I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Thế kỉ XXI, đất nước ta có bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt đòi
hỏi mỗi người cần phải năng động, sáng tạo, có tay nghề cao, sẵn sàng thích
ứng với những biến đổi diễn ra hàng ngày. Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số
29 NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ (VIII)
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Điều đó đặt ra một yêu cầu cấp thiết đối
với sự nghiệp giáo dục là phải đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài phục vụ
đất nước.
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi, ươm trồng những hạt giống nhân tài cho
quê hương, đất nước là một nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết vì những
người tài bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển.
Đặc biệt đối cấp học THCS, bồi dưỡng học sinh giỏi được xem là mũi nhọn
của mỗi trường nói riêng của ngành giáo dục nói chung. Kết quả học sinh
giỏi là thước đo năng lực của mỗi nhà giáo và cũng là thương hiệu cho mỗi
nhà trường.
Trong những năm gần đây, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch
sử 9 đạt được thành tích đáng kể. Tuy nhiên chất lượng của học sinh giỏi
chưa ổn định chưa đáp ứng kì vọng của nhà trường, của ngành giáo dục đề ra.
Điều đó, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như xã hội có những
nhận thức chưa đầy đủ về vị trí chức năng của bộ môn Lịch sử, nhiều phụ
huynh cho đây là môn học phụ không mang lại tương lai cho con em mình
không muốn cho con em tham gia. Vì thế, tình trạng học sinh chưa nắm được
những sự kiện lịch sử cơ bản hay nhớ sai hoặc nhầm lẫn kiến thức lịch s ử là
hiện tượng khá phổ biến.
1
Bản thân là một giáo viên trực tiếp bồi dưỡng trong những năm đầu
tham gia chất lượng còn thấp tâm lý của phụ huynh không muốn cho con em
mình tham gia đội tuyển tuy nhiên trong quá trình giảng dạy giáo viên đã chủ
động trong việc nắm bắt kiến thức và đối tượng học sinh làm tốt công tác tư
tưởng và đưa ra biện pháp phù hợp do vậy đã làm thay đổi nhận thức của phụ
huynh và học sinh chất lượng đội tuyển không ngừng được nâng cao. Từ thực
tế đó bản thân mạnh dạn đưa ra sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao
chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 9”
Đã có một số nghiên cứu liên quan đến đề tài như thầy giáo Đinh Văn
Đồng trường THCS Hương Hóa Tuyên Hóa Quảng Bình với đề tài: “Giải
pháp bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 môn Lịch sử dự thi cấp tỉnh đạt hiệu
quả", hay đề tài “Một số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử”
của thầy Nguyễn Văn Sáng trường THCS Bình Hàng Tây. Tuy nhiên các thầy
cô giáo chỉ tập trung ở những giải pháp mang tính lý thuyết và bao trùm toàn
bộ chương trình bồi dưỡng môn Lịch sử ở cấp THCS. Còn những biện pháp
của tôi đã qua thực tiễn áp dụng và có hiệu quả thiết thực từ năm học 2012
2013 đến nay.
1.2. Điểm mới của đề tài
Với đề tài này đã có nhiều giáo viên nghiên cứu và thực nghiệm nhưng
trong quá trình giảng dạy bản thân tôi phát hiện ra nhiều điểm mới có thể
vận dụng tối ưu trong công tác bồi dưỡng đó là:
Cách kiểm soát kiến thức của học sinh thông qua từng chuyên đề và
qua các bài kiểm tra.
Cách hướng dẫn học sinh nhận dạng đề ra, cách làm bài của học sinh.
1.3. Pham vi ap dung cua đê tai
̣
́
̣
̉
̀ ̀
Đề tài áp dụng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 9 ở
đơn vị mình và đã áp dụng thành công trong công tác bồi dưỡng đội tuyển học
sinh giỏi lớp 9 tham gia cấp tỉnh.
2
II. PHẦN NỘI DUNG
2.1.Thực trạng của vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết
2.1.1. Về phía giáo viên:
Phần lớn giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử. Những người được phân công giảng dạy
tâm huyết với công tác bồi dưỡng, có năng lực chuyên môn vững vàng, biết áp
dụng các phương pháp đặc trưng bộ môn và ứng dụng công nghệ thông tin
vào quá trình dạy học góp phần nâng cao chất lượng đôi tuyên.
̣
̉
Song phương pháp ôn tập bồi dưỡng còn đơn điệu chủ yếu dạy kiến
thức ở sách giáo khoa kết hợp với sach giao viên các tài li
́
́
ệu tự sưu tầm được
và kinh nghiệm của bản thân. Tuy nhiên khả năng kết hợp đa dạng các ph
ương pháp trong ôn tập bồi dưỡng chưa linh hoạt, tính sáng tạo chưa cao.
Bên cạnh công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo viên còn phải bảo đảm
chất lượng đại trà, thậm chí còn làm công tác kiêm nhiệm khác, khối lượng
công việc nhiều do đó việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng
có phần bị hạn chế.
2.1.2. Về phía học sinh:
Trước đây học sinh quan niệm môn Lịch sử chỉ là môn học thuộc lòng,
không cần phải tư duy, không có bài tập, không cần đọc thêm tài liệu tham
3
khảo. Vì vậy học sinh chỉ học một cách hời hợt theo nội dung vở ghi, ít và
thiếu phần mở rộng, liên hệ. Kết quả là khi kiểm tra, học sinh không nắm
được các kiến thức, sự kiện, thời gian, câu hỏi mở rộng, nâng cao không giải
quyết được.
Học sinh chưa được đầu tư từ lớp đầu cấp, chỉ bắt đầu tuyển chọn từ
năm lớp 8. Lên lớp 9 là năm cuối cấp nên các em phải học rất nhiều môn.
Trong khi đó, thời gian học môn bồi dưỡng của học sinh chưa nhiều do các
em còn phải học các môn chính khóa và dành thời gian nhiều cho các môn học
khác.
Học sinh chưa thực sự yêu thích môn học, phần lớn các em đều cho rằng
học Lịch sử rất khó, khô khan, trừu tượng, quá nhiều sự kiện cần ghi nhớ…
Hơn nữa chương trình Lịch sử 9 quá rộng, quá dai, đ
̀ ộ nhớ của các em không
được lâu. Do đó, học sinh cảm thấy nhàm chán khi học lịch sử, nhận biết sự
kiện không sâu sắc nhầm lẫn giữa sự kiện này với sự kiện kia. Chính vì vậy
chất lượng đội tuyển chưa ổn định.
2.1.3 Nguyên nhân của thực trạng
Qua trao đổi với các đồng nghiệp và thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận
thấy một số nguyên nhân sau:
Một là chương trình chính khóa quá nhiều môn, thêm vào đó các em lại
tham bồi dưỡng học sinh giỏi nên rất hạn chế về thời gian tự học, tự nghiên
cứu.
Hai là tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi có khá nhiều, tuy nhiên các tài
liệu đó đơn thuần chỉ chứa đựng nội dung kiến thức thuần tuý, chưa có tài
liệu đề cập đến kinh nghiệm, cách thức, phương pháp, các kĩ năng làm bài
lịch sử một cách cụ thể để giúp giáo viên dễ dàng tiếp cận. Do đó công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi thường gặp khó khăn, kết quả chưa ổn định.
Ba là thực tế hiện nay, môn Lịch sử ít được học sinh, phụ huynh chú
trọng đầu tư và cho rằng đây là môn học phụ khó xác định nghề nghiệp trong
4
tương lai. Do đó việc hình thành đội tuyển học sinh có năng khiếu học tập bộ
môn rất khó khăn. Đa số học sinh lựa chọn, tham gia bồi dưỡng các môn học
khác đội tuyển Sử phải chọn sau điều đó ảnh hưởng không nhỏ công tác bồi
dưỡng và chất lượng của đội tuyển.
Mặt khác, học sinh chưa bắt kịp với sự đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát triển năng lực, chưa chủ động và linh hoạt trong bồi dưỡng.
* Kết quả cụ thể số học sinh bồi dưỡng HSG Sử 9 qua các năm trước
khi áp dụng đề tài như sau:
Năm học
20112012
Năm học
20112012
Tỷ lệ học
Tỷ lệ học sinh
sinh hứng thú
không hứng thú
20%
80%
Tỷ lệ học sinh không
biết vận dụng kiến
Số học sinh đạt
Số học sinh đạt giải
giải
cấp huyện
cấp tỉnh
3
5
thức
70%
Điểm TB
môn Sử
5,1
2.2. Các biện pháp thực hiện
2.2.1. Biện pháp 1: Dạy học sinh nắm kiến thức cơ bản
Phân phối chương trình và yêu cầu kiến thức trong chương trình Lịch sử
9 ở trường THCS chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, bài giảng trong SGK đều
nhằm mục đích cung cấp kiến thức cơ bản về tiến trình lịch sử thế giới và
Việt Nam theo diện rộng, chưa đi vào chiều sâu. Đối với học sinh giỏi yêu
cầu phải hiểu biết sâu sắc và toàn diện. Các em phải nắm chắc bản chất các
sự kiện, hiện tượng lịch sử, các vấn đề lịch sử,… để có đủ tự tin, có sự sáng
tạo khi giải quyết bất kì đề thi nào.
Trong chương trình bồi dưỡng, bản thân tôi kết hợp dạy kĩ hệ thống
kiến thức cơ bản theo sách giáo khoa kết hợp chuẩn kiến thức kĩ năng bằng
5
việc lựa chọn những sự kiện, những vấn đề lịch sử trọng tâm dạy cho các em
rồi tiến hành mở rộng kiến thức bằng các chuyên đề nâng cao.
Các chuyên đề trong chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử 9 đi
sâu làm rõ được hoàn cảnh lịch sử, nội dung bản chất của các vấn đề lịch sử,
các giai đoạn lịch sử ,mối quan hệ giữa quá khứ hiện tại tương lai. Đảm
bảo cho học sinh đạt được mức độ về kiến thức : nhận biết, thông hiểu, vận
dụng, phân tích, đánh giá.
Những kiến thức từ các chuyên đề là công cụ giúp học sinh giải quyết
tốt các loại đề thi. Giáo viên tiến hành dạy từng chuyên đề phù hợp với
chương trình khả năng tiếp nhận của từng đối tượng học sinh bồi dưỡng. Sau
khi dạy xong một chuyên đề, một bài lịch sử, giáo viên yêu cầu học sinh phải
dành một khoảng thời gian để suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề đó, đặc biệt là ý
nghĩa của sự kiện đó với giai đoạn trước và sau nó.
Ví dụ : Sau khi học sinh học xong chuyên đề Cuộc vận động dân chủ
trong những năm 19361939, tôi sẽ hỏi các em so với thời kì 19301931 chủ
trương của Đảng trong thời kì 19361939 có nhiều điểm khác? Tại sao có sự
khác nhau như vậy?
Với câu hỏi trên học sinh phải trả lời được những kiến thức sau:
Nội dung
19301931
Kẻ thù
Đế quốc, phong kiến
Nhiệm vụ
sai.
Chống đế quốc, giành Chống phát xít, chống chiến
độc lập dân tộc, chống tranh đế quốc, chống bọn
phong kiến giành ruộng phản động thuộc địa và tay sai
đất cho dân cày
đòi tự do, cơm áo hòa bình.
Mặt trận nhân dân phản đế
Mặt trận
Hình thức,
19361939
Bọn phản động Pháp và tay
Bí mật, bất hợp pháp
6
Đông Dương
Hợp pháp, nửa hợp pháp,
phương pháp đấu Bạo động vũ trang
công khai, nửa công khai.
tranh
Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì hoàn cảnh lịch sử có sự thay đổi so
với thời kỳ trước đặc biệt mặt trận nhân Pháp đã ban hành nhiều chính sách
về tự do dân chủ, ân xá tù chính trị cho các thuộc địa và lợi dụng tình hình
này, Đảng ta đã chủ trương đòi tự do dân chủ dân sinh.
Làm như vậy sẽ giúp học sinh nhớ được kiến thức và nếu gặp các dạng
bài hệ thống, so sánh, phân biệt, rút ra bài học kinh nghiệm... học sinh làm bài
đạt hiệu quả cao hơn.
Theo bản thân, các em được tham gia dự thi học sinh giỏi môn Lịch sử 9
phải nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn Lịch sử 9 kiến thức cơ bản ở
đây không chỉ là những sự kiện đơn lẻ mà phải bao gồm hệ thống những
hiểu biết cần thiết về những sự kiện, niên đại, nhân vật, địa danh, các nguyên
lý, quy luật, những kết luận khái quát, phương pháp, kĩ năng. Vì vậy, khi nắm
vững kiến thức học sinh mới có khả năng vận dụng để giải quyết được với
các loại câu hỏi, bài tập.
Bên cạnh đó việc quan trọng để cung cấp kiến thức cho học sinh là chọn
và giới thiệu những tài liệu đảm bảo chất lượng cho các em. Thị trường sách
hiện nay khá phong phú nhưng quỹ thời gian của học sinh thì có hạn, nên bản
thân chọn mua hoặc phôtô tài liệu cho học sinh như: Sách giáo viên Lịch sử 9,
Chuyên đề bồi dưỡng Sử 9, Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập Lịch sử 9,
Bài tập bổ trợ và nâng cao Lịch sử 9; 100 câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch
sử 12, Luyện thi cấp tốc các dạng bài tập từ các đề thi quốc gia môn Lịch sử;
Bộ đề thi Lịch sử. Giáo viên còn giới thiệu các địa chỉ tin cậy trên mạng
internet để học sinh tham khảo…phục vụ công tác bồi dưỡng đạt kết quả.
2.2.2. Biện pháp2 : Rèn luyện kĩ năng ôn tập cho đội tuyển.
2.2.2.1. Kĩ năng ghi nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản
7
Học Lịch sử không phải bắt buộc học sinh phải học thuộc lòng một cách
máy móc, một lúc phải nhớ quá nhiều sự kiện, song phải biết ghi nhớ, hiểu
một số sự kiện quan trọng, gắn với niên đại, địa danh, nhân vật lịch sử. Nếu
không ghi nhớ và không hiểu sự kiện lịch thì không thể làm tốt bài lịch sử, bởi
vì bài lịch sử không thể viết như một bài chính trị mà cần có sự kiện để
chứng minh.
Ví dụ, khi học về cách mạng tháng Tám, học sinh phải ghi nhớ và hiểu
Hội nghị toàn quốc từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945 hay Đại hội quốc dân Tân
Trào từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945.
Muốn làm tốt bài thi môn lịch sử các em cần phải ghi nhớ tốt sự kiện
lịch sử. Tuy nhiên nhiều em chưa có cách ghi nhớ phù hợp. Qua nhiều năm
bồi dưỡng bản thân đưa ra cho học sinh vài gợi ý về cách ghi nhớ.
Thứ nhất, ghi nhớ thời gian xảy ra sự kiện lịch sử. Mỗi bài, mỗi chương
đều có những sự kiện gắn với thời gian nhất định. Các em có kĩ năng ghi nhớ
logic, biết tìm ra điểm tựa để nhớ, có thể lập dàn ý, lập bảng hệ thống hóa.
Chẳng hạn, khi học về khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940); Khởi nghĩa
Nam Kì (23/11/1940); Binh biến Đô Lương (14/1/1941); các em có thể ghi nhớ
bằng cách: lấy mốc khởi nghĩa Bắc Sơn làm chuẩn rồi suy ra cứ cách nhau
hai tháng diễn ra một sự kiện hay các sự kiện đều diễn ra trong tháng lẻ.
Các em có thể ghi nhớ máy móc mối quan hệ giữa các sự kiện, giữa thời
gian và địa điểm xảy ra sự kiện. Ví dụ khi học bài Cuộc kháng chiến chống
Pháp kết thúc trong đó có chiến dịch Điện Biên Phủ các em phải nắm vững ba
đợt tấn công của quân ta vào cứ điểm Điện Biên Phủ bằng cách lấy ngày
13/3/1954 là ngày mở đầu, rồi dùng sự kiện Ngày quốc tế Phụ nữ (8/3) làm
điểm tựa và suy ra, cách 5 ngày quân ta mở cuộc tiến công đầu tiên vào cứ
điểm Điện Biên Phủ và tính ra rằng đợt 1 diễn ra trong 5 ngày... Cứ như vậy
các em tìm cách nhớ đợt 2 và đợt 3.
8
Thứ hai, ghi nhớ các nhân vật lịch sử. Thông thường trong lịch sử mỗi sự
kiện đều gắn liền với những nhân vật nhất định, để dễ nhớ các nhân vật lịch
sử, theo bản thân có hai cách: một là lấy người để nói việc, hai là lấy việc để
nói người. Ví dụ khi nói về Hồ Chí Minh chúng ta có thể liên hệ đến Tuyên
ngôn độc lập hoặc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khi nói về chiến thắng
Điện Biên Phủ chúng ta nghĩ ngay đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp.Việc
kiểm tra sự ghi nhớ các sự kiện lịch sử phải được tiến hành thường xuyên, ta
có thể kiểm tra vào thời gian đầu của buổi bồi dưỡng. Hình thức kiểm tra nên
đa dạng, các thành viên trong đội tuyển tự kiểm tra lẫn nhau.
2.2.2.2. Kĩ năng khái quát, tổng hợp sự kiện lịch sử
Vấn đề ghi nhớ sự kiện là cần thiết, là yêu cầu cần đạt khi bồi dưỡng
đội tuyển học sinh giỏi Lịch sử. Tuy nhiên đó chỉ mới là yếu tố “cần” nhưng
chưa “đủ” của một học sinh giỏi môn Lịch sử. Bởi vậy, sau khi nắm được
nội dung của các sự kiện đơn lẻ học sinh phải biết so sánh, tổng hợp, khái
quát, liên kết các sự kiện đó theo dòng lịch sử, hoặc đánh giá khái quát các sự
kiện thành vấn đề lịch sử theo một yêu cầu nhất định nào đó.
Trong thực tế đây là một “điểm yếu” của các học sinh trong đội tuyển
học sinh giỏi Lịch sử hiện nay. Chúng ta thường thấy rằng, các em nắm các
sự kiện lịch sử đơn lẻ rất tốt, nhiều em nhớ đến từng chi tiết nhỏ, nhưng
“điểm yếu” của các em chính là sự kết nối, khái quát, so sánh, phân tích các
sự kiện đó thành một chủ đề, một vấn đề, thì các em lại rất bị động, lúng
túng.
Khi hướng dẫn cho học sinh trình bày các sự kiện lịch sử theo chủ đề,
giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh không nên chỉ đơn thuần trình bày
các sự kiện một cách đơn lẻ, mà trong quá trình trình bày, học sinh cần có sự
“đánh giá”, “bình luận” các sự kiện.
Ví dụ: Khi học xong chuyên đề: Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự
thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Giáo viên hỏi học sinh: Thời cơ
9
trong cách mạng tháng Tám đã chín muồi để Đảng ta quyết định tổng khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ? Vậy thời cơ trong cách mạng tháng
Tám là gì?
Để trả lời được câu hỏi trên học sinh phải hiểu được cách mạng tháng
Tám thành công ngoài vệc chuẩn bị lâu dài còn phải biết chớp lấy lấy thời cơ.
Thời cơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố bên trong và yếu tố bên
ngoài( chủ quan và khách quan). Trong đó điều kiện chủ quan giữ vai trò quan
trọng nhất.
Vê nguyên nhân ch
̀
ủ quan: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày
(3/2/1930) có quá trình chuẩn bị chu đáo trong 15 năm với các lần diễn tập
(19301931), (19361939); (19391945). Đặc biệt trong phong trào cách mạng
19391945, Đảng ta đã chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: Lực lượng chính trị, lực
lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và bước đầu tập duyệt cho quần chúng
đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Khi nghe tin phát xít Nhật bị đồng minh
đánh bại quân Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động mất hết tinh thần
chiến đấu. Quân đồng minh chưa kịp nhảy vào Đông Dương. Qua cao trào
kháng Nhật cứu nước, quần chúng đã sẵn sàng chờ lệnh khởi nghĩa.
Vê nguyên nhân khách quan: Th
̀
ời cơ ngàn năm có một, tháng 5/1945,
phát xít Đức bị tiêu diệt, ngày 14/8/1945, phát xít Nhật bị quân đồng minh
đánh bại. Ngày 15/8/1945, quân Nhật đầu hàng quân đồng minh không điều
kiện.
Như vậy, cách mạng tháng Tám nổ ra trong điều kiện chủ quan và khách
quan đã chín muồi. Đó là thời cơ ngàn năm có một vì nó rất quý và rất hiếm
nếu ta bỏ lỡ thời cơ sẽ không bao giờ trở lại. Nhận thức rõ thời cơ có một
không hai này Chủ Tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Đây là thời cơ có ngàn năm có
một cho nhân dân ta nổi dậy. Lần này dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”. Điều đó thể hiện tinh thần
10
đoàn kết trên dưới một lòng của nhân dân ta để giành độc lập dân tộc thoát ra
khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
2.2.2.3. Kĩ năng liên hệ, so sánh, đối chiếu tài liệu lịch sử
Với kĩ năng này yêu cầu các em phải biết liên hệ, so sánh, đối chiếu tài
liệu đang học với hiện tại. Công việc này được tiến hành trên cơ sở nắm
vững sự kiện đang học và hiểu rõ tình hình, nhiệm vụ hiện nay. Có nhiều
biện pháp để tiến hành:
Một là: Rút ra bài học kinh nghiệm của quá khứ cho hiện tại. Ví dụ: Từ
sự thắng lợi của công cuộc cải cách Trung Quốc và sự thất bại của công
cuộc cải tổ của Liên Xô, Đảng ta rút ra được bài học kinh nghiệm gì?
+ Cải cách, đổi mới phải kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội, làm cho
mục tiêu đó thực hiện có hiệu quả hơn bằng những bước đi, biện pháp đúng
đắn...
+ Đảm bảo quyền lãnh đạo tuyết đối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nắm vững nguyên lí chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí minh lấy dân
làm gốc...
+ Đổi mới toàn diện, đồng bộ, trọng tâm là đổi mới về kinh tế, đổi mới
về chính trị phải thận trọng...
Hai là: So sánh sự kiện lịch sử, rút ra điểm giống nhau, khác nhau, điểm
mạnh, điểm yếu là một kĩ năng không thể thiếu trong việc bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Lịch sử nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 9 nói
riêng . Nội dung so sánh có thể là các phong trào cách mạng, các chiến dịch
quân sự, các cuộc cách mạng...
Để học sinh nắm được kĩ năng này, trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên
nên "định dạng" các hình thức so sánh thường gặp như: So sánh các cuộc cách
mạng, nội dung so sánh thường là: Lực lượng cách mạng, đối tượng của cách
mạng, tính chất cách mạng, mục tiêu của cách mạng, phương pháp tiến hành
cách mạng, kết quả, ý nghĩa của cách mạng....
11
So sánh về điều kiện lịch sử của các quốc gia trong một thời điểm lịch
sử cụ thể nào đó về các nội dung: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, giáo
dục...
Ví dụ: So sánh điểm khác nhau cơ bản giữa Hiệp định Sơbộ(6/3) với
Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) để thấy bước tiến của ta trong cuộc đấu
tranh ngoại giao.
Điểm khác nhau cơ bản:
Hiệp định Sơbộ(6/3), chính phủ Pháp công nhận nước ta là một quốc
gia tự do nằm trong Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp. Còn Hiệp định Giơ
nevơ (21/7/1954), Pháp và các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng độc
lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương.
Trong lúc kí Hiệp định sơ bộ do ta còn yếu hơn địch nên ta phải chấp
nhận điều khoản đó. Đây là sách lược mềm dẻo để phân hóa kẻ thù. Còn
trong khi kí hiệp định Giơnevơ ta đã giành thắng lợi quyết định ở Điện Biên
Phủ, quyết định đến sự thất bại của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Như vậy, so với Hiệp định Sơbộ, Hiệp định Giơnevơ là một bước
tiến vượt bậc trong cuộc đấu tranh ngoại giao của ta.
2.2.2.4. Kĩ năng phân tích, chứng minh.
Phân tích, chứng minh là một kĩ năng được xem là "khó" nhất trong các kĩ
năng khi tiến hành thực hiện một bài làm lịch sử. Với cấp độ yêu cầu đối với
học sinh THCS, kĩ năng này thường chưa đặt ra yêu cầu cao, song lại phải
vận dụng thường xuyên trong quá trình học và làm bài.
Tuy nhiên để rèn luyện kĩ năng phân tích chứng minh một nội dung, sự
kiện lịch sử đòi hỏi sự "tư duy" cao độ, bởi vậy qua quá trình bồi dưỡng đội
tuyển học sinh giỏi chúng ta nên chú ý rèn luyện cho các em kĩ năng này một
cách nhuần nhuyễn.
12
Trong bộ môn Lịch sử 9, kĩ năng phân tích thường là phân tích các nguyên
nhân thành công hay thất bại, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm của một sự
kiện lịch sử nào đó.
Rèn luyện kĩ năng phân tích, chứng minh, tức là rèn luyện cho các em
biết "mổ xẻ". Để làm được điều chúng ta biết đặt ra các câu hỏi "tại sao", "vì
sao".
Một bài tập phân tích "sâu" tức là trả lời đầy đủ, chuẩn xác yêu cầu cần
phân tích, mặc dù ở cấp THCS, trong kết cấu đề thi, kĩ năng này được đặt ra
nhiều bởi biết "phân tích" là thể hiện cao khả năng tư duy lịch sử.
Chứng minh phong trào cách mạng 19301931 diễn ra trên quy mô rộng
khắp, hình thức đấu tranh phong phú, tính chiến đấu triệt để: Đối với yêu cầu
này các em phải lấy sự kiện để chứng minh sự kiện đó nằm trong diễn biến
của phong trào cách mạng cách mạng 19301931 đỉnh cao phong trào Xô viết
Nghệ Tĩnh đồng thời các em phải biết khái quát tổng hợp để có kiến thức
toàn diện khi đó mới làm đầy đủ:
Ngay từ khi đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phát động quần chúng
đấu tranh chống thực dân, phong kiến để đòi độc lập cho dân tộc và ruộng
đất cho dân cày.
Tính quy mô rộng khắp:
+ Phong trào phát triển trên quy mô rộng khắp cả nước, kéo dài gần hai
năm(cuối năm 1930 đầu năm 1931).
+ Phong trào đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân chủ yếu là
quần chúng công nông, với hàng trăm cuộc đấu tranh lớn nhỏ, tiêu biểu là
cuộc đấu tranh của 5000 công nhân và nông dân Vinh Bến Thủy vào ngày
1/5/1930, cuộc biểu tình của hơn hai vạn nông dân Thanh Chương vào ngày
1/9/1930 và cuộc biểu tình của 6 vạn nông dân Hưng Nguyên ngày 12/9/1930.
Tính triệt để:
13
+ Phong trào đã nhằm vào hai kẻ thù cơ bản của nhân dân ta bọn đế
quốc phong kiến và tay sai.
+ Tại một số nơi thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh trước sức mạnh
đấu tranh của quần chúng, hệ thống chính quyền địch bị tan rã từng mảng,
bọn quan lại cường hào bỏ trốn, chính quyền công nông binh thành lập dưới
hình tức XôViết.
Sử dụng hình thức đấu tranh quyết liệt: Phong trào sử dụng hình thức
đấu tranh từ thấp đến cao, từ mít tinh, biểu tình đến đốt huyện đường, phá
nhà lao, kết hợp biểu tình với thị uy với hoạt đông vũ trang để tiến công địch.
+ Trong tháng 9,10/1930, phong trào sử dụng hình thức đấu tranh vũ trang
khởi nghĩa cướp chính quyền thành lập chính quyền cách mạng.
Như vậy, phong trào cách mạng 19301931, đỉnh cao XôViết Nghệ Tĩnh
là phong trào cách mạng rộng lớn đầu tiên của quần chúng công nông ở nước
ta do Đảng lãnh đạo. Tính quy mô rộng lớn, tính chất cách mạng triệt để và
hình thức đấu tranh quyết liệt của phong trào đã chứng minh bước phát triển
nhảy vọt về chất của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta một
khi có Đảng lãnh đạo.
2.2.3. Biện pháp 3: Rèn luyện kĩ năng làm bài cho học sinh
2.2.3.1. Kĩ năng đọc và tìm hiểu đề
Việc đọc và tìm hiểu đề bài rất quan trọng. Nếu chủ quan dễ dẫn đến
sai lạc yêu cầu của đề. Trước mỗi đề ra, tôi yêu cầu học sinh phải thực hiện:
Đọc kĩ đề viết ra giấy nháp những cụm từ quan trọng, nội dung cơ bản
của đề thi và những vấn đề cốt lõi về yêu cầu của đề.
Trên cơ sở đó bắt đầu suy nghĩ với đề ra như vậy sử dụng kiến thức
nào để làm bài.
Gạch những ý cơ bản cho câu trả lời vào giấy nháp, tức là phải xây
dựng một sườn đáp án trước khi làm bài.
14
Ví dụ: khi tiếp xúc với đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung Ương Đảng và
Tổng bộ Việt Minh đã thực hiện chủ trương gì để Việt Nam với tư cách là
một nước độc lập đón tiếp quân đồng minh vào giải giáp quân Nhật”. Nếu
không đọc kĩ đề, các em sẽ hiểu nhầm yêu cầu của đề hỏi về tình hình Việt
Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong khi đó yêu cầu của đề trình
bày hội nghị toàn quốc (14> 18/8/1945), quyết định Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trước khi quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật và sau đó tiếp
tục trình bày Đại hội quốc dân Tân Trào( 16 đến 17/81945) và Tổng khởi
nghĩa cách mạng tháng Tám.
Sau khi đọc kĩ đề các em phải hiểu đề. Đầu tiên các em bỏ thời gian
nhất định để suy nghĩ, phân tích, tìm hiểu những yêu cầu, nội dung cơ bản
của đề, tức là nêu những đòi hỏi của đề bài cần tập trung giải quyết. Hiểu
được yêu cầu của đề giúp các em định hướng cho cách làm bài của mình.
2.2.3.2. Kĩ năng xây dựng đề cương bài viết
Xây dựng đề cương bài viết nhằm đáp ứng những yêu cầu cơ bản của
bài, giữ được sự cân đối giữa các phần, chủ động thời gian làm bài.
Sau khi lập dàn ý mới bắt đầu trả lời câu hỏi. Phải có phần mở đề
trước khi làm bài các em có thể sử dụng hoàn cảnh lịch sử để mở bài nhưng
không nên quá dài dòng, chỉ cần vài câu, đủ ý để dẫn dắt vào nội dung trả lời.
Phần thân bài : Dựa trên cơ sở những ý cơ bản đã vạch ra, tập trung
liên hệ những kiến thức đã học, đã nắm được, nhớ được và sử dụng các
phương pháp liên kết câu, liên kết đoạn trong văn bản để làm bài không làm
theo kiểu gạch đầu dòng trên giấy nháp. Đây là trọng tâm nhất của câu trả
lời, điểm cao hay thấp là ở nội dung phần này.
Phần kết luận: Phải có phần kết luận trong làm bài, tóm tắt ý nghĩa, tác
dụng của phần thân bài để làm kết luận cũng như phần mở đầu, chỉ cần vài
câu, không nên dài dòng học sinh có thể sử dụng phần kết quả, ý nghĩa, hay
bài học kinh nghiệm cho phần kết luận.
15
Trong khi các em làm bài nên chọn câu dễ làm trước nhưng trong thi
học sinh giỏi môn Lịch sử khuyến khích làm các câu hỏi theo tiến trình lịch sử
câu nào sự kiện trước thì làm trước.
Trong quá trình làm bài hạn chế xóa lem nhem không được dùng bút
tẩy, nếu lỡ có sai thì nên gạch một nét chỗ sai. Cố gắng để chữ viết dễ đọc,
trình bày bài khoa học không nên viết chèn, hay gạch xóa quá nhiều trong bài
làm.
Ví dụ: Ở đề bài, hãy phân tích nội dung “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946)”. Các em cần nêu phần mở
đầu ngắn gọn “Sau hiệp định Sơbộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) được
kí giữa ta và Pháp. Về phía ta, thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản
được kí kết, còn thực dân Pháp bội ước. Trước tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Đảng và chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vào
đêm 19/12/1946.
Phần thân bài: Đây là phần chủ yếu và quan trọng nhất của bài, các em
phải trình bày các sự kiện, ý tưởng... nhằm giải quyết các vấn đề được đặt
ra. Trong phần thân bài, các em cần nêu cho được các luận điểm và mỗi luận
điểm có các luận cứ để trình bày. Ví dụ với đề trên, chúng ta có thể lập đề
cương phần thân bài như sau:
+ Nêu khái quát hoàn cảnh ra đời của lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Nêu và phân tích nội dung cơ bản của Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến.
+ Nêu ngắn gọn ý nghĩa của lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Phần kết luận: Nêu khái quát các ý đã trình bày ở phần mở đầu và phần
thân bài.
Trong việc lập đề cương một bài viết cần tránh hai việc: Một là lập đề
cương quá sơ lược, không định hướng bài viết làm cho nên khi làm viết bài
16
làm một cách tùy tiện; hai là, lập đề cương quá chi tiết, mất nhiều thời gian,
ảnh hưởng đến việc hoàn thành bài viết.
2.2.3.3: Kĩ năng phân bố thời gian làm bài
Trong thực tế nhiều năm qua, không ít học sinh làm bài môn khoa học xã
hội nói chung và làm bài thi môn Lịch sử nói riêng thường bị lạm dụng về
thời gian. Việc bố trí thời gian để làm các câu hỏi trong đề bài là rất cần
thiết. Muốn vậy khi tiếp xúc với đề, các em cần phải bố trí thời gian để trả
lời từng câu hỏi như thế nào? Trước hết chúng ta phải xác định câu nào có số
điểm cao nhất, yêu cầu lượng kiến thức nhiều nhất, chúng ta giành thời gian
cho câu đó nhiều nhất. Phải tránh tính trạng câu nào học thuộc thì chăm chú
làm câu đó mà không biết cách phân định về thời gian.
Ví dụ: đề ra có ba câu:
Câu 1 (2,0 điểm) : Anh (chị) hãy phân tích bài học kinh nghiệm của cách
mạng tháng Tám(1945)?
Câu 2 (3,5 điểm): Dựa vào ba sự kiện quan trọng sau đây: Chiến dịch
Việt Bắc (1947), Chiến dịch Biên giới (1950) và chiến thắng Điện Biên Phủ
(1954), anh chị hãy làm sáng tỏ bước phát triển của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp của nhân dân ta.
Câu 3 (2,0 điểm): Anh chị hãy trình bày những thành tựu (từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai đến năm 1991) của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật
của nhân loại ?
Câu 4 (2,5 điểm): Phân tích sự lãnh đạo tài tình sáng tạo của Đảng Cộng
sản Đông Dương trong cách mạng tháng Tám ? Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với thắng lợi của cách mạng Tám năm 1945 ?
Với bôn câu c
́
ủa đề thi như vậy, chắc chắn rằng các em phải giành thời
gian nhiều nhất cho câu 2.Trong thời gian 150 phút nên bố trí như sau: Câu 1:
30; Câu 2: 45 phút; Câu 3: 30 phút; Câu 4: 35 phút
17
Các em phải giành một khoảng thời gian khoảng 10 phút để đọc dò lại
toàn bộ bài làm trước khi nộp bài đây là khâu khá quan trọng nhưng rất
nhiều em học sinh hay bỏ qua.
2.2.4. Biện pháp 4: Kĩ năng nhận dạng đề thi
2.2.4.1. Loại đề nhận thức lịch sử
Là đề thi theo một chủ đề hay vấn đề lịch sử nhất định được đặt dưới
dạng câu hỏi yêu cầu cần giải đáp. Loại đề này thường có nội dung khó, yêu
cầu học sinh phải suy nghĩ nhiều, hiểu biết kiến thức lịch sử chính xác, hệ
thống. Học sinh phải có năng lực độc lập suy nghĩ để giải quyết vấn đề nêu
ra, học sinh phải có trình độ tư duy cao, có khả năng lập luận, lý giải vấn đề.
Các dạng thường gặp như: Lịch sử thế giới có nhiều nội dung phong phú đa
dạng và những đảo lộn bất ngờ. Bằng những kiến thức đã học em hãy giải
thích vấn đề trên?
Đê lam đ
̉ ̀ ược đê trên hoc sinh phai tra l
̀
̣
̉
̉ ơi đ
̀ ược những y c
́ ơ ban:
̉
Trong khoang h
̉
ơn nửa thê ki, giai đoan t
́ ̉
̣ ừ 1945 đên năm 2000 đa diên ra
́
̃ ̃
nhiêu s
̀ ự kiên to l
̣
ơn, quyêt liêt va ca nh
́
́ ̣
̀ ̉ ưng đao lôn bât ng
̃
̉
̣
́ ờ điêu đo đ
̀ ́ ược thể
hiên.
̣
Chu nghia xa hôi t
̉
̃ ̃ ̣ ừ pham vi môt n
̣
̣ ước trở thanh môt hê thông.Trong
̀
̣
̣
́
nhiêu thâp niên, hê thông xa hôi chu nghia thê gi
̀
̣
̣
́
̃ ̣
̉
̃
́ ới la môt l
̀ ̣ ực lượng hung
̀
manh, co anh h
̣
́̉
ưởng to lơn đôi v
́ ́ ới tiên trinh phat triên cua thê gi
́ ̀
́
̉
̉
́ ới . Nhưng do
pham phai nhiêu sai lâm, hê thông xa hôi chu nghia đa ta ra vao nh
̣
̉
̀
̀
̣
́
̃ ̣
̉
̃ ̃
̃ ̀
ưng năm
̃
19891991.
Sau chiên tranh, cao trao giai phong dân tôc đa diên ra manh me
́
̀
̉
́
̣
̃ ̃
̣
̃ở châu
A, châu Phi va Milatinh. Kêt qua la hê thông thuôc đia cua chu nghia đê quôc
́
̀ ̃
́
̉ ̀ ̣
́
̣
̣
̉
̉
̃ ́ ́
đa sup đô. H
̃ ̣
̉ ơn 100 quôc gia đôc lâp tre tuôi ra đ
́
̣ ̣
̉
̉
ời, ngay cang gi
̀ ̀
ữ vai tro quan
̀
trong trên tr
̣
ương quôc tê. Nhiêu n
̀
́ ́
̀ ước đa thu đ
̃
ược nhiêu thanh t
̀
̀ ựu to lơn vê
́ ̀
kinh tê, xa hôi.
́ ̃ ̣
18
Sau chiên tranh thê gi
́
́ ơi th
́ ứ hai, cac n
́ ươc t
́ ư ban chu nghia co nh
̉
̉
̃ ́ ưng net
̃
́
nôi bât:
̉ ̣
+ Kinh tê cac n
́ ́ ươc t
́ ư ban phat triên nhanh chong, tuy nhiên co luc không
̉
́
̉
́
́ ́
tranh khoi suy thoai khung hoang.
́
̉
́
̉
̉
+ Mi v
̃ ươn lên trở thanh n
̀ ươc t
́ ư ban giau manh nhât, đ
̉
̀
̣
́ ứng đâu hê thông
̀ ̣
́
tư ban chu nghia va theo đuôi m
̉
̉
̃ ̀
̉ ưu đô thông tri thê gi
̀ ́
̣ ́ ới.
+ Xu hương liên kêt khu v
́
́
ực vê kinh tê chinh tri cang ngay phô biên, điên
̀
́ ́
̣ ̀
̀
̉ ́
̉
hinh Liên minh châu Âu.
̀
Vê quan hê quôc tê, s
̀
̣
́ ́ ự xac lâp cua trât t
́ ̣
̉
̣ ự cua thê gi
̉
́ ới hai cực vơi đăc
́ ̣
trưng lơn la s
́ ̀ ự đôi đâu gay găt gi
́ ̀
́ ữa hai phe tư ban chu nghia va xa hôi chu
̉
̉
̃ ̀ ̃ ̣
̉
nghia. Đăc tr
̃
̣ ưng nay la nhân tô chu yêu chi phôi nên kinh tê chinh tri thê gi
̀ ̀
́ ̉ ́
́ ̀
́ ́
̣
́ ới
va quan hê quôc tê trong phân l
̀
̣
́ ́
̀ ớn nửa sau thê ky XX.
́ ̉
Vơi nh
́ ưng tiên bô phi th
̃
́
̣
ương va nh
̀
̀ ưng thanh t
̃
̀ ựu ki diêu, cuôc cach
̀ ̣
̣
́
mang khoa hoc ki thuât đa va se đ
̣
̣
̃
̣
̃ ̀ ̃ ưa lai nh
̣
ưng hê qua nhiêu măt không l
̃
̣
̉
̀
̣
ường
hêt đ
́ ược đôi v
́ ới loai ng
̀ ười cung nh
̃
ư môi quôc gia, dân tôc.
̃
́
̣
2.2.4.2. Đề thi xác định, phân tích tính chất của sự kiện lịch sử
Phân tích, chứng minh là một dạng đề được xem là "khó" nhất trong các
dạng đề thi khi tiến hành thực hiện một bài làm lịch sử. Với cấp độ yêu cầu
đối với học sinh THCS, dạng đề này thường chưa đặt ra yêu cầu cao, song lại
phải vận dụng thường xuyên trong quá trình học và làm bài.
Ví dụ đề thi: “ Hãy phân tích tính đúng đắn khoa học và sáng tạo trong
cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái quốc soạn thảo?
Để làm được đề này học sinh phải phải nắm vững các vấn đề cơ bản
sau đây:
a. Nêu hoàn cảnh ra đời của cảnh ra đời của Cương lĩnh chính trị đầu
tiên:
Tại hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930), các đại
biểu đã thảo luận và thông qua chính Cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của
19
Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên
của Đảng.
b. Phân tích nội dung của Cương lĩnh
Cương lĩnh xác định đường lối chiến lược cách mạng Đảng là tiến
hành cuộc cách mạng “ tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội Cộng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và
tư sản phản cách mạng làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do, lập
chính phủ công nông binh, tịch thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc và bọn
phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất...
Lực lượng của cách mạng là công nông, tiểu tư sản, trí thức. Còn phú
nông, trung tiểu địa chủ và tư sản sản thì phải lợi dụng hoặc trung lập học,
đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp vô sản sẽ giữ
vai trò lãnh đạo cách mạng.
c. Ý nghĩa của Cương lĩnh
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo tuy còn vắn tắt, song đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo,
sớm kết hợp đúng đắn về vấn đề dân tộc và giai cấp. Độc lập và tự do là tư
tưởng chủ yếu của Cương lĩnh này.
2.2.4.3. Đề thi xác định nguyên nhân thành công của một sự kiện lịch sử
Đây là loại đề thi thường gặp nhưng cái khó của học sinh là lý giải được
nguyên nhân nào có tính chất quyết định nhất. Với loại đề này học sinh phải
trình bày được nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng phải lí giải được
nguyên nhân chủ quan có vai trò quyết định đến nguyên nhân thành công của
một sự kiện lịch sử.
Ví dụ: Đề thi xác định nguyên nhân thành công của cách mạng tháng Tám
1945, nguyên nhân nào có tính chất quyết định nhất? Vì sao?
20
Để làm được đề này, học sinh phải nắm vững các vấn đề cơ bản sau:
Thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945 là kết quả tổng hợp của những
nhân tố khách quan và chủ quan:
* Về khách quan:
Cach mang tháng Tám th
́
̣
ắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu một phần nhờ
có hoàn cảnh quốc tế thuận lợi. Chiến tranh thế giới thứ hai của bọn đế quốc
làm cho chúng ngày càng thêm suy yếu. Tiếp đó là cuộc chiến đâu c
́ ủa nhân
dân Liên Xô và lực lượng dân chủ đã từng bước làm thất bại lực lượng phát
xít Đức ItaliaNhật Bản: Tất cả đã tác động đến cách mạng thế giới, thúc
đẩy các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng.
Đến khi lực lượng đồng minh và Liên Xô đánh bại Phát xít Nhật ở Châu
Á Thái Bình Dương vào ngày 14/8/1945 đã tạo nên thời cơ khách quan cho
cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đó là thời cơ “ ngàn năm có một” được
Đảng ta triệt để lợi dụng, kịp thời chớp lấy, phát động toàn dân nổi dậy khởi
nghĩa và giành thắng lợi một cách nhanh chóng và ít đổ máu.
Tuy nhiên, điều kiện khách quan đó chỉ có thể được phát huy thông qua
điều kiện chủ quan của ta.
* Về chủ quan:
Trong những nguyên nhân đó nguyên nhân có Đảng lãnh đạo là nhân tố
cơ bản nhất để cách mạng tháng Tám thắng lợi.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước sâu sắc, đã kiên cường
đấu tranh bất khuất từ ngàn xưa cho độc lập tự do.Vì vậy, khi Đảng Cộng
sản Đông Dương và mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì mọi
người hăng hái hưởng ứng, nhất tề đứng lên cứu nước cứu nhà.
Có khối liên minh công nông vững chắc, tập hợp được mọi lực lượng
yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, biết kết hợp tài tình
đấu tranh chinh tr
́
ị và vũ trang, đấu tranh du kích và khởi nghĩa từng phần.
21
Thắng lợi của cach mang tháng Tám nh
́
̣
ờ có sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chi Minh .
́
Trong những nguyên nhân đó nguyên nhân có Đảng lãnh đạo là nhân tố
cơ bản nhất để cách mạng tháng Tám thắng lợi.
Khi xác định nguyên nhân quyết định nhất, trước hết phải thấy rằng
nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định, nguyên nhân khách quan chỉ có
tác dụng đưa cách mạng tháng Tám nhanh chóng giành được thắng lợi và ít đổ
máu. Trong các nguyên nhân chủ quan đó vai trò lãnh đạo của Đảng và Hồ
Chí Minh là nguyên nhân quyết định nhất
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn,
sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Với đường lối cách mạng đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu
tranh trong 15 năm, qua các lần diễn tập (19301931), (19361939), (1939
1945). Đặc biệt khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), Đảng ta và chủ tịch Hồ
Chí Minh phat đ
́ ộng cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề cho Tổng
khởi nghĩa. Và khi thời cơ xuất hiện, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhanh chóng chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
toàn quốc, đưa cách mạng tháng Tám đến thắng lợi cuối cùng.
2.2.5. Biện pháp 5: Chú trọng việc kiểm soát kiến thức của học sinh
thông qua từng chuyên đề và qua các bài kiểm tra.
Đây là hoạt động có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công tác
bồi dưỡng mà bản thân đã áp dụng trong thời gian được phân công trực tiếp
giảng dạy. Trước khi học chuyên đề mới nhưng ki
̃
ến thức học sinh đã bồi
dưỡng ở chuyên đê tr
̀ ước được giáo viên kiểm tra nhuần nhuyễn tạo cơ sở để
các em dễ dàng tiếp cận các chuyên đề sau. Bởi lịch sử có sự logic của nó
chuyên đề trước là nguyên nhân của chuyên đề sau.
22
Có hai cách kiểm soát kiến thức cho học sinh đó là: Kiểm tra bằng lời
gọi học sinh lên bảng trình bày giáo viên và các thành viên trong lớp nghe,
nhận xét, bổ sung kiến thức với biện pháp này học sinh có cơ hội trình bày
quan điểm của mình trước tập thể, rèn luyện cho các em tâm lí bình tĩnh tự tin
khi làm bài.Trong quá trình kiểm soát giáo viên có thể cho học sinh tự kiêm tra
̉
lẫn nhau. Kiểm tra bằng cách gọi học sinh ghi lại phần kiến thức đã học.
Biện pháp này có hiệu quả vừa tác động đến óc, tai mắt do vậy huy động tối
đa đa khả năng của các em. Trong quá trình học sinh thể hiện giáo viên có thể
điều chỉnh cách trình bày bài của các em. Qua phần kiến thức bạn trình bày
các em có thể tự sữa sai và bổ sung những kiến thức còn thiếu. Đồng thời đây
cũng là thời gian để các em tự tái hiện lại kiến thức khắc sâu nhớ bền vững
kiến thức cho bản thân mình.
Công tác kiểm tra thường xuyên sau mỗi chương hoặc sau mỗi chuyên
đề được giáo viên chú trọng. Việc làm này giúp học sinh tự trình bày những
kiến thức đã thu nhận được vân dung kiên th
̣
̣
́ ưc đa hoc vao giai quyêt cac câu
́ ̃ ̣
̀
̉
́ ́
hoi m
̉ ở, qua đó giáo viên sẽ có điều kiện giúp các em điều chỉnh cách trình
bày bài, cách dùng từ, diễn đạt ý. Học sinh giỏi môn Lịch sử nói chung và
Lịch sử 9 nói riêng không chỉ nắm vững kiến thức lịch sử, kĩ năng phân tích
đánh giá sự kiện Lịch sử, mà còn có sự sáng tạo. Vì vậy, trong quá trình bồi
dưỡng cho học sinh chúng tôi thường xuyên quan tâm đến việc chấm và sửa
bài cho học sinh một cách chu đáo kĩ càng để các em tự bổ sung kiến thức đây
là một trong những giải pháp quan trọng giúp cho công tác bồi dưỡng đạt kết
quả cao.
2.2.6. Biện pháp 6: Xây dựng tư tưởng, tâm lý vững chắc cho học sinh.
Trong nhiều năm thực hiện công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, bản thân
tôi nhận thấy rằng cần phải tạo cho học sinh có một tâm lý thật sự thoải mái
trong quá trình ôn tập cũng như khi chuẩn bị bước vào ki thi. Tránh gây cho
̀
học sinh áp lực nặng nề, chẳng hạn như: Giáo viên luôn tạo ấn tượng cho
23
học sinh về kỳ thi học sinh giỏi là cực ki khó, đòi h
̀
ỏi sự cao siêu...điều này
làm cho học sinh có cảm giác lo sợ, mất tự tin hoặc giáo viên luôn áp đặt cho
học sinh rằng đã thi là phải đậu, phải có số điểm cao...Làm như vậy sẽ gây
áp lực tâm lý cho học sinh và dẫn đến kết quả không tốt, thậm chí có nhiều
học sinh vì sợ không đạt được mục tiêu bắt buộc đó nên đã xin từ bỏ đội
tuyển học sinh giỏi.
Muốn làm tốt vấn đề nêu trên, theo tôi trước hết người giáo viên phải có
những tư vấn cần thiết làm cho học sinh có cảm giác rằng ki thi h
̀
ọc sinh giỏi
dù ở cấp nào cũng vậy nó vẫn giống như các ki thi di
̀
ễn ra thường xuyên ở
nhà trường. Ngoài ra tôi thường nêu rõ quan điểm rằng "Khi các em được
chọn đi ôn thi thì phải cố gắng hết mình. Nếu đạt kết quả cao thì càng tốt, còn
nếu không thì chúng ta vẫn vui, vẫn hãnh diện vì đó là sự cố gắng lớn lao của
bản thân mình". Chính những động thái này của giáo viên sẽ làm cho học sinh
có cảm giác an tâm, thoải mái nhưng luôn cố gắng để học tập một cách tốt
nhất.
Tóm lại, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử
9 nói riêng là một trong những hoạt động vất vả, khó khăn và thử thách đối
với những người làm nghề dạy học, là công tác cực kì quan trọng giúp
cho ngành giáo dục phát hiện nhân tài, lựa chọn những mầm giống tương lai
cho đất nước trong sự nghiệp trồng người. Đồng thời giúp cho học sinh thực
hiện được ước mơ là con ngoan, trò giỏi và có định hướng đúng về nghề
nghiệp của mình trong tương lai.
Để làm được điều đó hơn ai hết người thầy cần không ngừng học hỏi
và tự học hỏi để nâng cao trình độ đúc rút kinh nghiệm, thường xuyên xây
dựng, bổ sung chương trình và sáng tạo trong phương pháp giảng dạy.
Người thầy có vai trò quyết định nhất đối với kết quả hoc sinh gioi, các
̣
̉
em hoc sinh có vai trò quy
̣
ết định trực tiếp đối với kết quả của mình, kết quả
24
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có đạt hay không, điều đó còn phụ thuộc rất
lớn ở các em học sinh.
2.3. Kêt qua đat đ
́
̉ ̣ ược
* Những kết quả qua những năm ban thân tr
̉
ực tiếp bồi dưỡng HSG:
Số học sinh
Năm học
hứng thú
35%
50%
70%
20122013
20132014
20142015
Năm học
Số học sinh không Số học sinh không biết
Số HS đạt giải
hứng thú
60%
45%
25%
Số HS đạt
vận dụng kiến thức
55%
40%
20%
Điểm TB đội
Xếp vị thứ
cấp huyện
giải cấp tỉnh
tuyển
cấp tỉnh
20122013
9
5
5,2
3
20132014
8
8
6,75
1
20142015
8
5
6,98
3
* Có được kết quả như trên, bản thân tôi rút ra được một số kinh
nghiệm như sau:
Làm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi phải có tâm huyết, yêu người, yêu
học sinh, có tinh thần trách nhiệm, chịu khó tìm tòi sáng tạo trong công tác
chuyên môn, biết khơi dậy sự đam mê, hứng thú làm cho các em biết yêu thích
bộ môn.
Có kế hoach đung đăn phù h
̣
́
́
ợp với đối tượng học sinh để đề ra biện
pháp phù hợp, phối hợp chặt chẽ với giáo viên tuyến 2 và phụ huynh học sinh
để kiểm soát kiến thức và đảm bảo an toàn giao thông cho học sinh, tạo sự
đoàn kết yêu thương nhau giữa các em học sinh trong lớp.
Giáo viên luôn tìm tòi sưu tầm các bộ đề thi năm trước và đề thi các
tỉnh khác cho học sinh làm quen tránh gây tâm trạng bỡ ngỡ cho các em khi
làm bài.
Trong bồi dưỡng, cách thức ôn tập được tiến hành một cách phong phú
đa dạng trong bài học. Kiến thức phù hợp với trình độ học sinh, chú ý nâng
cao để phù hợp với học sinh giỏi.
25