cấp
độ văn bản… qua đó, chỉ ra những đóng góp quan trọng của Nguyễn Công
Hoan vào nghệ thuật trào phúng. Nguyễn Thanh Hương trong luận văn thạc sĩ
Đặc điểm tình huống đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2001)
đã đề cập đến ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan gắn
với tình huống giao tiếp cụ thể của cuộc thoại dựa trên lí thuyết ngữ dụng học
và phong cách học.
Lê Ngọc Hòa trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm cách xưng hô của các vai
giao tiếp trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2006) đã khảo sát lớp từ xưng
hô trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, qua đó, chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ
giữa ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa - xã hội.
Hoàng Minh Hải với đề tài Các phương thức và đặc điểm gây cười qua
lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2008) đã vận dụng lý
15
thuyết hội thoại để nghiên cứu và chỉ ra đặc điểm của nghệ thuật và nguyên lí
gây cười của Nguyễn Công Hoan. Trần Thị Thủy với đề tài Đối sánh ngôn ngữ
trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và tiểu thuyết Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng đã so sánh đặc điểm ngôn ngữ trào phúng, cụ thể, so sánh tính
chất trào phúng của ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong các tác
phẩm thuộc hai thể loại khác nhau của hai nhà văn trào phúng bậc thầy của văn
học Việt Nam hiện đại.
Hà Thị Tuyết trong luận văn thạc sĩ Câu có hình thức nghi vấn trong tác
phẩm của nguyễn Công Hoan (2010) đã nghiên cứu đặc điểm cấu tạo và ý
nghĩa của câu nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan; qua đó, chỉ ra
những nét riêng về nội dung và hình thức của câu hỏi trong tác phẩm của
Nguyễn Công Hoan. Với đề tài So sánh câu văn trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan và truyện ngắn Thạch Lam, Hoàng Thị Tố Quyên khảo sát chỉ ra
những nét tương đồng và khác biệt của câu văn trong tác phẩm cảu hai tác giả
này về phương diện cấu tạo và biện pháp tu từ. Võ Thị Dung trong luận văn
thạc sĩ Chức năng ngữ nghĩa của từ tình thái đứng đầu phát ngôn trong truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật về mặt ngữ pháp,
ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ tình thái trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan. Năm 2018, tác giả Nguyễn Thị Hồng Chuyên trong đề tài luận văn thạc
sĩ của mình: Các chu tố của động từ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (xét
về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng) đã nghiên cứu một cách tương đối có
hệ thống về chu tố của động từ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan theo
quan điểm ngữ pháp chức năng. Ở công trình này, tác giả đã miêu tả khá tỉ mỉ
đặc điểm về ngữ pháp (cấu tạo, phương thức kết hợp, vị trí, khả năng cải biến),
ngữ nghĩa (vai trò ngữ nghĩa và các kiểu nghĩa biểu hiện), ngữ dụng (chức năng
xác lập chủ đề, tạo lập chủ đề tương phản) của chu tố (thành tố tương đương
với trạng ngữ).
16
Ngoài các công trình kể trên, trong thời gian gần đây còn xuất hiện một
số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học. Trong Tạp chí văn học nghệ thuật,
số 343 (2013), tác giả Thành Đức Bảo Thắng với bài Nghệ thuật khắc họa nhân
vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra ba kiểu ngôn ngữ đối thoại
trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan: người kể chuyện đối
thoại với nhân vật, người kể chuyện đối thoại với độc giả và nhân vật đối thoại
với nhân vật. Tác giả cho rằng vận dụng sáng tạo và linh hoạt ngôn ngữ đối
thoại, Nguyễn Công Hoan đã tạo mạch nối giữa tiếng cười dân gian và tiếng
cười hiện đại. Ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
hướng tới phơi bày bản chất của con người, của xã hội bằng tiếng cười trào
phúng giàu kịch tính. Đó là thứ ngôn ngữ chứa đựng yếu tố hấp dẫn, tạo được
sự bất ngờ, lột trái hiện tượng, phơi bày mâu thuẫn hài hước… Với ngôn ngữ
giàu kịch tính xuất hiện nhiều trong truyện ngắn trào phúng kết hợp với thủ
pháp tăng cấp, Nguyễn Công Hoan đã đưa người đọc từ ngạc nhiên này tới
ngạc nhiên khác và bật cười khi hiểu rõ câu chuyện.
Điểm lại một số công trình nghiên cứu trên, có thể thấy ngôn ngữ trong
các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan được nhìn nhận từ nhiều góc độ, bình
diện khác nhau với những ý kiến nhận xét sâu sắc, tinh tế. Tuy nhiên, đến nay,
chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu về Câu
không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” Nguyễn Công Hoan. Với đề tài
này, chúng tôi hi vọng sẽ bổ sung thêm một tài liệu góp phần làm rõ thêm đặc
điểm ngôn ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Một số vấn đề khái quát về câu
1.2.1.1. Khái niệm câu
Việc xem xét các khuynh hướng chính trong việc định nghĩa câu với một
số cách định nghĩa cụ thể cho thấy những khó khăn, phức tạp của việc định
nghĩa câu. Có thể nói rằng đến nay, vẫn chưa có được cách định nghĩa câu thoả
17
mãn được tất cả hoặc hầu hết các nhà ngữ pháp. Trong điều kiện như vậy, việc
lựa chọn cách định nghĩa nào đó phụ thuộc vào góc nhìn của nhà nghiên cứu,
vào mục đích nghiên cứu, giảng dạy và học tập ngữ pháp.
Trong luận văn này, chúng tôi chọn cách định nghĩa câu vào khối lượng
và chức năng. Khác với các khuynh hướng định nghĩa câu dựa vào nội dung (ý
nghĩa), hình thức (cấu tạo) hoặc dựa vào cả nội dung lẫn hình thức, theo đó, câu
được xác định một cách độc lập, riêng biệt (không đặt trong mối quan hệ với
các đơn vị ngôn ngữ khác trong cùng hệ thống), khuynh hướng định nghĩa câu
dựa vào khối lượng và chức năng chủ trương xác định câu trong mối quan hệ hệ
thống với các đơn vị ngôn ngữ khác. Theo hướng này, câu cũng như các đơn vị
ngôn ngữ khác cùng hệ thống luôn được định nghĩa dựa vào hai mặt: mặt so
sánh khối lượng và mặt chức năng. Cụ thể, câu được định nghĩa như sau: "Câu
là kiểu đơn vị nhỏ nhất mà có thể mang một thông báo tương đối hoàn chỉnh"
[4, 363].
Theo Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến, cách định nghĩa này thường
được nhận xét là không nêu được các dấu hiệu hình thức đặc trưng của câu.
Nhưng bù lại, cách định nghĩa này có ba ưu điểm cơ bản:
Thứ nhất, đây là cách định nghĩa mang tính hệ thống rõ rệt nhất. Nó
thống nhất về nguyên tắc với cách định nghĩa các đơn vị ngôn ngữ khác cùng
hệ thống với câu như âm vị, hình vị, từ cho nên rất tiện cho việc đối chiếu
chúng với nhau.
So sánh:
- Âm vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có chức năng khu biệt nghĩa.
- Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có nghĩa.
- Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có khả năng vận dụng độc lập.
- Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có chức năng thông báo.
Thứ hai, cách định nghĩa này nêu lên được những tiêu chí cần thiết cho
phép xác định câu, phân biệt nó với các đơn vị nhỏ hơn và lớn hơn thuộc cùng
hệ thống: Tiêu chí "có chức năng thông báo" được đưa vào định nghĩa có tác
18
dụng phân biệt câu với từ, hình vị, âm vị, vốn không có chức năng này; còn tiêu
chí "nhỏ nhất" có tác dụng phân biệt câu với đơn vị lớn hơn (văn bản) cũng có
chức năng thông báo.
Thứ ba, so với một số cách định nghĩa khác, cách định nghĩa này rất ngắn
gọn nên dễ nhớ hơn. [20, 175-176].
1.2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của câu
Theo Nguyễn Văn Lộc, với tư cách là đơn vị thông báo nhỏ nhất, câu
được xác định theo những đặc trưng cụ thể sau:
1) Về nội dung
Câu biểu thị một thông báo tương đối hoàn chỉnh. Kèm theo nội dung
thông báo, câu còn biểu thị mục đích, thái độ, tình cảm của người nói đối với
nội dung nói năng hay đối với người nghe.
2) Về cấu trúc (về hình thức bên trong)
Ở dạng điển hình, câu được cấu tạo theo mô hình nhất định với nòng cốt
là một hoặc một vài cụm chủ vị (cụm vị từ), tức là cấu trúc gồm vị từ hạt nhân
(vị ngữ) và các thành tố bổ sung có tính bắt buộc (chủ ngữ, bổ ngữ) hay tự do
(trạng ngữ hay các chu tố) làm rõ nghĩa cho nó.
3) Về hình thức (hình thức bên ngoài hay về ngữ điệu)
Câu luôn có ngữ điệu kết thúc (thể hiện trên chữ viết bằng dấu ngắt câu)
và có thể kèm theo hư từ tình thái hay giao tiếp (à, ư, nhỉ, nhé, thôi, nào...).
Trong các đặc trưng trên đây, chỉ đặc trưng thứ ba luôn có mặt; còn các
đặc trưng thứ nhất, thứ hai có thể vắng mặt hoặc thể hiện không đầy đủ. Những
câu có cả ba đặc trưng được coi câu ở dạng cơ bản (điển hình, điển thể). Những
câu thiếu các đặc trưng thứ nhất và thứ hai được coi là những biến thể không cơ
bản (điển hình) của câu và sự tồn tại của chúng, nhìn chung, đều phụ thuộc vào
ngữ cảnh. [20, 176-177].
19