Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.26 KB, 28 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Thế  kỉ  XXI, đất nước ta có bước phát triển mạnh mẽ  về  mọi mặt  đòi 
hỏi mỗi người cần phải năng động, sáng tạo, có tay nghề cao, sẵn sàng thích  
ứng với những biến đổi diễn ra hàng ngày. Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 
29­ NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ (VIII) 
­ khóa XI về  đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Điều đó đặt ra một yêu cầu cấp thiết đối 
với sự nghiệp giáo dục là phải đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài phục vụ 
đất nước.
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi,  ươm trồng những hạt giống nhân tài cho  
quê hương, đất nước là một nhiệm vụ  rất quan trọng và cần thiết vì những 
người tài bao giờ  cũng là nhân tố  quan trọng để  thúc đẩy xã hội phát triển. 
Đặc biệt đối cấp học THCS, bồi dưỡng học sinh giỏi được xem là mũi nhọn 
của mỗi trường nói riêng của ngành giáo dục nói chung. Kết quả  học sinh  
giỏi là thước đo năng lực của mỗi nhà giáo và cũng là thương hiệu cho mỗi  
nhà trường. 
Trong những năm gần đây, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch 
sử  9 đạt được thành tích đáng kể. Tuy nhiên chất lượng của học sinh giỏi  
chưa ổn định chưa đáp ứng kì vọng của nhà trường, của ngành giáo dục đề ra. 
Điều đó, xuất phát từ  nhiều nguyên nhân khác nhau như  xã hội có những 
nhận thức chưa đầy đủ  về  vị  trí chức năng của bộ  môn Lịch sử, nhiều phụ 
huynh cho đây là môn học phụ  không mang lại tương lai cho con em mình 
không muốn cho con em tham gia. Vì thế, tình trạng học sinh chưa nắm được 
những sự kiện lịch sử cơ bản hay nhớ sai hoặc nhầm lẫn kiến thức lịch s ử là  
hiện tượng khá phổ biến.

1



Bản thân là một giáo viên trực tiếp bồi dưỡng trong những năm đầu 
tham gia chất lượng còn thấp tâm lý của phụ huynh không muốn cho con em  
mình tham gia đội tuyển tuy nhiên trong quá trình giảng dạy giáo viên đã chủ 
động trong việc nắm bắt kiến thức và đối tượng học sinh làm tốt công tác tư 
tưởng và đưa ra biện pháp phù hợp do vậy đã làm thay đổi nhận thức của phụ 
huynh và học sinh chất lượng đội tuyển không ngừng được nâng cao. Từ thực  
tế  đó bản thân mạnh dạn đưa ra  sáng kiến  “Một số  biện pháp nâng cao 
chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 9”
Đã có một số  nghiên cứu liên quan đến đề  tài như  thầy giáo Đinh Văn 
Đồng trường THCS Hương Hóa ­ Tuyên Hóa ­ Quảng Bình với đề  tài: “Giải  
pháp bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 môn Lịch sử  dự  thi cấp tỉnh đạt hiệu  
quả", hay đề tài “Một số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử”  
của thầy Nguyễn Văn Sáng trường THCS Bình Hàng Tây. Tuy nhiên các thầy 
cô giáo chỉ tập trung  ở những giải pháp mang tính lý thuyết và bao trùm toàn 
bộ  chương trình bồi dưỡng môn Lịch sử  ở  cấp THCS. Còn những biện pháp 
của tôi đã qua thực tiễn áp dụng và có hiệu quả thiết thực từ năm học 2012 ­  
2013 đến nay. 
1.2. Điểm mới của đề tài
Với đề  tài này đã có nhiều giáo viên nghiên cứu và thực nghiệm nhưng 
trong quá trình giảng dạy bản thân tôi phát hiện ra nhiều điểm mới có thể 
vận dụng tối ưu trong công tác bồi dưỡng đó là:
­ Cách kiểm soát kiến thức của học sinh thông qua từng chuyên đề  và 
qua các bài kiểm tra. 
­ Cách hướng dẫn học sinh nhận dạng đề ra, cách làm bài của học sinh.
1.3. Pham vi ap dung cua đê tai
̣
́
̣
̉
̀ ̀

Đề  tài áp dụng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử  9 ở 
đơn vị mình và đã áp dụng thành công trong công tác bồi dưỡng đội tuyển học 
sinh giỏi lớp 9 tham gia cấp tỉnh.
2


II. PHẦN NỘI DUNG
2.1.Thực trạng của vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết
2.1.1. Về phía giáo viên:
Phần lớn giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác bồi  
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử. Những người được phân công giảng dạy 
tâm huyết với công tác bồi dưỡng, có năng lực chuyên môn vững vàng, biết áp 
dụng các phương pháp đặc trưng bộ  môn và  ứng dụng công nghệ  thông tin  
vào quá trình dạy học góp phần nâng cao chất lượng đôi tuyên.
̣
̉
Song phương pháp ôn tập bồi dưỡng còn đơn điệu chủ  yếu dạy kiến  
thức ở sách giáo khoa kết hợp với sach giao viên các tài li
́
́
ệu tự sưu tầm được 
và kinh nghiệm của bản thân. Tuy nhiên khả  năng kết hợp đa dạng các ph ­
ương pháp trong ôn tập bồi dưỡng chưa linh hoạt, tính sáng tạo chưa cao.
Bên cạnh công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo viên còn phải bảo đảm 
chất lượng đại trà, thậm chí còn làm công tác kiêm nhiệm khác, khối lượng  
công việc nhiều do đó việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng  
có phần bị hạn chế.
2.1.2. Về phía học sinh:
Trước đây học sinh quan niệm môn Lịch sử  chỉ  là môn học thuộc lòng, 
không cần phải tư  duy, không có bài tập, không cần đọc thêm tài liệu tham 

3


khảo. Vì vậy học sinh chỉ  học một cách hời hợt theo nội dung vở  ghi, ít và 
thiếu phần mở  rộng, liên hệ. Kết quả  là khi kiểm tra, học sinh không nắm  
được các kiến thức, sự kiện, thời gian, câu hỏi mở rộng, nâng cao không giải 
quyết được.
Học sinh chưa được đầu tư  từ  lớp đầu cấp, chỉ  bắt đầu tuyển chọn từ 
năm lớp 8. Lên lớp 9 là năm cuối cấp nên các em phải học rất nhiều môn. 
Trong khi đó, thời gian học môn bồi dưỡng của học sinh chưa nhiều do các  
em còn phải học các môn chính khóa và dành thời gian nhiều cho các môn học 
khác.
Học sinh chưa thực sự yêu thích môn học, phần lớn các em đều cho rằng 
học Lịch sử rất khó, khô khan, trừu tượng, quá nhiều sự  kiện cần ghi nhớ…  
Hơn nữa chương trình Lịch sử 9 quá rộng, quá dai, đ
̀ ộ  nhớ  của các em không 
được lâu. Do đó, học sinh cảm thấy nhàm chán khi học lịch sử, nhận biết sự 
kiện không sâu sắc nhầm lẫn giữa sự kiện này với sự kiện kia. Chính vì vậy  
chất lượng đội tuyển chưa ổn định.
2.1.3 Nguyên nhân của thực trạng
Qua trao đổi với các đồng nghiệp và thực tế  giảng dạy, chúng tôi nhận  
thấy một số nguyên nhân sau:
Một là chương trình chính khóa quá nhiều môn, thêm vào đó các em lại  
tham bồi dưỡng học sinh giỏi nên rất hạn chế về thời gian tự học, tự nghiên  
cứu.
Hai là tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi có khá nhiều, tuy nhiên các tài 
liệu đó đơn thuần chỉ  chứa đựng nội dung kiến thức thuần tuý, chưa có tài 
liệu đề  cập đến kinh nghiệm, cách thức, phương pháp, các kĩ năng làm bài 
lịch sử  một cách cụ  thể  để  giúp giáo viên dễ  dàng tiếp cận. Do đó công tác  
bồi dưỡng học sinh giỏi thường gặp khó khăn, kết quả chưa ổn định.

Ba là thực tế  hiện nay, môn Lịch sử  ít được học sinh, phụ  huynh chú  
trọng đầu tư và cho rằng đây là môn học phụ khó xác định nghề nghiệp trong 
4


tương lai. Do đó việc hình thành đội tuyển học sinh có năng khiếu học tập bộ 
môn rất khó khăn. Đa số học sinh lựa chọn, tham gia bồi dưỡng các môn học 
khác đội tuyển Sử phải chọn sau điều đó ảnh hưởng không nhỏ công tác bồi 
dưỡng và chất lượng của đội tuyển.
Mặt khác, học sinh chưa bắt kịp với sự  đổi mới phương pháp dạy học 
theo hướng phát triển năng lực, chưa chủ động và linh hoạt trong bồi dưỡng.
* Kết quả  cụ  thể  số  học sinh bồi dưỡng HSG Sử 9 qua các năm trước 
khi áp dụng đề tài như sau:
Năm học
2011­2012

Năm học
2011­2012

Tỷ lệ học 

Tỷ lệ học sinh 

sinh hứng thú

không hứng thú

20%

80%


Tỷ lệ học sinh không 
biết vận dụng kiến 

Số học sinh đạt 

Số học sinh đạt giải

giải

cấp huyện

cấp tỉnh
3

5

thức
70%

Điểm TB
môn Sử
5,1

2.2. Các biện pháp thực hiện
2.2.1. Biện pháp 1: Dạy học sinh nắm kiến thức cơ bản
Phân phối chương trình và yêu cầu kiến thức trong chương trình Lịch sử 
9 ở trường THCS chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, bài giảng trong SGK đều  
nhằm mục đích cung cấp kiến thức cơ  bản về  tiến trình lịch sử  thế  giới và  
Việt Nam theo diện rộng, chưa đi vào chiều sâu. Đối với học sinh giỏi yêu 

cầu phải hiểu biết sâu sắc và toàn diện. Các em phải nắm chắc bản chất các 
sự kiện, hiện tượng lịch sử, các vấn đề lịch sử,… để có đủ tự tin, có sự sáng  
tạo khi giải quyết bất kì đề thi nào.
Trong chương trình bồi dưỡng, bản thân tôi kết hợp dạy kĩ hệ  thống 
kiến thức cơ bản theo sách giáo khoa kết hợp chuẩn kiến thức kĩ năng bằng 
5


việc lựa chọn những sự kiện, những vấn đề lịch sử trọng tâm dạy cho các em 
rồi tiến hành mở rộng kiến thức bằng các chuyên đề nâng cao. 
Các chuyên đề  trong chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử 9 đi 
sâu làm rõ được hoàn cảnh lịch sử, nội dung bản chất của các vấn đề lịch sử, 
các giai đoạn lịch sử  ,mối quan hệ giữa quá khứ  ­ hiện tại ­ tương lai. Đảm 
bảo cho học sinh đạt được mức độ về kiến thức : nhận biết, thông hiểu, vận 
dụng, phân tích, đánh giá.
Những kiến thức từ  các chuyên đề  là công cụ  giúp học sinh giải quyết 
tốt các loại đề  thi. Giáo viên tiến hành dạy từng chuyên đề  phù hợp với 
chương trình khả năng tiếp nhận của từng đối tượng học sinh bồi dưỡng. Sau 
khi dạy xong một chuyên đề, một bài lịch sử, giáo viên yêu cầu học sinh phải 
dành một khoảng thời gian để  suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề  đó, đặc biệt là ý 
nghĩa của sự kiện đó với giai đoạn trước và sau nó. 
 Ví dụ  : Sau khi học sinh học xong chuyên đề  Cuộc vận động dân chủ 
trong những năm 1936­1939, tôi sẽ  hỏi các em so với thời kì 1930­1931 chủ 
trương của Đảng trong thời kì 1936­1939 có nhiều điểm khác? Tại sao có sự 
khác nhau như vậy?
Với câu hỏi trên học sinh phải trả lời được những kiến thức sau:
Nội dung

1930­1931


Kẻ thù

Đế quốc, phong kiến

Nhiệm vụ

sai.
Chống   đế   quốc,   giành  Chống   phát   xít,   chống   chiến 
độc lập dân tộc, chống  tranh   đế   quốc,   chống   bọn 
phong kiến giành ruộng  phản động thuộc địa và tay sai 
đất cho dân cày

đòi tự do, cơm áo hòa bình.
Mặt   trận   nhân   dân   phản   đế 

Mặt trận
Hình thức, 

1936­1939
Bọn phản động Pháp và tay 

 Bí mật, bất hợp pháp
6

Đông Dương
Hợp   pháp,   nửa   hợp   pháp, 


phương pháp đấu   Bạo động vũ trang


công khai, nửa công khai.

tranh
Sở dĩ có sự  khác nhau như vậy là vì hoàn cảnh lịch sử có sự  thay đổi so  
với thời kỳ trước đặc biệt mặt trận nhân Pháp đã ban hành nhiều chính sách 
về  tự  do dân chủ, ân xá tù chính trị  cho các thuộc địa và lợi dụng tình hình  
này, Đảng ta đã chủ trương đòi tự do dân chủ dân sinh.
Làm như vậy sẽ giúp học sinh nhớ được kiến thức và nếu gặp các dạng  
bài hệ thống, so sánh, phân biệt, rút ra bài học kinh nghiệm... học sinh làm bài  
đạt hiệu quả cao hơn.
Theo bản thân, các em được tham gia dự thi học sinh giỏi môn Lịch sử 9  
phải nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn Lịch sử 9 ­ kiến thức cơ bản ở 
đây không chỉ  là những sự  kiện đơn lẻ  mà phải bao gồm hệ  thống những  
hiểu biết cần thiết về những sự kiện, niên đại, nhân vật, địa danh, các nguyên 
lý, quy luật, những kết luận khái quát, phương pháp, kĩ năng. Vì vậy, khi nắm  
vững kiến thức học sinh mới có khả  năng vận dụng để  giải quyết được với 
các loại câu hỏi, bài tập. 
Bên cạnh đó việc quan trọng để cung cấp kiến thức cho học sinh là chọn  
và giới thiệu những tài liệu đảm bảo chất lượng cho các em. Thị trường sách 
hiện nay khá phong phú nhưng quỹ thời gian của học sinh thì có hạn, nên bản  
thân chọn mua hoặc phôtô tài liệu cho học sinh như: Sách giáo viên Lịch sử 9,  
Chuyên đề bồi dưỡng Sử 9, Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập Lịch sử  9, 
Bài tập bổ trợ và nâng cao Lịch sử 9; 100 câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch  
sử 12, Luyện thi cấp tốc các dạng bài tập từ các đề thi quốc gia môn Lịch sử;  
Bộ  đề  thi Lịch sử. Giáo viên còn giới thiệu các địa chỉ  tin cậy trên mạng  
internet để học sinh tham khảo…phục vụ công tác bồi dưỡng đạt kết quả.
2.2.2. Biện pháp2 : Rèn luyện kĩ năng ôn tập cho đội tuyển. 
2.2.2.1. Kĩ năng ghi nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản

7



Học Lịch sử không phải bắt buộc học sinh phải học thuộc lòng một cách 
máy móc, một lúc phải nhớ  quá nhiều sự  kiện, song phải biết ghi nhớ, hiểu 
một số sự kiện quan trọng, gắn với niên đại, địa danh, nhân vật lịch sử. Nếu  
không ghi nhớ và không hiểu sự kiện lịch thì không thể làm tốt bài lịch sử, bởi 
vì bài lịch sử  không thể  viết như  một bài chính trị  mà cần có sự  kiện để 
chứng minh.
Ví dụ, khi học về cách mạng tháng Tám, học sinh phải ghi nhớ và hiểu 
Hội nghị toàn quốc từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945 hay Đại hội quốc dân Tân 
Trào từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945.
Muốn làm tốt bài thi môn lịch sử  các em cần phải ghi nhớ  tốt sự  kiện  
lịch sử. Tuy nhiên nhiều em chưa có cách ghi nhớ  phù hợp. Qua nhiều năm  
bồi dưỡng bản thân đưa ra cho học sinh vài gợi ý về cách ghi nhớ.
Thứ nhất, ghi nhớ thời gian xảy ra sự kiện lịch sử. Mỗi bài, mỗi chương 
đều có những sự kiện gắn với thời gian nhất định. Các em có kĩ năng ghi nhớ 
logic, biết tìm ra điểm tựa để nhớ, có thể lập dàn ý, lập bảng hệ thống hóa.
Chẳng hạn, khi  học về  khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940); Khởi nghĩa 
Nam Kì (23/11/1940); Binh biến Đô Lương (14/1/1941); các em có thể ghi nhớ 
bằng cách: lấy mốc khởi nghĩa Bắc Sơn làm chuẩn rồi suy ra cứ  cách nhau 
hai tháng diễn ra một sự kiện hay các sự kiện đều diễn ra trong tháng lẻ.
Các em có thể ghi nhớ máy móc mối quan hệ giữa các sự kiện, giữa thời  
gian và địa điểm xảy ra sự kiện. Ví dụ  khi học bài Cuộc kháng chiến chống 
Pháp kết thúc trong đó có chiến dịch Điện Biên Phủ các em phải nắm vững ba 
đợt tấn công của quân ta vào cứ  điểm Điện Biên Phủ  bằng cách lấy ngày  
13/3/1954 là ngày mở  đầu, rồi dùng sự  kiện Ngày quốc tế  Phụ  nữ  (8/3) làm 
điểm tựa và suy ra, cách 5 ngày quân ta mở  cuộc tiến công đầu tiên vào cứ 
điểm Điện Biên Phủ và tính ra rằng đợt 1 diễn ra trong 5 ngày... Cứ như vậy  
các em tìm cách nhớ đợt 2 và đợt 3.


8


Thứ hai, ghi nhớ các nhân vật lịch sử. Thông thường trong lịch sử mỗi sự 
kiện đều gắn liền với những nhân vật nhất định, để dễ nhớ các nhân vật lịch  
sử, theo bản thân có hai cách: một là lấy người để nói việc, hai là lấy việc để 
nói người. Ví dụ  khi nói về Hồ  Chí Minh chúng ta có thể liên hệ  đến Tuyên 
ngôn độc lập hoặc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khi nói về chiến thắng 
Điện Biên Phủ  chúng ta nghĩ  ngay  đến   Đại tướng Võ Nguyên Giáp.Việc 
kiểm tra sự ghi nhớ các sự kiện lịch sử phải được tiến hành thường xuyên, ta 
có thể kiểm tra vào thời gian đầu của buổi bồi dưỡng. Hình thức kiểm tra nên 
đa dạng, các thành viên trong đội tuyển tự kiểm tra lẫn nhau.
2.2.2.2. Kĩ năng khái quát, tổng hợp sự kiện lịch sử 
Vấn đề  ghi nhớ  sự  kiện là cần thiết, là yêu cầu cần đạt khi bồi dưỡng 
đội tuyển học sinh giỏi Lịch sử. Tuy nhiên đó chỉ mới là yếu tố “cần” nhưng 
chưa “đủ” của một học sinh giỏi môn Lịch sử. Bởi vậy, sau khi nắm được 
nội dung của các sự  kiện đơn lẻ  học sinh phải biết so sánh, tổng hợp, khái 
quát, liên kết các sự kiện đó theo dòng lịch sử, hoặc đánh giá khái quát các sự 
kiện thành vấn đề lịch sử theo một yêu cầu nhất định nào đó.
Trong thực tế  đây là một “điểm yếu” của các học sinh trong đội tuyển 
học sinh giỏi Lịch sử  hiện nay. Chúng ta thường thấy rằng, các em nắm các 
sự  kiện lịch sử  đơn lẻ  rất tốt, nhiều em nhớ  đến từng chi tiết nhỏ, nhưng 
“điểm yếu” của các em chính là sự  kết nối, khái quát, so sánh, phân tích các 
sự  kiện đó thành một chủ  đề, một vấn đề, thì các em lại rất bị  động, lúng 
túng.
Khi hướng dẫn cho học sinh trình bày các sự  kiện lịch sử  theo chủ  đề,  
giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh không nên chỉ đơn thuần trình bày  
các sự kiện một cách đơn lẻ, mà trong quá trình trình bày, học sinh cần có sự 
“đánh giá”, “bình luận” các sự kiện. 
Ví dụ: Khi học xong chuyên đề: Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự 

thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Giáo viên hỏi học sinh: Thời cơ 
9


trong cách mạng tháng Tám đã chín muồi để  Đảng ta quyết định tổng khởi 
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ? Vậy thời cơ trong cách mạng tháng 
Tám là gì?
Để  trả  lời được câu hỏi trên học sinh phải hiểu được cách mạng tháng 
Tám thành công ngoài vệc chuẩn bị lâu dài còn phải biết chớp lấy lấy thời cơ. 
Thời cơ  là sự  kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố  bên trong và yếu tố  bên  
ngoài( chủ quan và khách quan). Trong đó điều kiện chủ quan giữ vai trò quan 
trọng nhất. 
Vê nguyên nhân ch
̀
ủ  quan: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày  
(3/2/1930) có quá trình chuẩn bị  chu đáo trong 15 năm với các lần diễn tập  
(1930­1931), (1936­1939); (1939­1945). Đặc biệt trong phong trào cách mạng 
1939­1945, Đảng ta đã chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: Lực lượng chính trị, lực  
lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và bước đầu tập duyệt cho quần chúng 
đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Khi nghe tin phát xít Nhật bị đồng minh 
đánh bại quân Nhật  ở Đông Dương hoang mang dao động mất hết tinh thần  
chiến đấu. Quân đồng minh chưa kịp nhảy vào Đông Dương. Qua cao trào  
kháng Nhật cứu nước, quần chúng đã sẵn sàng chờ lệnh khởi nghĩa.
Vê nguyên nhân khách quan: Th
̀
ời cơ  ngàn năm có một, tháng 5/1945,  
phát xít Đức bị  tiêu diệt, ngày 14/8/1945, phát xít Nhật bị  quân đồng minh  
đánh bại. Ngày 15/8/1945, quân Nhật đầu hàng quân đồng minh không điều 
kiện.
Như vậy, cách mạng tháng Tám nổ ra trong điều kiện chủ quan và khách  

quan đã chín muồi. Đó là thời cơ ngàn năm có một vì nó rất quý và rất hiếm  
nếu ta bỏ  lỡ  thời cơ  sẽ  không bao giờ  trở  lại. Nhận thức rõ thời cơ  có một 
không hai này Chủ  Tịch Hồ  Chí Minh chỉ  rõ “Đây là thời cơ  có ngàn năm có 
một cho nhân dân ta nổi dậy. Lần này dù có đốt cháy cả  dãy Trường Sơn 
cũng kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”. Điều đó thể hiện tinh thần  

10


đoàn kết trên dưới một lòng của nhân dân ta để giành độc lập dân tộc thoát ra 
khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
2.2.2.3. Kĩ năng liên hệ, so sánh, đối chiếu tài liệu lịch sử 
Với kĩ năng này yêu cầu các em phải biết liên hệ, so sánh, đối chiếu tài 
liệu đang học với hiện tại. Công việc này được tiến hành trên cơ  sở  nắm  
vững sự  kiện đang học và hiểu rõ tình hình, nhiệm vụ  hiện nay. Có nhiều 
biện pháp để tiến hành:
Một là: Rút ra bài học kinh nghiệm của quá khứ cho hiện tại. Ví dụ: Từ 
sự  thắng lợi của công cuộc cải cách Trung Quốc và sự  thất bại của công 
cuộc cải tổ của Liên Xô, Đảng ta rút ra được bài học kinh nghiệm gì?
+ Cải cách, đổi mới phải kiên định mục tiêu chủ  nghĩa xã hội, làm cho 
mục tiêu đó thực hiện có hiệu quả hơn bằng những bước đi, biện pháp đúng 
đắn...
+ Đảm bảo quyền lãnh đạo tuyết đối của Đảng Cộng sản Việt Nam, 
nắm vững nguyên lí chủ  nghĩa Mác­Lênin và tư  tưởng Hồ  Chí minh lấy dân 
làm gốc...
+ Đổi mới toàn diện, đồng bộ, trọng tâm là đổi mới về kinh tế, đổi mới 
về chính trị phải thận trọng...
Hai là: So sánh sự kiện lịch sử, rút ra điểm giống nhau, khác nhau, điểm 
mạnh, điểm yếu là một kĩ năng không thể  thiếu trong việc bồi dưỡng học 
sinh giỏi môn Lịch sử nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 9 nói 

riêng . Nội dung so sánh có thể  là các phong trào cách mạng, các chiến dịch 
quân sự, các cuộc cách mạng... 
Để học sinh nắm được kĩ năng này, trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên  
nên "định dạng" các hình thức so sánh thường gặp như: So sánh các cuộc cách  
mạng, nội dung so sánh thường là: Lực lượng cách mạng, đối tượng của cách 
mạng, tính chất cách mạng, mục tiêu của cách mạng, phương pháp tiến hành 
cách mạng, kết quả, ý nghĩa của cách mạng....
11


So sánh về điều kiện lịch sử  của các quốc gia trong một thời điểm lịch  
sử  cụ  thể  nào đó về  các nội dung: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, giáo 
dục...
Ví dụ: So sánh điểm khác nhau cơ  bản giữa Hiệp định Sơ­bộ(6/3) với 
Hiệp định Giơ­ne­vơ  (21/7/1954) để  thấy bước tiến của ta trong cuộc đấu 
tranh ngoại giao.
Điểm khác nhau cơ bản: 
­ Hiệp định Sơ­bộ(6/3), chính phủ  Pháp công nhận nước ta là một quốc  
gia tự do nằm trong Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp. Còn Hiệp định Giơ­
ne­vơ (21/7/1954), Pháp và các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng độc 
lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương.
­ Trong lúc kí Hiệp định sơ  bộ  do ta còn yếu hơn địch nên ta phải chấp 
nhận điều khoản đó. Đây là sách lược mềm dẻo để  phân hóa kẻ  thù. Còn 
trong khi kí hiệp định Giơ­ne­vơ ta đã giành thắng lợi quyết định ở Điện Biên 
Phủ, quyết định đến sự thất bại của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Như  vậy, so với Hiệp định Sơ­bộ, Hiệp định Giơ­ne­vơ  là một bước 
tiến vượt bậc trong cuộc đấu tranh ngoại giao của ta.
2.2.2.4. Kĩ năng phân tích, chứng minh.
Phân tích, chứng minh là một kĩ năng được xem là "khó" nhất trong các kĩ 
năng khi tiến hành thực hiện một bài làm lịch sử. Với cấp độ yêu cầu đối với  

học sinh THCS, kĩ năng này thường chưa đặt ra yêu cầu cao, song lại phải  
vận dụng thường xuyên trong quá trình học và làm bài. 
Tuy nhiên để  rèn luyện kĩ năng phân tích chứng minh một nội dung, sự 
kiện lịch sử đòi hỏi sự "tư duy" cao độ, bởi vậy qua quá trình bồi dưỡng đội 
tuyển học sinh giỏi chúng ta nên chú ý rèn luyện cho các em kĩ năng này một 
cách nhuần nhuyễn.

12


Trong bộ môn Lịch sử 9, kĩ năng phân tích thường là phân tích các nguyên 
nhân thành công hay thất bại, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm của một sự 
kiện lịch sử nào đó.
Rèn luyện kĩ năng phân tích, chứng minh, tức là rèn luyện cho các em  
biết "mổ xẻ". Để làm được điều chúng ta biết đặt ra các câu hỏi "tại sao", "vì  
sao".
Một bài tập phân tích "sâu" tức là trả lời đầy đủ, chuẩn xác yêu cầu cần 
phân tích, mặc dù ở cấp THCS, trong kết cấu đề thi, kĩ năng này được đặt ra 
nhiều bởi biết "phân tích" là thể hiện cao khả năng tư duy lịch sử.
Chứng minh phong trào cách mạng 1930­1931 diễn ra trên quy mô rộng 
khắp, hình thức đấu tranh phong phú, tính chiến đấu triệt để: Đối với yêu cầu  
này các em phải lấy sự kiện để chứng minh­ sự kiện đó nằm trong diễn biến  
của phong trào cách mạng cách mạng 1930­1931 đỉnh cao phong trào Xô viết 
Nghệ  Tĩnh đồng thời các em phải biết khái quát tổng hợp để  có kiến thức 
toàn diện khi đó mới làm đầy đủ:
Ngay từ  khi đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phát động quần chúng 
đấu tranh chống thực dân, phong kiến để  đòi độc lập cho dân tộc và ruộng  
đất cho dân cày.
­ Tính quy mô rộng khắp:
+ Phong trào phát triển trên quy mô rộng khắp cả nước, kéo dài gần hai  

năm(cuối năm 1930 đầu năm 1931).
+ Phong trào đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân chủ yếu là 
quần chúng công nông, với hàng trăm cuộc đấu tranh lớn nhỏ, tiêu biểu là  
cuộc đấu tranh của 5000 công nhân và nông dân Vinh­ Bến Thủy vào ngày 
1/5/1930, cuộc biểu tình của hơn hai vạn nông dân Thanh Chương vào ngày 
1/9/1930 và cuộc biểu tình của 6 vạn nông dân Hưng Nguyên ngày 12/9/1930.
­ Tính triệt để:

13


+ Phong trào đã nhằm vào hai kẻ  thù cơ  bản của nhân dân ta bọn đế 
quốc phong kiến và tay sai.
+ Tại một số  nơi thuộc hai tỉnh Nghệ  An và Hà Tĩnh trước sức mạnh 
đấu tranh của quần chúng, hệ  thống chính quyền địch bị  tan rã từng mảng, 
bọn quan lại cường hào bỏ  trốn, chính quyền công nông binh thành lập dưới 
hình tức Xô­Viết.
­ Sử dụng hình thức đấu tranh quyết liệt: Phong trào sử  dụng hình thức  
đấu tranh từ  thấp đến cao, từ  mít tinh, biểu tình đến đốt huyện đường, phá 
nhà lao, kết hợp biểu tình với thị uy với hoạt đông vũ trang để tiến công địch.
+ Trong tháng 9,10/1930, phong trào sử dụng hình thức đấu tranh vũ trang 
khởi nghĩa cướp chính quyền thành lập chính quyền cách mạng.
Như vậy, phong trào cách mạng 19301931, đỉnh cao Xô­Viết Nghệ Tĩnh 
là phong trào cách mạng rộng lớn đầu tiên của quần chúng công nông ở nước 
ta do Đảng lãnh đạo. Tính quy mô rộng lớn, tính chất cách mạng triệt để  và 
hình thức đấu tranh quyết liệt của phong trào đã chứng minh bước phát triển  
nhảy vọt về  chất của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc  ở  nước ta một  
khi có Đảng lãnh đạo.
2.2.3. Biện pháp 3: Rèn luyện kĩ năng làm bài cho học sinh
2.2.3.1. Kĩ năng đọc và tìm hiểu đề

­ Việc đọc và tìm hiểu đề bài rất quan trọng. Nếu chủ quan dễ dẫn đến 
sai lạc yêu cầu của đề. Trước mỗi đề ra, tôi yêu cầu học sinh phải thực hiện: 
­ Đọc kĩ đề viết ra giấy nháp những cụm từ quan trọng, nội dung cơ bản  
của đề thi và những vấn đề cốt lõi về yêu cầu của đề. 
­ Trên cơ  sở  đó bắt đầu suy nghĩ với đề  ra như  vậy sử  dụng kiến thức  
nào để làm bài. 
­ Gạch những ý cơ  bản cho câu trả  lời vào giấy nháp, tức là phải xây 
dựng một sườn đáp án trước khi làm bài.

14


Ví dụ: khi tiếp xúc với đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung Ương Đảng và 
Tổng bộ  Việt Minh đã thực hiện chủ  trương gì để  Việt Nam với tư  cách là 
một nước độc lập đón tiếp quân đồng minh vào giải giáp quân Nhật”. Nếu  
không đọc kĩ đề, các em sẽ hiểu nhầm yêu cầu của đề hỏi về tình hình Việt 
Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong khi đó yêu cầu của đề  trình 
bày hội nghị  toàn quốc (14­> 18/8/1945), quyết định Tổng khởi nghĩa giành 
chính quyền trước khi quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật và sau đó tiếp 
tục trình bày Đại hội quốc dân Tân Trào( 16 đến 17/8­1945) và Tổng khởi 
nghĩa cách mạng tháng Tám. 
Sau khi đọc kĩ đề  các em phải hiểu đề. Đầu tiên các em bỏ  thời gian  
nhất định để  suy nghĩ, phân tích, tìm hiểu những yêu cầu, nội dung cơ  bản  
của đề, tức là nêu những đòi hỏi của đề  bài cần tập trung giải quyết. Hiểu  
được yêu cầu của đề giúp các em định hướng cho cách làm bài của mình.
2.2.3.2. Kĩ năng xây dựng đề cương bài viết
Xây dựng đề  cương bài viết nhằm đáp  ứng những yêu cầu cơ  bản của  
bài, giữ được sự cân đối giữa các phần, chủ động thời gian làm bài.
­ Sau khi lập dàn ý mới bắt đầu trả  lời câu hỏi. Phải có phần mở  đề 
trước khi làm bài các em có thể sử dụng hoàn cảnh lịch sử để  mở  bài nhưng 

không nên quá dài dòng, chỉ cần vài câu, đủ ý để dẫn dắt vào nội dung trả lời.
­ Phần thân bài : Dựa trên cơ  sở  những ý cơ  bản đã vạch ra, tập trung 
liên hệ  những kiến thức đã học, đã nắm được, nhớ  được và sử  dụng các  
phương pháp liên kết câu, liên kết đoạn trong văn bản để  làm bài không làm 
theo kiểu gạch đầu dòng trên giấy nháp. Đây là trọng tâm nhất của câu trả 
lời, điểm cao hay thấp là ở nội dung phần này.
­ Phần kết luận: Phải có phần kết luận trong làm bài, tóm tắt ý nghĩa, tác 
dụng của phần thân bài để làm kết luận ­ cũng như phần mở đầu, chỉ cần vài 
câu, không nên dài dòng học sinh có thể sử  dụng phần kết quả, ý nghĩa, hay 
bài học kinh nghiệm cho phần kết luận.
15


­ Trong khi các em làm bài nên chọn câu dễ  làm trước ­ nhưng trong thi 
học sinh giỏi môn Lịch sử khuyến khích làm các câu hỏi theo tiến trình lịch sử 
câu nào sự kiện trước thì làm trước. 
­ Trong quá trình làm bài hạn chế  xóa lem nhem không được dùng bút 
tẩy, nếu lỡ có sai thì nên gạch một nét chỗ sai. Cố gắng để  chữ  viết dễ đọc, 
trình bày bài khoa học không nên viết chèn, hay gạch xóa quá nhiều trong bài 
làm.
Ví dụ:  Ở  đề  bài, hãy phân tích nội dung “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng  
chiến của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh (19/12/1946)”. Các em cần nêu phần mở 
đầu ngắn gọn “Sau hiệp định Sơ­bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) được 
kí giữa ta và Pháp. Về  phía ta, thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản 
được kí kết, còn thực dân Pháp bội ước. Trước tình thế  đó, Chủ  tịch Hồ  Chí 
Minh thay mặt Đảng và chính phủ  ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vào  
đêm 19/12/1946.
­ Phần thân bài: Đây là phần chủ yếu và quan trọng nhất của bài, các em 
phải trình bày các sự  kiện, ý tưởng... nhằm giải quyết các vấn đề  được đặt  
ra. Trong phần thân bài, các em cần nêu cho được các luận điểm và mỗi luận 

điểm có các luận cứ  để  trình bày. Ví dụ  với đề  trên, chúng ta có thể  lập đề 
cương phần thân bài như sau:
+ Nêu khái quát hoàn cảnh ra đời của lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Nêu và phân tích nội dung cơ  bản của Lời kêu gọi toàn quốc kháng  
chiến.
+ Nêu ngắn gọn ý nghĩa của lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
­ Phần kết luận: Nêu khái quát các ý đã trình bày ở phần mở đầu và phần  
thân bài.
Trong việc lập đề cương một bài viết cần tránh hai việc: Một là lập đề 
cương quá sơ  lược, không định hướng bài viết làm cho nên khi làm viết bài 
16


làm một cách tùy tiện; hai là, lập đề cương quá chi tiết, mất nhiều thời gian,  
ảnh hưởng đến việc hoàn thành bài viết.
2.2.3.3: Kĩ năng phân bố thời gian làm bài
Trong thực tế nhiều năm qua, không ít học sinh làm bài môn khoa học xã 
hội nói chung và làm bài thi môn Lịch sử  nói riêng thường bị  lạm dụng về 
thời gian. Việc bố  trí thời gian để  làm các câu hỏi trong đề  bài là rất cần 
thiết. Muốn vậy khi tiếp xúc với đề, các em cần phải bố trí thời gian để  trả 
lời từng câu hỏi như thế nào? Trước hết chúng ta phải xác định câu nào có số 
điểm cao nhất, yêu cầu lượng kiến thức nhiều nhất, chúng ta giành thời gian 
cho câu đó nhiều nhất. Phải tránh tính trạng câu nào học thuộc thì chăm chú  
làm câu đó mà không biết cách phân định về thời gian.
Ví dụ: đề ra có ba câu:
Câu 1 (2,0 điểm) : Anh (chị) hãy phân tích bài học kinh nghiệm của cách  
mạng tháng Tám(1945)?
Câu 2 (3,5 điểm): Dựa vào ba sự  kiện quan trọng sau đây: Chiến dịch  
Việt Bắc (1947), Chiến dịch Biên giới (1950) và chiến thắng Điện Biên Phủ 

(1954), anh chị hãy làm sáng tỏ bước phát triển của cuộc kháng chiến chống  
thực dân Pháp của nhân dân ta.
Câu 3 (2,0 điểm): Anh chị  hãy trình bày những thành tựu (từ  sau chiến  
tranh thế  giới thứ  hai đến năm 1991) của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật 
của nhân loại ?
Câu 4 (2,5 điểm): Phân tích sự lãnh đạo tài tình sáng tạo của Đảng Cộng 
sản Đông Dương trong cách mạng tháng Tám ? Vai trò của Chủ  tịch Hồ  Chí 
Minh đối với thắng lợi của cách mạng Tám năm 1945 ?
Với bôn câu c
́
ủa đề thi như vậy, chắc chắn rằng các em phải giành thời 
gian nhiều nhất cho câu 2.Trong thời gian 150 phút nên bố trí như sau: Câu 1:  
30; Câu 2: 45 phút; Câu 3: 30 phút; Câu 4: 35 phút

17


Các em phải giành một khoảng thời gian khoảng 10 phút để  đọc dò lại  
toàn bộ  bài làm trước khi nộp bài ­ đây là khâu khá quan trọng nhưng rất 
nhiều em học sinh hay bỏ qua.
2.2.4. Biện pháp 4: Kĩ năng nhận dạng đề thi
2.2.4.1. Loại đề nhận thức lịch sử
Là đề  thi theo một chủ đề  hay vấn đề  lịch sử  nhất định được đặt dưới 
dạng câu hỏi yêu cầu cần giải đáp. Loại đề này thường có nội dung khó, yêu 
cầu học sinh phải suy nghĩ nhiều, hiểu biết kiến thức lịch sử  chính xác, hệ 
thống. Học sinh phải có năng lực độc lập suy nghĩ để giải quyết vấn đề  nêu 
ra, học sinh phải có trình độ tư duy cao, có khả năng lập luận, lý giải vấn đề.  
Các dạng thường gặp như: Lịch sử thế giới có nhiều nội dung phong phú đa  
dạng và những đảo lộn bất ngờ. Bằng những kiến thức đã học em hãy giải 
thích vấn đề trên?

Đê lam đ
̉ ̀ ược đê trên hoc sinh phai tra l
̀
̣
̉
̉ ơi đ
̀ ược những y c
́ ơ ban:
̉
Trong khoang h
̉
ơn nửa thê ki, giai đoan t
́ ̉
̣ ừ 1945 đên năm 2000 đa diên ra
́
̃ ̃  
nhiêu s
̀ ự  kiên to l
̣
ơn, quyêt liêt va ca nh
́
́ ̣
̀ ̉ ưng đao lôn bât ng
̃
̉
̣
́ ờ điêu đo đ
̀ ́ ược thể 
hiên.
̣

­ Chu nghia xa hôi t
̉
̃ ̃ ̣ ừ pham vi môt n
̣
̣ ước trở  thanh môt hê thông.Trong
̀
̣
̣
́
 
nhiêu thâp niên, hê thông xa hôi chu nghia thê gi
̀
̣
̣
́
̃ ̣
̉
̃
́ ới la môt l
̀ ̣ ực lượng hung
̀  
manh, co anh h
̣
́̉
ưởng to lơn đôi v
́ ́ ới tiên trinh phat triên cua thê gi
́ ̀
́
̉
̉

́ ới . Nhưng do 
pham phai nhiêu sai lâm, hê thông xa hôi chu nghia đa ta ra vao nh
̣
̉
̀
̀
̣
́
̃ ̣
̉
̃ ̃
̃ ̀
ưng năm
̃
 
1989­1991.
­ Sau chiên tranh, cao trao giai phong dân tôc đa diên ra manh me 
́
̀
̉
́
̣
̃ ̃
̣
̃ở châu  
A, châu Phi va Mi­la­tinh. Kêt qua la hê thông thuôc đia cua chu nghia đê quôc
́
̀ ̃
́
̉ ̀ ̣

́
̣
̣
̉
̉
̃ ́ ́ 
đa sup đô. H
̃ ̣
̉ ơn 100 quôc gia đôc lâp tre tuôi ra đ
́
̣ ̣
̉
̉
ời, ngay cang gi
̀ ̀
ữ vai tro quan
̀
 
trong trên tr
̣
ương quôc tê. Nhiêu n
̀
́ ́
̀ ước đa thu đ
̃
ược nhiêu thanh t
̀
̀ ựu to lơn vê
́ ̀ 
kinh tê, xa hôi.

́ ̃ ̣

18


Sau chiên tranh thê gi
́
́ ơi th
́ ứ hai, cac n
́ ươc t
́ ư ban chu nghia co nh
̉
̉
̃ ́ ưng net
̃
́ 
nôi bât:
̉ ̣
+ Kinh tê cac n
́ ́ ươc t
́ ư ban phat triên nhanh chong, tuy nhiên co luc không
̉
́
̉
́
́ ́
 
tranh khoi suy thoai khung hoang.
́
̉

́
̉
̉
+ Mi v
̃ ươn lên trở thanh n
̀ ươc t
́ ư ban giau manh nhât, đ
̉
̀
̣
́ ứng đâu hê thông
̀ ̣
́  
tư ban chu nghia va theo đuôi m
̉
̉
̃ ̀
̉ ưu đô thông tri thê gi
̀ ́
̣ ́ ới.
+ Xu hương liên kêt khu v
́
́
ực vê kinh tê­ chinh tri cang ngay phô biên, điên
̀
́ ́
̣ ̀
̀
̉ ́
̉  

hinh Liên minh châu Âu.
̀
­ Vê quan hê quôc tê, s
̀
̣
́ ́ ự  xac lâp cua trât t
́ ̣
̉
̣ ự  cua thê gi
̉
́ ới hai cực vơi đăc
́ ̣  
trưng lơn la s
́ ̀ ự  đôi đâu gay găt gi
́ ̀
́ ữa hai phe tư  ban chu nghia va xa hôi chu
̉
̉
̃ ̀ ̃ ̣
̉ 
nghia. Đăc tr
̃
̣ ưng nay la nhân tô chu yêu chi phôi nên kinh tê chinh tri thê gi
̀ ̀
́ ̉ ́
́ ̀
́ ́
̣
́ ới 
va quan hê quôc tê trong phân l

̀
̣
́ ́
̀ ớn nửa sau thê ky XX.
́ ̉
­ Vơi nh
́ ưng tiên bô phi th
̃
́
̣
ương va nh
̀
̀ ưng thanh t
̃
̀ ựu ki diêu, cuôc cach
̀ ̣
̣
́  
mang khoa hoc ki thuât đa va se đ
̣
̣
̃
̣
̃ ̀ ̃ ưa lai nh
̣
ưng hê qua nhiêu măt không l
̃
̣
̉
̀

̣
ường  
hêt đ
́ ược đôi v
́ ới loai ng
̀ ười cung nh
̃
ư môi quôc gia, dân tôc.
̃
́
̣
2.2.4.2. Đề thi xác định, phân tích tính chất của sự kiện lịch sử
Phân tích, chứng minh là một dạng đề được xem là "khó" nhất trong các  
dạng đề thi khi tiến hành thực hiện một bài làm lịch sử. Với cấp độ  yêu cầu  
đối với học sinh THCS, dạng đề này thường chưa đặt ra yêu cầu cao, song lại 
phải vận dụng thường xuyên trong quá trình học và làm bài. 
Ví dụ  đề  thi: “ Hãy phân tích tính đúng đắn khoa học và sáng tạo trong  
cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái quốc soạn thảo? 
Để  làm được đề  này học sinh phải phải nắm vững các vấn đề  cơ  bản  
sau đây:
a. Nêu hoàn cảnh ra đời của cảnh ra đời của Cương lĩnh chính trị  đầu 
tiên:
Tại hội nghị  thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930), các đại 
biểu đã thảo luận và thông qua chính Cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của 
19


Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên 
của Đảng.
b. Phân tích nội dung của Cương lĩnh

­ Cương lĩnh xác định đường lối chiến lược cách mạng Đảng là tiến  
hành cuộc cách mạng “ tư  sản dân quyền và thổ  địa cách mạng để  đi tới xã 
hội Cộng sản”.
­ Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và  
tư  sản phản cách mạng làm cho nước Việt Nam được độc lập tự  do, lập  
chính phủ  công nông binh, tịch thu hết sản nghiệp lớn của đế  quốc và bọn 
phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất...
­ Lực lượng của cách mạng là công nông, tiểu tư  sản, trí thức. Còn phú 
nông, trung tiểu địa chủ  và tư  sản sản thì phải lợi dụng hoặc trung lập học, 
đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới.
­ Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp vô sản sẽ  giữ 
vai trò lãnh đạo cách mạng.
c. Ý nghĩa của Cương lĩnh
Cương lĩnh chính trị  đầu tiên của Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc 
soạn thảo tuy còn vắn tắt, song đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo,  
sớm kết hợp đúng đắn về vấn đề dân tộc và giai cấp. Độc lập và tự  do là tư 
tưởng chủ yếu của Cương lĩnh này.
2.2.4.3. Đề thi xác định nguyên nhân thành công của một sự kiện lịch sử
Đây là loại đề thi thường gặp nhưng cái khó của học sinh là lý giải được  
nguyên nhân nào có tính chất quyết định nhất. Với loại đề này học sinh phải 
trình bày được nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng phải lí giải được 
nguyên nhân chủ quan có vai trò quyết định đến nguyên nhân thành công của 
một sự kiện lịch sử.
Ví dụ: Đề thi xác định nguyên nhân thành công của cách mạng tháng Tám 
1945, nguyên nhân nào có tính chất quyết định nhất? Vì sao?
20


Để làm được đề này, học sinh phải nắm vững các vấn đề cơ bản sau:
Thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945 là kết quả  tổng hợp của những 

nhân tố khách quan và chủ quan:
* Về khách quan:
Cach mang tháng Tám th
́
̣
ắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu một phần nhờ 
có hoàn cảnh quốc tế thuận lợi. Chiến tranh thế giới thứ hai của bọn đế quốc 
làm cho chúng ngày càng thêm suy yếu. Tiếp đó là cuộc chiến đâu c
́ ủa nhân 
dân Liên Xô và lực lượng dân chủ  đã từng bước làm thất bại lực lượng phát  
xít Đức­ I­ta­li­a­Nhật Bản: Tất cả đã tác động đến cách mạng thế giới, thúc 
đẩy các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng.
Đến khi lực lượng đồng minh và Liên Xô đánh bại Phát xít Nhật ở Châu 
Á Thái Bình Dương vào ngày 14/8/1945 đã tạo nên thời cơ  khách quan cho 
cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đó là thời cơ  “ ngàn năm có một” được 
Đảng ta triệt để lợi dụng, kịp thời chớp lấy, phát động toàn dân nổi dậy khởi 
nghĩa và giành thắng lợi một cách nhanh chóng và ít đổ máu.
Tuy nhiên, điều kiện khách quan đó chỉ  có thể  được phát huy thông qua 
điều kiện chủ quan của ta.
* Về chủ quan:
Trong những nguyên nhân đó nguyên nhân có Đảng lãnh đạo là nhân tố 
cơ bản nhất để cách mạng tháng Tám thắng lợi.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước sâu sắc, đã kiên cường  
đấu tranh bất khuất từ  ngàn xưa cho độc lập tự  do.Vì vậy, khi Đảng Cộng 
sản Đông Dương và mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì mọi  
người hăng hái hưởng ứng, nhất tề đứng lên cứu nước cứu nhà.
Có khối liên minh công nông vững chắc, tập hợp được mọi lực lượng 
yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, biết kết hợp tài tình  
đấu tranh chinh tr
́

ị và vũ trang, đấu tranh du kích và khởi nghĩa từng phần.

21


Thắng lợi của cach mang tháng Tám nh
́
̣
ờ  có sự  lãnh đạo sáng suốt của 
Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chi Minh .
́
Trong những nguyên nhân đó nguyên nhân có Đảng lãnh đạo là nhân tố 
cơ bản nhất để cách mạng tháng Tám thắng lợi.
Khi xác định nguyên nhân quyết định nhất, trước hết phải thấy rằng  
nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định, nguyên nhân khách quan chỉ có 
tác dụng đưa cách mạng tháng Tám nhanh chóng giành được thắng lợi và ít đổ 
máu. Trong các nguyên nhân chủ  quan đó vai trò lãnh đạo của Đảng và Hồ 
Chí Minh là nguyên nhân quyết định nhất
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn,  
sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử  Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải  
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ 
nghĩa xã hội. Với đường lối cách mạng đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu  
tranh trong 15 năm, qua các lần diễn tập (1930­1931), (1936­1939), (1939­
1945). Đặc biệt khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), Đảng ta và chủ  tịch Hồ 
Chí Minh phat đ
́ ộng cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề  cho Tổng  
khởi nghĩa. Và khi thời cơ  xuất hiện, Đảng ta và chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã  
nhanh chóng chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong 
toàn quốc, đưa cách mạng tháng Tám đến thắng lợi cuối cùng.
2.2.5. Biện pháp 5: Chú trọng việc kiểm soát kiến thức của học sinh  

thông qua từng chuyên đề và qua các bài kiểm tra.
Đây là hoạt động có ý nghĩa quyết định đến sự  thành công của công tác  
bồi dưỡng mà bản thân đã áp dụng trong thời gian được phân công trực tiếp  
giảng dạy. Trước khi học chuyên đề  mới nhưng ki
̃
ến thức học sinh đã bồi 
dưỡng ở chuyên đê tr
̀ ước được giáo viên kiểm tra nhuần nhuyễn tạo cơ sở để 
các em dễ  dàng tiếp cận các chuyên đề  sau. Bởi lịch sử  có sự  logic của nó  
chuyên đề trước là nguyên nhân của chuyên đề sau.

22


Có hai cách kiểm soát kiến thức cho học sinh đó là: Kiểm tra bằng lời  
gọi học sinh lên bảng trình bày giáo viên và các thành viên trong lớp nghe,  
nhận xét, bổ  sung kiến thức với biện pháp này học sinh có cơ  hội trình bày 
quan điểm của mình trước tập thể, rèn luyện cho các em tâm lí bình tĩnh tự tin  
khi làm bài.Trong quá trình kiểm soát giáo viên có thể cho học sinh tự kiêm tra
̉
 
lẫn nhau. Kiểm tra bằng cách gọi học sinh ghi lại phần kiến thức đã học. 
Biện pháp này có hiệu quả vừa tác động đến óc, tai mắt do vậy huy động tối  
đa đa khả năng của các em. Trong quá trình học sinh thể hiện giáo viên có thể 
điều chỉnh cách trình bày bài của các em. Qua phần kiến thức bạn trình bày 
các em có thể tự sữa sai và bổ sung những kiến thức còn thiếu. Đồng thời đây 
cũng là thời gian để các em tự tái hiện lại kiến thức khắc sâu nhớ  bền vững  
kiến thức cho bản thân mình.
Công tác kiểm tra thường xuyên sau mỗi chương hoặc sau mỗi chuyên 
đề  được giáo viên chú trọng. Việc làm này giúp học sinh tự  trình bày những 

kiến thức đã thu nhận được vân dung kiên th
̣
̣
́ ưc đa hoc vao giai quyêt cac câu
́ ̃ ̣
̀
̉
́ ́
 
hoi m
̉ ở, qua đó giáo viên sẽ  có điều kiện giúp các em điều chỉnh cách trình 
bày bài, cách dùng từ, diễn đạt ý. Học sinh giỏi môn Lịch sử  nói chung và  
Lịch sử  9 nói riêng không chỉ  nắm vững kiến thức lịch sử, kĩ năng phân tích 
đánh giá sự  kiện Lịch sử, mà còn có sự  sáng tạo. Vì vậy, trong quá trình bồi 
dưỡng cho học sinh chúng tôi thường xuyên quan tâm đến việc chấm và sửa 
bài cho học sinh một cách chu đáo kĩ càng để các em tự bổ sung kiến thức đây  
là một trong những giải pháp quan trọng giúp cho công tác bồi dưỡng đạt kết 
quả cao. 
2.2.6. Biện pháp 6: Xây dựng tư tưởng, tâm lý vững chắc cho học sinh.
Trong nhiều năm thực hiện công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, bản thân 
tôi nhận thấy rằng cần phải tạo cho học sinh có một tâm lý thật sự thoải mái 
trong quá trình ôn tập cũng như  khi chuẩn bị  bước vào ki thi. Tránh gây cho
̀
 
học sinh áp lực nặng nề, chẳng hạn như: Giáo viên luôn tạo  ấn tượng cho  
23


học sinh về  kỳ  thi học sinh giỏi là cực ki khó, đòi h
̀

ỏi sự  cao siêu...điều này 
làm cho học sinh có cảm giác lo sợ, mất tự tin hoặc giáo viên luôn áp đặt cho  
học sinh rằng đã thi là phải đậu, phải có số  điểm cao...Làm như  vậy sẽ  gây  
áp lực tâm lý cho học sinh và dẫn đến kết quả  không tốt, thậm chí có nhiều  
học sinh vì sợ  không đạt được mục tiêu bắt buộc đó nên đã xin từ  bỏ  đội  
tuyển học sinh giỏi.
Muốn làm tốt vấn đề nêu trên, theo tôi trước hết người giáo viên phải có  
những tư vấn cần thiết làm cho học sinh có cảm giác rằng ki thi h
̀
ọc sinh giỏi  
dù  ở  cấp nào cũng vậy nó vẫn giống như  các ki thi di
̀
ễn ra thường xuyên  ở 
nhà trường. Ngoài ra tôi thường nêu rõ quan điểm rằng  "Khi các em được  
chọn đi ôn thi thì phải cố gắng hết mình. Nếu đạt kết quả cao thì càng tốt, còn  
nếu không thì chúng ta vẫn vui, vẫn hãnh diện vì đó là sự cố gắng lớn lao của  
bản thân mình". Chính những động thái này của giáo viên sẽ làm cho học sinh  
có cảm giác an tâm, thoải mái nhưng luôn cố  gắng để  học tập một cách tốt 
nhất.
Tóm lại, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử 
9 nói riêng là một trong những hoạt động vất vả, khó khăn và thử thách đối 
với những người làm nghề  dạy học, là công tác cực kì quan trọng giúp 
cho ngành giáo dục phát hiện nhân tài, lựa chọn những mầm giống tương lai 
cho đất nước trong sự nghiệp trồng người. Đồng thời giúp cho học sinh  thực 
hiện  được  ước mơ  là con ngoan, trò giỏi và có định  hướng đúng về  nghề 
nghiệp của mình trong tương lai.
Để  làm được điều đó hơn ai hết người thầy cần không ngừng học hỏi 
và tự  học hỏi để  nâng cao trình độ  đúc rút kinh nghiệm, thường xuyên xây 
dựng, bổ sung chương trình và sáng tạo trong phương pháp giảng dạy.
Người thầy có vai trò quyết định nhất đối với kết quả hoc sinh gioi, các

̣
̉
 
em hoc sinh có vai trò quy
̣
ết định trực tiếp đối với kết quả của mình, kết quả 

24


công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có đạt hay không, điều đó còn phụ thuộc rất  
lớn ở các em học sinh.
2.3. Kêt qua đat đ
́
̉ ̣ ược
* Những kết quả qua những năm ban thân tr
̉
ực tiếp bồi dưỡng HSG:
Số học sinh 

Năm học

hứng thú
35%
50%
70%

2012­2013
2013­2014
2014­2015


Năm học

Số học sinh không  Số học sinh không biết 

Số HS đạt giải

hứng thú
60%
45%
25%
Số HS đạt 

vận dụng kiến thức
55%
40%
20%

Điểm TB đội 

Xếp vị thứ 

cấp huyện
giải cấp tỉnh
tuyển
cấp tỉnh
2012­2013
9
5
5,2

3
2013­2014
8
8
6,75
1
2014­2015
8
5
6,98
3
*   Có   được   kết   quả   như   trên,   bản   thân   tôi   rút   ra   được   một   số   kinh  
nghiệm như sau:
Làm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi phải có tâm huyết, yêu người, yêu 
học sinh, có tinh thần trách nhiệm, chịu khó tìm tòi sáng tạo trong công tác  
chuyên môn, biết khơi dậy sự đam mê, hứng thú làm cho các em biết yêu thích 
bộ môn.
Có kế  hoach đung đăn phù h
̣
́
́
ợp với đối tượng học sinh để  đề  ra biện  
pháp phù hợp, phối hợp chặt chẽ với giáo viên tuyến 2 và phụ huynh học sinh  
để  kiểm soát kiến thức và đảm bảo an toàn giao thông cho học sinh, tạo sự 
đoàn kết yêu thương nhau giữa các em học sinh trong lớp. 
Giáo viên luôn tìm tòi sưu tầm các bộ  đề  thi năm trước và đề  thi các 
tỉnh khác cho học sinh làm quen tránh gây tâm trạng bỡ  ngỡ  cho các em khi 
làm bài. 
Trong bồi dưỡng, cách thức ôn tập được tiến hành một cách phong phú 
đa dạng trong bài học. Kiến thức phù hợp với trình độ  học sinh, chú ý nâng  

cao để phù hợp với học sinh giỏi.
25


×