Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng bán trú ở trường mầm non Hoa Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.22 MB, 51 trang )

MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU                                                                       
Trang
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………..2
          1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………4
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………...4
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………..4
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu………………………………...4
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề……………………………………..5
2.2. Thực trạng của vấn đề………………………………………..6
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề……………10
2.4. Kết quả đạt được…………………………………………….36
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận……………………………………………………...39
3.2. Kiến nghị…………………………………………………….39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………41
PHỤ LỤC

1


MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BÁN TRÚ Ở 
TRƯỜNG MẦM NON HOA MAI
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng ­ giáo dục trẻ là một nội dung được 
quan tâm hàng đầu trong chương trình giáo dục mầm non. Toàn ngành Giáo 
dục   và   Đào   tạo   đang   nỗ   lực   đổi   mới   căn   bản   toàn   diện   về   giáo   dục.  
Trường mầm non đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục, rèn 
luyện kỹ  năng sống, thói  quen nề  nếp vệ  sinh, chăm sóc  bữa  ăn, giấc  


ngủ… đối với trẻ. Vì vậy việc chỉ đạo thực hiện nâng cao chất lượng công 
tác bán trú trong trường mầm non là một trong những yêu cầu cấp thiết. 
Trong  những năm gần đây  trường mầm non đã và đang là nơi phụ 
huynh tin tưởng gửi gắm con trẻ. Góp phần không nhỏ  vào việc đáp  ứng 
nhu cầu, nguyện vọng của người dân gửi con ở  trường từ  sáng đến chiều  
yên tâm làm kinh tế, hơn thế nữa là đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ chăm 
sóc nuôi dưỡng và giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non hiện nay.  
Không phải ai xa lạ với chúng ta, đấy chính là nhân viên cấp dưỡng, các cô 
giáo vừa trực tiếp đứng lớp giảng dạy vừa kiêm nhiệm công tác bảo mẫu  
trong trường mầm non. Một bộ  phận đã âm thầm ngày qua ngày làm việc  
dù trời nắng hay mưa, trưa hay xế, trong điều kiện cơ  sở  vật chất thuận 
tiện hay khó khăn nhưng bằng cái tâm của mình lặng lẽ khắc phục để hoàn 
thành nhiệm vụ. 
Nhân viên cấp dưỡng: Thỉnh thoảng còn đeo trang sức, chưa thường  
xuyên mặc trang phục, đeo bảo hộ khi làm việc. Chế biến thực phẩm, thức 
2


ăn có thói quen như ở nhà, chưa đảm bảo hết các công đoạn theo quy trình 
1 chiều. Chưa có bằng cấp, chứng chỉ  nghề. Trong tư  tưởng đi học mất  
công, tốn tiền rồi học xong không biết có được xét tuyển không? Lâu nay  
không học cũng làm được chứ có sao đâu.
Về bảo mẫu: Các cô bảo mẫu là giáo viên đứng lớp kiêm nhiệm, hằng 
năm chỉ  tập huấn kiến thức vệ  sinh an toàn thực phẩm tại trung tâm y tế 
huyện. Cô công tác lâu năm thì có kinh nghiệm trong việc rèn nề  nếp vệ 
sinh cá nhân cho trẻ  đúng cách, thực hiện tốt giờ  ăn giấc ngủ  cho trẻ, tuy 
nhiên học sinh mỗi năm một khác. Một số giáo viên thì mới vào nghề chưa  
cọ xát nhiều với yêu cầu thực tế trong công tác vệ  sinh cho trẻ ăn, cho trẻ 
ngủ. Báo ăn về  nhà trường chưa kịp thời, chưa sáng tạo trong rèn nề  nếp 
giờ  ăn, giờ  ngủ  cho trẻ  qua việc đọc thơ. Trẻ  ngủ  một số  cô không thức  

trực giấc ngủ cho trẻ trọn vẹn. Trẻ đi vệ  sinh cô chưa thường xuyên theo  
dõi. 
Nhưng thực tế các cô cấp dưỡng làm việc mức lương theo thỏa thuận, 
nguồn thu nhập chủ yếu từ sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh. Các cô giáo  
kiêm nhiệm công tác bảo mẫu thì được hỗ trợ 20.000đ/cháu/tháng. 
Là Hiệu phó phụ  trách chuyên môn nhiều năm liền, khi về nhận công 
tác tại cơ  quan mới (trường mầm non Hoa Mai) được Hiệu trưởng phân 
công nhiệm vụ phụ trách bán trú, tôi nhận thấy đây là một công việc chăm 
lo an toàn, chăm sóc vệ  sinh, bữa ăn giấc ngủ  cho học sinh. Đây là một 
công việc hết sức quen thuộc gần gũi hằng ngày nhưng lại ảnh hưởng trực 
tiếp lớn đến sự  phát triển của trẻ. Tuy nhiên từ  những công việc hết sức 
gần gũi này nếu chúng ta không để ý, không đặt cái tâm của mình vào dù là  
chi tiết rất nhỏ thì bữa ăn của trẻ không đảm bảo vệ sinh, không đảm bảo  
chất dinh dưỡng, sự cân đối các chất cần thiết trong bữa ăn ở  trường. Trẻ 
không được an toàn, ngủ  không sâu, không  đủ  giấc liệu có phát triển thể 
3


chất bình thường không? kéo theo đó là sự  phát triển các khả  năng về  trí 
tuệ sẽ ra sao?
Một   điều  không kém  phần quan  trọng  nữa  chính  là  đạo  đức  nghề 
nghiệp, các cô cấp dưỡng, cô bảo mẫu có thực hiện nhiệm vụ chuyên môn 
tốt đến mấy mà không động viên nhắc nhở trẻ ăn hết suất, hết khẩu phần  
lại cắt xén khẩu phần ăn của trẻ, thì làm sao các cháu được đảm bảo nhu  
cầu dinh dưỡng khi ở trường.
Tôi luôn trăn trở đặt ra cho mình một nhiệm vụ là làm sao để trẻ được 
an toàn, đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ  khi  ở  trường, làm sao để 
nhân viên cấp dưỡng, các cô bảo mẫu đặt cái tâm của mình vào công việc,  
xem học sinh như con em như người thân yêu của mình để  bữa ăn của trẻ 
được “Ngon mắt, ngon mũi, ngon miệng”. Bữa ăn của trẻ  phải đảm bảo 

vệ  sinh, nghe mùi thơm, nhìn hấp dẫn kích thích thèm ăn, ăn ngon miệng, 
ăn hết suất, không nhàm chán món ăn. Làm sao cho trẻ  ngủ đủ  giấc khi  ở 
trường, trẻ  ngủ  phải đảm bảo  ấm áp khi trời lạnh, thoáng mát khi trời 
nóng.
Để  làm được điều này tôi đã không ít băn khoăn và tự  đặt cho mình  
nhiệm vụ  cần tìm ra một số biện pháp giúp chất lượng bữa ăn, giấc ngủ, 
sự an toàn cho trẻ trong trường mầm non đạt hiệu quả cao đó chính là lý do 
tôi   chọn   đề   tài  “Một   số   biện   pháp   nâng   cao   chất   lượng   bán   trú   ở  
trường mầm non Hoa Mai”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được thực trạng công tác tổ  chức bán trú ở  trường và tìm ra  
một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bán trú cho trẻ ở trường Mầm 
non Hoa Mai
1.3. Đối tượng nghiên cứu
­ Nhân viên cấp dưỡng
4


­ Các cô giáo đang làm công tác bảo mẫu
­ Học sinh trong toàn trường mầm non Hoa Mai
1.4. Phương pháp nghiên cứu
­ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thu thập thông tin, phân tích tổng 
hợp
­ Phương pháp khích lệ, động viên 
­ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: kiểm tra, quan sát, khảo sát thực 
tế, thống kê số liệu, thực hành
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
­ Nhà bếp trường mầm non Hoa Mai
­ Và 9 nhóm, lớp tại Trường mầm non Hoa Mai
­ Thời gian nghiên cứu : Một năm học:  2015 ­ 2016

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Trong hầu hết sách, tài liệu nói về hướng dẫn thực hiện chương trình 
mầm non thì câu “Chăm sóc nuôi dưỡng và Giáo dục” luôn được nhắc đến. 
Chỉ qua câu từ này chúng ta cũng nhận thấy một điều rằng: Chăm sóc nuôi 
dưỡng được đặt lên trước giáo dục. Tôi thiết nghĩ và các nhà nghiên cứu 
tâm sinh lý trẻ  mầm non cũng chỉ  ra rằng: Chăm sóc nuôi dưỡng là một 
phần quan trọng quyết định sự  khỏe mạnh về  thể  chất, một trí tuệ  minh 
mẫn của con người. Đặc biệt là lứa tuổi mầm non giai đoạn phát triển đầu 
đời của trẻ.
Hiện nay đa số các trường Mầm non đều tổ chức bán trú cho học sinh, 
phần lớn điều kiện kinh tế  của người dân tương đối  ổn định. Từ  việc 
mong được ăn no mặc ấm đến nhu cầu ăn ngon mặc đẹp, mong cho con đi 
học 1 ngày hay 1 buổi cũng được miễn cho biết chữ chuyển sang nhu cầu  
cho con học bán trú tại trường. Việc cho con đi học bán trú ở trường Mầm 
non phụ huynh cũng rất cân nhắc, có phụ huynh mong con em mình đi học  
5


trường Mầm non tại địa phương thì con có bạn trong xóm đi cùng cho vui 
mà lại gần nhà thuận tiện cho việc đưa đón. Ngược lại cũng có phụ huynh  
không ngại xa xôi chỉ  mong gửi con vào học trường đáp  ứng được mong 
muốn của mình: về cơ sở vật chất, về tình hình cô giáo và đặc biệt là chất  
lượng chăm sóc nuôi dưỡng. Do đó đối với bậc học Mầm non việc trẻ em  
học trái tuyến là điều phổ biến. 
Tôi tin chắc hầu hết phụ huynh khi đón con về thì câu hỏi đầu tiên là 
“hôm nay ở trường con ăn cơm có giỏi không?, con tự xúc hay cô giáo đút? 
các cô cấp dưỡng nấu ăn ngon không? Con ngủ  có ngon giấc không? Cô 
giáo có cho con vệ sinh sạch sẽ trước khi ăn cơm không? Khi ngủ dậy con  
có xúc miệng rửa mặt không? Con tự  đi vệ  sinh hay cô giáo đi cùng?...rồi  

mới đến câu hỏi “hôm nay cô giáo dạy con học gì?” Những câu hỏi này thể 
hiện rõ sự  quan tâm của các bậc phụ  huynh về  chất lượng chăm sóc nuôi 
dưỡng chính là công tác bán trú của trường Mầm non. 
Để thu hút đông đảo phụ huynh cho con em nhập học trường mình thì 
phải xây dựng nên “thương hiệu” của nhà trường, ngoài chất lượng giáo 
dục cần phải khẳng định được chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng, công tác  
tổ  chức bán trú của trường chính là sự  chăm sóc sự  an toàn, chăm sóc bữa 
ăn, giấc ngủ cho các cháu lứa tuổi mầm non. 
­ Với đứa trẻ  phát triển bình thường khi chúng ta chăm sóc vệ  sinh, 
bữa ăn, giấc ngủ  tốt thì trẻ  lớn nhanh về  thể  chất: cân nặng, chiều cao,  
phản xạ của cơ thể, mức độ linh hoạt, sự mềm dẻo, sức mạnh…song song  
với đó là sự phát triển về trí tuệ giúp trẻ phát triển toàn diện. 
Qua đây càng khẳng định vị  trí của chăm sóc nuôi dưỡng đóng vai trò 
hết sức quan trọng đối với sự  phát triển của trẻ. Trường Mầm non là nơi  
phối hợp trực tiếp cùng với gia đình trong công tác chăm sóc sự an toàn, vệ 
sinh, bữa ăn, giấc ngủ theo dõi tình trạng dinh dưỡng  của trẻ tốt nhất .
6


2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Tình hình đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học 
sinh của trường
­ Toàn trường có 9 nhóm lớp (2 nhóm trẻ, 7 lớp mẫu giáo) với 189 học 
sinh, bán trú 100%.
­ Tổng số cán bộ quản lý giáo viên, nhân viên:  26 người trong đó:
+ Cán bộ quản lý: 03
+ Giáo viên: 15
+ Nhân viên văn phòng: 03
+ Cấp dưỡng: 02
+ Bảo vệ: 02

*  Qua thu thập thông tin, kiểm tra nắm bắt tình hình thực tế, 
điều kiện khả  năng của đội ngũ cấp dưỡng, giáo viên, tình hình dinh 
dưỡng của học sinh kết quả như sau:      

BẢNG THỐNG KÊ THỰC TRẠNG
(9 nhóm lớp, 15 cô giáo, 3 nhân viên cấp dưỡng)
S
T

NỘI DUNG

THƯỜN

XUYÊN

T

TỈ 
LỆ
%

KHÔNG 
THƯỜN

XUYÊN

TỈ 
LỆ
%


KHÔNG  TỈ 
THỰC  LỆ
HIỆN
%

I. ĐỐI VỚI  CẤP DƯỠNG

1

Thực hiện giờ  giấc theo  2/3
quy định

2

Đeo   trang   sức   khi   làm 
việc

3

Mặc trang phục, đeo bảo  2/3
hộ khi làm việc

4

Chế biến thực phẩm theo 
quy trình một chiều

66.7 1/3
1/3


7

33.3
33.3 2/3

66.7 1/3

33.3

3/3

100

66.7


5

Tự tin bày tỏ ý kiến, tham 
gia các hoạt động

6

1/3

33.3 2/3

66.7

Tham   gia   học   nâng   cao 

trình độ chuyên môn

3/3

100

7

Tham   gia   hội   thi   “cấp 
dưỡng giỏi” cấp trường 

3/3

100

8

Tham   quan   học   hỏi 
trường bạn

3/3

100

9

Bảo vệ thực phẩm

2/3


66.7 1/3

33.3

10

Bảo vệ đồ dùng nhà bếp

1/3

33.3 2/3

66.7

1

Thực   hiện   nề   nếp   vệ  7/9
sinh chung

77.8 2/9

22.2

2

Báo ăn chính xác, kịp thời 6/9

66.7 3/9

33.3


3

Thực   hiện   vệ   sinh   cá  5/9
nhân trẻ đúng quy định 

55.5 4/9

45.5

4

Sắp   xếp   bàn   ghế,   chỗ  5/9
ngồi giờ ăn hợp lý

55.5 4/9

45.5

5

Nêm   thử,   giới   thiệu   tên, 
giá   trị   dinh   dưỡng   của 
món ăn, động viên trẻ  ăn 
hết suất

II.   ĐỐI   VỚI   NHÓM   LỚP,   CÔ 
GIÁO

S

T

NỘI DUNG

THƯỜN

XUYÊN

T

TỈ 
LỆ
%

2/13

15.3 13/15

KHÔNG 
THƯỜN

XUYÊN

TỈ 
LỆ
%

6

Đọc  thơ   rèn nề   nếp giờ 

ăn, giờ ngủ

7

Sắp xếp chiếu, nệm chỗ  5/9
nằm  giờ ngủ hợp lý

55.5 4/9

45.5

8

Có cô giáo thức trực giấc  5/9
ngủ cho trẻ

55.5 4/9

45.5

9

Có   cô   giáo   theo   dõi   khi  5/9
trẻ đi vệ sinh

55.5 4/9

45.5

KHÔNG  TỈ 

THỰC  LỆ
HIỆN
%

9/9

III. ĐỐI VỚI HỌC SINH
8

84.7

100


1

Kỹ   năng   thực   hiện   nề  5/9
nếp,     vệ   sinh   theo   quy 
trình, đúng quy định. 

55.5 4/9

45.5

2

Kỹ   năng   thực   hiện   nề  5/9
nếp giờ  ăn, giờ  ngủ  đúng 
quy định


55.5 4/9

45.5

3

Ăn hết suất

55.5 4/9

45.5

4

Trẻ   suy   dinh   dưỡng   thể  Quý I có 25/189 trẻ SDDNC chiếm 13.2%
nhẹ cân (SDDVvừa)

5

Trẻ   suy   dinh   dưỡng   thể  Quý I 27/189 trẻ SDDTC chiếm 14.28%
thấp còi (TCĐ1)

5/9

2.2.2. Thuận lợi:
­ Cơ sở vật chất, khuôn viên vệ sinh môi trường đảm bảo vệ sinh cho  
hoạt động “Chăm sóc nuôi dưỡng và Giáo dục”, Các phòng học có nhà kho 
để  đồ  dùng, nhà vệ  sinh riêng cho mỗi lớp. Có mắc điện, giếng nước  
khoan, có bếp ăn một chiều, đồ  dùng phục vụ  công tác bán trú đầy đủ. 
Nhân viên cấp dưỡng và giáo viên đứng lớp đủ số lượng định biên theo quy  

định. 
­ Ban giám hiệu nhà trường đã học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý 
giáo dục
­ Nhân viên cấp dưỡng là người địa phương, có uy tín với phụ  huynh  
học sinh, đã từng làm cấp dưỡng cho trường mầm non.
­ 100% cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên được tập huấn kiến thức  
vệ sinh an toàn thực phẩm, được khám sức khỏe định kỳ.
­ Nguồn nước nhà trường sử  dụng đã qua kiểm nghiệm kết quả  cho 
thấy các chỉ số nằm trong giới hạn cho phép sử dụng.
­ Các cô bảo mẫu chính là giáo viên đứng lớp hiểu được đặc điểm,  
tâm lý học sinh.
9


­ Hầu hết phụ  huynh học sinh có nhu cầu cho con học bán trú, quan  
tâm đến việc
­ Học sinh được phân chia theo lớp đúng độ  tuổi, không có học sinh 
khuyết tật, học sinh có chiều cao và cân nặng bình thường chưa có học 
sinh suy dinh dưỡng về chiều cao và cân nặng mức độ nặng.
2.2.3.  Khó khăn
­ Đường dây điện của nhà trường bắt từ ngoài đường chính vào khá xa 
và là điện một pha. Ổ cắm điện dùng nấu cơm cùng chỗ với cầu dao bơm  
nước, phích cắm tủ  lạnh. Đến mùa tưới cà phê để  có được bữa cơm chin  
cho các cháu ăn là cả một quá trình hết sức khó khăn. Cấp dưỡng phải khéo 
léo xới cơm, thăm chừng nồi cơm và không được phép quên việc này. Nếu  
ngày nào quên ngày đó học sinh sẽ không kịp giờ ăn như bình thường được.
 ­ Trường chưa có nhà ăn cho học sinh, khu vực nhà bếp chưa có biển  
tên quy định chia từng khu vực chế biến riêng biệt.
­ Nhà trường đã thực hiện công tác bán trú hơn 5 năm nhưng chưa tổ 
chức một hội thi, cuộc thi lý thuyết hay thực hành để nhân viên cấp dưỡng  

có cơ hội nghiên cứu cọ xát với lý thuyết, thực hành mở rộng tầm nhìn qua 
việc tham quan giao lưu học hỏi đồng nghiệp trường bạn, cũng như  có 
động cơ để cấp dưỡng nghiên cứu nâng cao tay nghề. Đặc biệt là chưa qua  
lớp đào tạo chứng chỉ nghề. 
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Với kinh nghiệm của người quản lý, sự nỗ lực của bản thân tôi đã tìm 
ra một số biện pháp để tác động khắc phục hạn chế như sau:
2.3.1.    Biện pháp 1: Làm tốt công tác tham mưu –  công tác phối 
hợp 
a. Công tác tham mưu 
*Tôi tham mưu với Hiệu trưởng trong việc:
10


­ Tuyển nhân viên cấp dưỡng là người phải trung thực có uy tín với  
nhân dân địa phương, có sức khỏe, có chứng chỉ nghề hoặc đang theo học,  
đã từng nấu ăn cho học sinh. Hầu hết xí nghiệp, các cơ  quan dân lập hay  
công lập khi tuyển nhân viên hồ sơ bao giờ cũng đòi hỏi phải có bằng cấp 
hay chứng chỉ nghề. Dù biết rằng học và thực hành là 2 vấn đề nhưng khi  
đã qua học lý thuyết tất nhiên người ta có vỗn kiến thức áp dụng cho thực  
tế. Mặt khác người đã từng làm công việc nấu ăn cho học sinh thì ít nhiều  
cũng có kinh nghiệm, nhà trường tạo điều kiện vừa làm vừa học cũng 
được. 
­ Mua sắm trang thiết bị  phù hợp, thuận tiện, đủ  sử  dụng, đảm bảo 
cho công tác bán trú. Những đồ  dùng cá nhân của trẻ thì phụ  huynh có thể 
tự  mua sắm mang lên nhưng đồ  dùng dùng chung thì nhà trường phải mua 
sắm. Ngay từ đầu năm học căn cứ vào sĩ số học sinh tôi rà soát kiểm tra lại  
cần phải mua sắm đồ dùng gì tham mưu Hiệu trưởng mua sắm đầy đủ kịp 
thời cả đồ dùng phục vụ chế biến, chứa đựng của nhà bếp, đồ  dùng phục 
vụ giờ ăn, giờ ngủ. 

­ Đặc biệt tham mưu Hiệu trưởng vay tiền quỹ tham quan du l ịch c ủa  
Công đoàn nhà trường với lãi suất 5000đ/1 triệu/ tháng để mua tủ hấp cơm  
vận động phụ  huynh đóng góp trong vòng 2 năm để  trả  lại cho Công đoàn 
được 100% phụ huynh nhất trí.
­ Hợp đồng thực phẩm với nhà cung cấp có uy tín: Hiện nay có rất 
nhiều nhà cung cấp thực phẩm muốn làm hợp đồng với các trường mầm 
non. Tuy nhiên qua tìm hiểu thực tế  tôi tham mưu Hiệu trưởng làm hợp 
đồng với nhà cung cấp đã được nhiều người biết đến, có uy tín với nhân 
dân mà giá cả phù 
hợp.
11


­ Huy động phụ  huynh hỗ trợ kinh phí 15.000đ lên 20.000đ/cháu/tháng 
cho nhân viên cấp dưỡng có thêm thu nhập yên tâm công tác.
­ Ngoài ra xây dựng kế hoạch trình hiệu trưởng phê duyệt tổ chức hội  
thi “Cấp dưỡng giỏi cấp trường”
b. Công tác phối hợp
Công tác phối hợp với Ban Giám hiệu nhà trường, với các tổ chức, các  
tổ  có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với việc thực hiện một kế  hoạch, một  
công việc nào đó.
b.1.  Phối hợp với Ban Giám hiệu nhà trường đưa ra quy chế  bán trú 
lấy đó làm căn cứ  trong công tác kiểm tra, xếp loại thi đua hàng tháng . 
Ngay từ  đầu năm học phối hợp với các chị  em trong Ban Giám hiệu xây 
dựng quy chế  bán trú sau đó tôi thông qua trước tập thể  nhà trường trong  
Hội nghị công chức viên chức (quy chế thể hiện ở phần phụ lục)
b.2.  Phối hợp với tổ chức Công đoàn nhà trường làm vườn rau sạch
Dựa vào điều kiện sẵn có của trường: đất đai, kinh nghiệm gieo trồng  
làm rau của công đoàn viên trong nhà trường. Tôi đề  xuất Công đoàn nhà 
trường nên làm vườn rau sạch, tạo thêm thu nhập để  công đoàn có thêm 

kinh phí sinh hoạt vừa là thành tích đáng ghi nhận của tập thể sư phạm. 
Nhờ vậy Công đoàn nhà trường đã làm được vườn rau sạch, tự tin ký 
hợp đồng cung cấp rau, củ  sạch cho nhà trường. Ngược lại nhà trường  
cũng yên tâm với nguồn rau sạch tự cung tự cấp này.
Dưới đây là hình ảnh một số loại rau mà Công đoàn nhà trường đã làm  
được:

12


b.3. Phối hợp với Tổ cấp dưỡng, y tế nhà trường kiểm tra nhận thực  
phẩm trước khi nhập.
Tôi nhận thấy nguồn thực phẩm đầu vào rất quan trọng, để đảm bảo  
tính khách  qua,  chất  lượng  thực phẩm nhập  vào tôi  cùng với  y tế   nhà 
trường, tổ  cấp dưỡng trực tiếp nhận thực phẩm vào đầu buổi sáng. Với  
mắt thường chúng ta đánh giá chất lượng thực phẩm bằng kinh nghiệm và 
cảm nhận: thịt, tôm, cá có tươi không, rau củ  có bị  hư  dập bị  úng không,  
trứng có mùi hôi hay vỡ không,…Nếu đảm bảo tiếp nhận và tiến hành chế 
biến. Nếu không đảm bảo trả lại nhà cung cấp yêu cầu đổi lại trường hợp 
không có ta có thể  dùng thực phẩm khác phù hợp thay thế  cho đảm bảo. 
Sau đó sửa lại thực đơn trong sổ  sách và bảng thực đơn công khai trong 
trường cho phù hợp giữa sổ  sách và thực tế. Kết quả  cho thấy không có 
hiện tượng trẻ bị ngộ độc thức ăn của trường.
13


b.4. Phối hợp với Trạm y tế xã, y tế nhà trường trong việc khám sức  
khỏe, cân đo theo dõi tình trạng dinh dưỡng của trẻ, tuyên truyền chăm sóc  
con theo khoa học
Để có cơ  sở đánh giá học sinh trong trường có phát triển bình thường  

thì chúng ta phải cân đo, theo dõi. Đầu năm có kế  hoạch cụ  thể  về  khám  
sức khỏe, cân đo để  nắm bắt tình hình thực tế. Sau đó tổng hợp kết quả 
cân đo quý I có biện pháp phối hợp với phụ huynh kịp thời điều chỉnh khắc 
phục để trẻ  phát triển bình thường về cân nặng, chiều cao. Đồng thời chỉ 
đạo y tế  có kế  hoạch tuyên truyền đến phụ  huynh học sinh nuôi dạy con 
theo khoa học đưa cho giáo viên chủ  nhiệm nắm bắt, dán  ở  góc tuyên  
truyền của trường. Qua đây phụ  huynh quan tâm theo dõi cân đo thường 
xuyên cũng như trong việc cho con ăn uống, chăm sóc vệ sinh để phối hợp  
với nhà trường điều chỉnh kịp thời hơn.
2.3.2.  Biện pháp 2. Xây dựng thực đơn khoa học
­ Thực đơn là thước đo đầu tiên góp phần vào việc phát triển bình 
thường của trẻ. Việc xây dựng thực đơn hằng ngày cho học sinh không thể 
làm qua loa đại khái mà phải dựa vào nhiều yếu tố:
­ Dựa vào nguồn thực phẩm vốn có của địa phương, cùng với sự  cân 
đối các chất dinh dưỡng, nhu cầu dinh dưỡng của trẻ  tôi xây dựng thực  
đơn đảm bảo bữa ăn chính và bữa phụ  phù hợp với mức tiền ăn mà phụ 
huynh đóng góp theo quy định chung nhưng đảm bảo cung cấp được 4  
nhóm thực phẩm:
+ Nhóm chất bột đường: Có trong cơm, cháo, nui... 
+ Nhóm  chất  đạm: Có trong thịt cá, tôm, cua,  đậu khuôn, các loại 
đậu...
+ Nhóm chất béo: Có trong dầu, mỡ…
+ Nhóm chất xơ: Có trong rau củ,…
14


­ Thực đơn phải thay đổi xen kẻ  thực phẩm: cá, thịt, trứng, tôm. Rau 
cũng phải xen ke như: Rau dền, mùng tơi, rau ngót, cải xanh, cải ngọt…
Quả thì: Bí thì bí đỏ, bí xanh, bầu…
­ Không chỉ thay đổi thực phẩm mà chúng ta cũng cần lưu ý đến dạng 

chế 
biến. Chẳng hạn cũng là thịt heo nhưng hôm nay là thịt nạc xay to kho với  
chả  giò, ngày mai là thịt đùi cắt nhỏ kho tàu với trứng hay với đậu khuôn.  
Ngày kia lại xay nhỏ hấp với trứng vịt. Cùng là thịt bò nhưng khi thì xay to 
hầm với đậu ve, bữa khác lại hầm với khoai tây cà rốt, rồi lại có bữa xay  
nhỏ  nấu nước súp. Tôm xay dùng nấu canh, tôm kho với thịt ba chỉ, tôm  
nấu súp. Trứng thì khi chiên, khi hấp, trứng ốp la…Cá thì cá sốt chua ngọt,  
cá nấu canh chua….Cua đồng khi thì nấu canh rau tập tàng, khi thì nấu bún 
riêu cua…
­ Ngay cả  bữa phụ  cũng cần linh hoạt xen kẻ  mặn, ngọt. Cháo chè, 
nui, phở, súp…để  tránh nhàm  chán.  Ngoài ra cũng phải tính thời gian các 
công đoạn chế biến của cấp dưỡng sao cho kịp giờ ăn của trẻ. 
­ Những món ăn cầu kỳ, mất nhiều thời gian không thể xếp cùng một 
ngày.
­ Tôi thay đổi thực đơn theo mùa, theo thời tiết cho phù hợp, thay đổi  
thường xuyên thực đơn tuần, ngày  để trẻ không nhàm chán món ăn, ăn hết  
suất. Tạo cho học sinh sự bất ngờ, hấp dẫn trước giờ ăn vì không biết hôm  
nay mình sẽ  được ăn món gì? kích thích sự  tò mò và thích ăn của trẻ  hơn  
(thực đơn tuần thể hiện ở phần phụ lục)
­ Học sinh nhà trẻ  trường tôi ngoài bữa xế  chung theo các anh chị  lớp 
mẫu giáo được bổ  sung thêm bữa phụ  vào khoảng từ  3 giờ  30 phút đến 3 
giờ 45 buổi chiều. Vì qua thực tế trẻ nhà trẻ vẫn ăn theo thực đơn trẻ mẫu 
giáo nhưng ăn ít hơn và số tiền đóng vẫn bằng nhau. Để đảm bảo tính công  
15


bằng về mức tiền đóng góp của phụ huynh, cũng như  đáp ứng lượng dinh 
dưỡng cần cung cấp ở số bữa phụ của trẻ nhà trẻ tôi đã xây dựng thực đơn  
như thế. Kết quả là trẻ ăn dặm hết suất, phụ huynh rất hài lòng.
­ Tôi cũng không quên lưu ý nếu hôm nào biển động nhà cung cấp  

không giao cá như thực đơn đã đặt thì phải chỉnh sửa thực đơn trong ngày 
cho phù hợp giữa thức ăn của trẻ  hôm đó với thực đơn công khai. Tránh 
tình trạng thực đơn món này mà học sinh lại ăn món khác.
2.3.3.  Biện pháp  3: Chỉ  đạo nhân viên cấp dưỡng thực hiện tốt  
quy định nhà trường đề ra
­ Giờ  giấc: Bất kỳ  một cuộc họp, một công việc nào đó đã được dự 
kiến thời gian hoàn thành trước nếu có sự trở ngại do yếu tố chủ quan hay  
khách quan thì công việc sẽ  không hoàn thành hoặc hoàn thành không như 
dự kiến.
+ Công việc của nhân viên cấp dưỡng cũng không ngoại lệ, 1 trong 3 
người  không thực hiện  đúng giờ  giấc  thì  kéo  theo  sự  chậm trễ  chung,  
không kịp giờ ăn cho học sinh.
+ Để đảm bảo chế biến xong kịp giờ ăn của trẻ, nhà trường tạo điều 
kiện cho luân phiên nhau 1 cấp dưỡng đi sớm nhận thực phẩm cùng nhà 
trường, 2 đồng chí còn lại được phép đến muộn hơn 30 phút. Đồng chí nào 
đi muộn hơn thời gian quy định phải xin phép nhà trường với lý do chính  
đáng, trung thực.
+ Nhà trường có biện pháp xử lý nếu phát hiện không trung thực trong 
việc vi phạm khung thời gian quy định. Tùy theo mức độ  vi phạm có hình 
thức nhắc nhở  trực tiếp, phê bình trong họp tổ  cấp dưỡng hoặc trong hội 
đồng nhà trường. Cần thiết sẽ áp dụng hình thức viết bản cam kết.
+ Tôi luôn theo dõi sát xao nắm bắt tình hình để  đánh giá xác thực
16


­ Trang phục, bảo hộ:
+ Đầu năm học khi nhà trường ký kết hợp đồng tôi trao đổi, dặn dò 
cấp dưỡng phải trang bị  cho mình ít nhất 2 bộ  đồng phục, bảo hộ  (áo 
quần, khẩu trang, mủ, tạp dề…) để mặc làm việc tại trường. Nếu có đồng  
chí không chấp hành tốt và nói là quên thì tôi yêu cầu may thêm 1 bộ để  ở 

trường phòng khi quên có mặc làm việc.
+ Trang phục phải thường xuyên giặt sạch sẽ, luôn luôn mặc khi chế 
biến thực phẩm.
­ Móng tay, trang sức: 
+ Tuyệt đối móng tay phải cắt ngắn, không được đeo trang sức khi 
chế biến thức ăn
+ Thường xuyên theo dõi nhắc nhở cấp dưỡng cắt móng tay, phát hiện  
có 
trường hợp đeo trang sức thì yêu cầu gỡ ra cất ngay. Lần sau cố ý vi phạm 
sẽ lập biên bản gửi về nhà trường có biện pháp xử lý thích hợp.
­ Chế biến thức phẩm: 
+ Khi xem chương trình nào đó ta thường nói “cô ấy hát truyền cảm”  
“cô  ấy múa có hồn” “cô  ấy diễn xuất hay thiệt”,… Tất cả  những người  
này đã nhập tâm vào vai trò nhiệm vụ họ đang thực hiện là ca sĩ, diễn viên  
múa hay diễn viên điện  ảnh. Với cấp dưỡng thì sao? nhiệm vụ  là người  
quản lý phụ  trách bán trú tôi vừa như  là trao đổi và là yêu cầu để  với cái  
tâm của mình cấp dưỡng nhập tâm vào công việc dù rất nhỏ: nhặt rau, xắt  
thịt hay gọt củ, quả, bóc trứng…tạo cho cấp dưỡng cảm hứng “thổi hồn”  
mình vào chế  biến, nấu ăn cho bữa ăn được  “Ngon mắt, ngon mũi, ngon 
miệng”
+ Mặc dù có một đồng chí cấp dưỡng làm tổ  trưởng Tổ  cấp dưỡng,  
tuy nhiên tôi chỉ  đạo 3 đồng chí có trách nhiệm chung, không có đồng chí  
17


nào chính hay phụ, trao đổi hỗ trợ lẫn nhau công việc gì ai cũng làm được.  
Tránh tình trạng phân công nhiệm vụ  theo dây chuyền, mỗi người phụ 
trách một công đoạn sẽ có sự bất cập về sau.
­ Chế biến tuân thủ theo quy trình 1 chiều, đảm bảo nguyên tắc vàng:
+ Có sự phân chia khu vực chế biến sống, chín riêng biệt

+ Đồ dùng chứa đựng thực phẩm sống, chín riêng biệt (có ký hiệu làm 
dấu)
+ Dụng cụ chế biến thực phẩm sống, chín riêng biệt (có ký hiệu làm  
dấu)
­ Vệ  sinh: Khu vực trong và ngoài nhà bếp phải được tổng vệ  sinh 
sạch sẽ, đồ dùng dụng cụ phải được bảo quản cẩn thận, lau dọn rửa sạch  
sắp xếp đúng nơi quy định.
Dưới đây là hình ảnh cấp dưỡng đang làm việc tại bếp nhà trường:

­ Tổ  chức họp hội Tổ  cấp dưỡng theo định kỳ: Cứ  vào chiều thứ  6 
của tuần 2 và tuần 4 mỗi tháng sẽ tổ chức họp Tổ cấp dưỡng. Đồng chí tổ 
18


trưởng làm chủ tọa, chị em trong tổ tự nhận xét và xây dựng chân thành để 
giúp nhau cùng tiến bộ. Khi cần thiết tôi cùng tham gia tư vấn để cuộc họp  
thành công hơn. Cuối tháng sẽ  tự  xếp loại để  trình hội đồng trường xếp 
loại thi đua hàng tháng, lấy đó làm căn cứ  cho việc xếp loại thi đua cuối 
năm và tiếp tục hợp đồng làm việc. Qua đó họ  tự ý thức cao hơn về chức  
trách nhiệm vụ  của bản thân hoàn thành công việc chung một cách xuất 
sắc.
2.3.4.  Biện pháp 4: Tạo mối đoàn kết trong tập thể
­ Trong trường mầm non mỗi người mang đậm một nếp sống, một 
phong cách của từng vùng miền. Từ  cách ăn nói, đi đứng, sở  thích, năng  
lực…   mỗi   người   một   vẻ.   Tuy   nhiên   khi   làm   việc   trong   cùng   một   môi  
trường thì mọi người đều phải tuân thủ  theo khuôn khổ, theo quy định để 
cùng thực hiện một nhiệm vụ  chung. Ban Giám hiệu phải xem trường là 
ngôi nhà thứ 2, xem mỗi giáo viên nhân viên như  là mỗi bộ phận rất quan 
trọng không thể  thiếu trên cơ  thể  của mình. Nếu các bộ  phận  ấy khỏe 
mạnh   thì   ta   đi   lại   hoạt   động   bình   thường,   khiếm   khuyết   đi   một   trong 

những bộ phận đó thì hiệu quả làm việc sẽ khó khăn hơn. Cũng giống như 
trong trường nếu thiếu đi một vài vị trí, thiếu sự nhiệt huyết của một đồng 
chí đồng nghiệp thì ảnh hưởng đến thời gian 
cũng như  kết quả  hoàn thành công việc. Khi ta không xây dựng tình đoàn 
kết nói người này thế  này, người khác thế  kia, chưa quan tâm, chưa yêu 
thương họ  thật sự, chưa vun vén xây dựng khối tình cảm  như  thành viên 
trong gia đình mình thì làm sao có thể đòi hỏi họ xây dựng tình đoàn kết nội  
bộ được.
­ Muốn giáo viên nhân viên đoàn kết trước hết Ban Giám hiệu phải  
làm gương để mọi người soi theo. Không ưu ái đồng chí nào và cũng không  
được phép xem nhẹ đồng chí nào. Tôi luôn có ý thức vun vén tình cảm, tình  
19


đoàn kết để  ngoài trách nhiệm ra mọi người quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, 
gắn kết nhau hơn làm việc và cùng nhìn về  một cái đích mà mình mong 
muốn. Như  lời Bác dạy giữ  gìn đoàn kết như  giữ  gìn con ngươi của mắt 
mình bởi vì
“Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công”
2.3.5.  Biện pháp 5. Tìm hiểu nắm bắt tâm tư  nguyện vọng, tạo 
sự tự tin cho nhân viên cấp dưỡng.
­ Qua tìm hiểu thực tế  tôi nhận thấy: Trong cuộc họp các chị  cấp  
dưỡng luôn ngồi phía sau các  thành viên khác. Không tham gia đóng góp ý 
kiến vì trong tư  tưởng không biết ý mình nói ra có đúng không? có được 
mọi người ghi nhận không?
­ Chị em trong trường nhiều lúc vô tư gọi nhân viên cấp dưỡng là “Nhà 
bếp”, đặc thù công việc các đồng chí ấy luôn gắn bó với cái nhà bếp. Cũng  
có thể  là cách gọi thân thương vì có nhà bếp mới nấu cơm, có cơm ăn. 
Nhưng ngược lại  ở  vị  trí của họ  khi nghe gọi mình là “Nhà bếp” họ  lại  

chạnh lòng.   Bình thường họ  chỉ  loanh quanh  ở  nhà bếp họ  cũng muốn 
được mọi người tôn trọng vì mỗi người một nhiệm vụ. Trừ  những việc  
làm không được pháp luật chấp nhận, còn lại chỉ  có người thấp hèn chứ 
không có công việc thấp hèn.  Trong nhà trường thì phải có nhiều người 
đảm nhận những công việc vị trí khác nhau. Không có nhiệm vụ nào trong 
một cơ  quan nhà nước mà thấp hèn, bị  mọi người phân biệt xem thường  
được. 
Vì vậy nếu ai đó lỡ gọi cấp dưỡng là “nhà bếp”Tôi luôn nhắc nhỏ để 
tránh làm tổn thương lòng tự trọng của họ. Trường hợp có nhiều lần thì tôi 
lựa   lời   ý   kiến   xây   dựng   chung   trong   cuộc   họp   để   mọi   người   rút   kinh 
20


nghiệm. Đơn giản chỉ lá cách xưng hô thôi nhưng họ  luôn cảm thấy được 
tôn trọng, được đối xử công bằng vì mỗi công việc đều có một cái tên cho 
người làm nhiệm vụ đó (ví dụ: người đứng lớp gọi là giáo viên, các cô y tế, 
kế toán văn thư, thủ quỹ gọi là nhân viên văn phòng...thì những người trực 
tiếp nấu ăn như họ thì mọi người phải gọi là cấp dưỡng). Ngồi họp tôi yêu  
cầu họ ngồi theo hàng với các thành viên khác, không ngồi sau như mọi khi  
dần dần họ quen và mạnh dạn  bày tỏ ý kiến khi có điều gì đó chưa thông 
suốt, vướng mắc.
­  Động viên  cấp dưỡng  trích lương tham gia góp quỹ  giống chị  em 
khác trong trường để khi nhận được quyền lợi từ công đoàn dù nhiều hay ít 
không cảm thấy ái ngại. Tham gia các phong trào khi công đoàn phát động: 
làm vườn rau sạch, hội thao, văn nghệ… cùng các thành viên khác trong 
trường, qua đây giúp chị em có thời gian cởi mở gần gũi hiểu nhau hơn với  
những cuộc trao đổi trò chuyện về  công việc, về  bản thân về  gia đình... 
Mọi người chung sức chung lòng cùng thực hiện một nhiệm vụ không còn 
là quản lý, giáo viên, hay cấp dưỡng…mà tất đều có tên gọi như  nhau là 
công đoàn viên, cấp dưỡng cũng đóng góp công sức nhỏ  bé cho hoạt động 

công đoàn nhà trường. Dần dần họ tự tin hơn khoảng cách giữa họ với các  
thành viên trong trường ngay một được rút ngắn.
Nhờ vậy tôi nhận thấy gương mặt cấp dưỡng mạnh dạn hơn, vui vẻ 
hơn, rạng rỡ hơn, chăm chút vào công việc ngày một tích cực hơn.
2.3.6.  Biện pháp 6: Động viên tham gia học chứng chỉ nghề, nâng 
cao trình độ chuyên môn
­ Tiền lương ít ỏi cùng với tư  tưởng của các chị  cấp dưỡng là đi học  
mất công,  tốn tiền, học về có được vô biên chế đâu mà đi.

21


­ Tôi động viên, chỉ  ra những  ưu điểm khi cấp dưỡng tham gia học 
tập: 
Nâng cao tay nghề, cơ hội giao lưu học hỏi, có thêm kinh nghiệm chế biến  
món ăn hằng ngày cho người thân trong gia đình. Khi học xong tất nhiên 
mọi người sẽ  nhìn nhận khác. Năm sau nhà trường hợp đồng cấp dưỡng 
thì sẽ   ưu tiên cho ai có chứng chỉ  nghề, có kinh nghiệm. Các chị  không  
thích làm nhà ở trường nữa thì cũng tự tin xin việc nơi khác ví dụ như quán,  
nhà hàng phục vụ ăn uống,…hay tự mở dịch vụ kinh doanh cho chính mình. 
Hoặc bất ngờ  có công văn của cấp trên đưa về  xét tuyển nhân viên cấp  
dưỡng với yêu cầu là người địa phương, có sức khỏe, có bằng cấp, chứng  
chỉ nếu các chị không đi học lúc này có phải tiếc không. 
­ Đôi khi tôi lại kể  cho các chị   ấy nghe chuyện làm báo cáo có mục  
thống kê trình độ cấp dưỡng. Trường thì nhân viên cấp dưỡng đã học xong  
và có chứng chỉ  rồi việc báo cáo thuận tiện. Trường thì nhân viên cấp  
dưỡng đang học không biết báo cáo thế nào vì chỉ  báo cáo là có chứng chỉ 
hay chưa có chứng chỉ. Trường mình thì đang nợ mục này rồi các chị ạ! Em  
thấy điều này thiết thực với công việc các chị đang làm mà, các chị phải cố 
gắng làm sao trường mình không nợ mục này. Mặt khác tôi tham mưu Hiệu 

trưởng gia hạn cho cấp dưỡng ngày hoàn thành khóa học mang chứng chỉ 
nộp về nhà trường.
Qua trao đổi, đề nghị với chị em cấp dưỡng kết quả là họ đã lựa chọn 
nơi phù hợp nhất đăng ký tham gia học lớp ngoài giờ, một đồng chí học  
trước, sau đó 2 đồng chí còn lại cũng đăng ký đi học luôn, và nộp chứng chỉ 
đúng thời gian gia hạn.
2.3.7.  Biện pháp 7: Tạo điều kiện tìm tòi nghiên cứu qua hội thi
­   Tổ   chức   hội   thi   nhằm  nâng   cao   nhận   thức   của   giáo   viên,   nhân 
viên, tạo   cơ   hội   để   giáo   viên   và   nhân   viên   tự   học   và   sáng 
22


tạo. Đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua, nhằm tuyên dương và nhân 
rộng những giáo viên, nhân viên trong hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. 
Mặt khác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong tổ chức bữa ăn cho trẻ.  
Nâng cao tay nghề  chế biến món ăn, phù hợp với trẻ. Coi trọng việc đánh 
giá thực chất năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Tạo sự đoàn kết trong tập  
thể cùng nhau thực hiện nhiệm vụ chung
­ Qua tìm hiểu nắm bắt tâm tư  nguyện vọng tôi biết cấp dưỡng cũng 
muốn được nhà trường tổ chức một cuộc giao lưu, một hội thi mà trong đó 
họ  là 1 thành viên thực thụ  tham gia hội thi. Không chỉ  có nhiệm vụ  quét 
dọn, bê bàn ghế khi nhà trường tổ chức cuộc giao lưu hội thi nào đó mà họ 
thường làm, tự  sâu thẩm trong lòng họ  một sự  khát khao có cơ  hội được 
khẳng định mình. 
­ Tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng, cùng với các bộ  phận có liên 
quan, vì các cô giáo chuẩn bị cho hội thi làm đồ dùng cấp huyện nên từ hội  
thi “Cấp dưỡng, bảo mẫu giỏi cấp trường”  được chuyển thành hội thi 
“Cấp dưỡng giỏi cấp trường”.
­ Sau khi trao giải, bế mạc hội thi chị  em cấp dưỡng vui mừng sung  
sướng thốt lên “10 năm rồi bây giờ  mới được thế  này đây”!. Họ  thốt lên  

điều đó không phải tự  đắc với thành quả  của mình qua hội thi mà là làm 
trong trường mầm non 10 năm rồi nhưng đó là lần đầu cảm nhận được sự 
thấu hiểu, quan tâm của một tổ  chức, lần đầu tiên được mọi người công 
nhận là thành viên chính thức của hội thi.  

23


Phần trưng bày sản phẩm của 3 thí sinh dự thi

Đồng chí Nguyễn Thị Hoa Hiệu trưởng nhà trường trao giải cho thí  
sinh đạt giải nhất trong hội thi.

24


2.3.8. Biện pháp 8: Tạo điều kiện trau dồi kiến thức tay nghề qua 
tài liệu, qua tham quan học hỏi trường bạn
Ngày nay cùng với sự  phát triển của công nghệ  thông tin, nhà nào có 
mạng thì muốn xem chương trình gì có chương trình ấy. Nhà nào không có 
mạng thì cũng có ti vi, ít nhiều gì cũng nắm được ngày nào có chương trình 
gì. Tôi đề  nghị  cấp dưỡng tham khảo thêm các chương trình được phát  
sóng trên truyền hình. Qua đó học hỏi thêm, có thể  tham mưu nhà trường  
xây dựng thực đơn mà mình cho là phù hợp. Ngoài ra qua thực tế, qua học 
hỏi kiến thức vệ  sinh an toàn thực phẩm từ  cơ  quan quản lý cấp trên tôi 
cung cấp tài liệu để cấp dưỡng có cơ sở tự nghiên cứu.
Chúng ta thường nói “trăm nghe không bằng mắt thấy”, việc học hỏi  
trau dồi kiến thức  ở  bất kỳ  một công việc nào cũng không bao giờ  là đủ. 
Dù biết rằng mỗi trường  có kết cấu nhà bếp khác nhau nhưng ở đâu cũng  
chế biến theo quy trình một chiều. Để cấp dưỡng có dịp trải nghiệm thực  

tế, có cơ  hội giao lưu học hỏi đồng nghiệp, biết được mình làm tốt chỗ 
nào, chưa thực hiện tốt chỗ  nào từ  khâu sơ  chế  đến chế  biến. Cách sắp  
xếp bố trí đồ dùng vật dụng…Vào đầu năm học tôi trao đổi với Ban Giám 
hiệu trường bạn tạo điều cho chị  em cấp dưỡng trường mình đến tham 
quan trao đổi học hỏi. Nhận được sự  đồng ý trường bạn tôi sắp xếp cho 
nhân viên cấp dưỡng đi tham quan. Các chị  em rất hứng thú, khi đi tham  
quan học hỏi qua đó ít nhiều gì cũng giúp chị  em cấp dưỡng có thêm kinh  
nghiệm trong công tác. 
2.3.9.  Biện pháp 9. Lưu mẫu thức ăn
­ Ngoài việc xem xét nguồn thực phẩm nhập vào, vào biên bản giao  
nhận, theo dõi quy trình chế  biến của cấp dưỡng…để  khẳng định thực 
phẩm nhập vào có đảm bảo chất lượng hay không?, cấp dưỡng chế  biến 
có tuân thủ  theo quy trình một chiều, theo nguyên tắc vàng hay chưa? Thì  
25


×