MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………..2
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………4
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………...4
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………..4
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu………………………………...4
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề……………………………………..5
2.2. Thực trạng của vấn đề………………………………………..6
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề……………10
2.4. Kết quả đạt được…………………………………………….36
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận……………………………………………………...39
3.2. Kiến nghị…………………………………………………….39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………41
PHỤ LỤC
1
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BÁN TRÚ Ở
TRƯỜNG MẦM NON HOA MAI
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ là một nội dung được
quan tâm hàng đầu trong chương trình giáo dục mầm non. Toàn ngành Giáo
dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới căn bản toàn diện về giáo dục.
Trường mầm non đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục, rèn
luyện kỹ năng sống, thói quen nề nếp vệ sinh, chăm sóc bữa ăn, giấc
ngủ… đối với trẻ. Vì vậy việc chỉ đạo thực hiện nâng cao chất lượng công
tác bán trú trong trường mầm non là một trong những yêu cầu cấp thiết.
Trong những năm gần đây trường mầm non đã và đang là nơi phụ
huynh tin tưởng gửi gắm con trẻ. Góp phần không nhỏ vào việc đáp ứng
nhu cầu, nguyện vọng của người dân gửi con ở trường từ sáng đến chiều
yên tâm làm kinh tế, hơn thế nữa là đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ chăm
sóc nuôi dưỡng và giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non hiện nay.
Không phải ai xa lạ với chúng ta, đấy chính là nhân viên cấp dưỡng, các cô
giáo vừa trực tiếp đứng lớp giảng dạy vừa kiêm nhiệm công tác bảo mẫu
trong trường mầm non. Một bộ phận đã âm thầm ngày qua ngày làm việc
dù trời nắng hay mưa, trưa hay xế, trong điều kiện cơ sở vật chất thuận
tiện hay khó khăn nhưng bằng cái tâm của mình lặng lẽ khắc phục để hoàn
thành nhiệm vụ.
Nhân viên cấp dưỡng: Thỉnh thoảng còn đeo trang sức, chưa thường
xuyên mặc trang phục, đeo bảo hộ khi làm việc. Chế biến thực phẩm, thức
2
ăn có thói quen như ở nhà, chưa đảm bảo hết các công đoạn theo quy trình
1 chiều. Chưa có bằng cấp, chứng chỉ nghề. Trong tư tưởng đi học mất
công, tốn tiền rồi học xong không biết có được xét tuyển không? Lâu nay
không học cũng làm được chứ có sao đâu.
Về bảo mẫu: Các cô bảo mẫu là giáo viên đứng lớp kiêm nhiệm, hằng
năm chỉ tập huấn kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm tại trung tâm y tế
huyện. Cô công tác lâu năm thì có kinh nghiệm trong việc rèn nề nếp vệ
sinh cá nhân cho trẻ đúng cách, thực hiện tốt giờ ăn giấc ngủ cho trẻ, tuy
nhiên học sinh mỗi năm một khác. Một số giáo viên thì mới vào nghề chưa
cọ xát nhiều với yêu cầu thực tế trong công tác vệ sinh cho trẻ ăn, cho trẻ
ngủ. Báo ăn về nhà trường chưa kịp thời, chưa sáng tạo trong rèn nề nếp
giờ ăn, giờ ngủ cho trẻ qua việc đọc thơ. Trẻ ngủ một số cô không thức
trực giấc ngủ cho trẻ trọn vẹn. Trẻ đi vệ sinh cô chưa thường xuyên theo
dõi.
Nhưng thực tế các cô cấp dưỡng làm việc mức lương theo thỏa thuận,
nguồn thu nhập chủ yếu từ sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh. Các cô giáo
kiêm nhiệm công tác bảo mẫu thì được hỗ trợ 20.000đ/cháu/tháng.
Là Hiệu phó phụ trách chuyên môn nhiều năm liền, khi về nhận công
tác tại cơ quan mới (trường mầm non Hoa Mai) được Hiệu trưởng phân
công nhiệm vụ phụ trách bán trú, tôi nhận thấy đây là một công việc chăm
lo an toàn, chăm sóc vệ sinh, bữa ăn giấc ngủ cho học sinh. Đây là một
công việc hết sức quen thuộc gần gũi hằng ngày nhưng lại ảnh hưởng trực
tiếp lớn đến sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên từ những công việc hết sức
gần gũi này nếu chúng ta không để ý, không đặt cái tâm của mình vào dù là
chi tiết rất nhỏ thì bữa ăn của trẻ không đảm bảo vệ sinh, không đảm bảo
chất dinh dưỡng, sự cân đối các chất cần thiết trong bữa ăn ở trường. Trẻ
không được an toàn, ngủ không sâu, không đủ giấc liệu có phát triển thể
3
chất bình thường không? kéo theo đó là sự phát triển các khả năng về trí
tuệ sẽ ra sao?
Một điều không kém phần quan trọng nữa chính là đạo đức nghề
nghiệp, các cô cấp dưỡng, cô bảo mẫu có thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
tốt đến mấy mà không động viên nhắc nhở trẻ ăn hết suất, hết khẩu phần
lại cắt xén khẩu phần ăn của trẻ, thì làm sao các cháu được đảm bảo nhu
cầu dinh dưỡng khi ở trường.
Tôi luôn trăn trở đặt ra cho mình một nhiệm vụ là làm sao để trẻ được
an toàn, đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ khi ở trường, làm sao để
nhân viên cấp dưỡng, các cô bảo mẫu đặt cái tâm của mình vào công việc,
xem học sinh như con em như người thân yêu của mình để bữa ăn của trẻ
được “Ngon mắt, ngon mũi, ngon miệng”. Bữa ăn của trẻ phải đảm bảo
vệ sinh, nghe mùi thơm, nhìn hấp dẫn kích thích thèm ăn, ăn ngon miệng,
ăn hết suất, không nhàm chán món ăn. Làm sao cho trẻ ngủ đủ giấc khi ở
trường, trẻ ngủ phải đảm bảo ấm áp khi trời lạnh, thoáng mát khi trời
nóng.
Để làm được điều này tôi đã không ít băn khoăn và tự đặt cho mình
nhiệm vụ cần tìm ra một số biện pháp giúp chất lượng bữa ăn, giấc ngủ,
sự an toàn cho trẻ trong trường mầm non đạt hiệu quả cao đó chính là lý do
tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng bán trú ở
trường mầm non Hoa Mai”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được thực trạng công tác tổ chức bán trú ở trường và tìm ra
một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bán trú cho trẻ ở trường Mầm
non Hoa Mai
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nhân viên cấp dưỡng
4
Các cô giáo đang làm công tác bảo mẫu
Học sinh trong toàn trường mầm non Hoa Mai
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thu thập thông tin, phân tích tổng
hợp
Phương pháp khích lệ, động viên
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: kiểm tra, quan sát, khảo sát thực
tế, thống kê số liệu, thực hành
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nhà bếp trường mầm non Hoa Mai
Và 9 nhóm, lớp tại Trường mầm non Hoa Mai
Thời gian nghiên cứu : Một năm học: 2015 2016
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Trong hầu hết sách, tài liệu nói về hướng dẫn thực hiện chương trình
mầm non thì câu “Chăm sóc nuôi dưỡng và Giáo dục” luôn được nhắc đến.
Chỉ qua câu từ này chúng ta cũng nhận thấy một điều rằng: Chăm sóc nuôi
dưỡng được đặt lên trước giáo dục. Tôi thiết nghĩ và các nhà nghiên cứu
tâm sinh lý trẻ mầm non cũng chỉ ra rằng: Chăm sóc nuôi dưỡng là một
phần quan trọng quyết định sự khỏe mạnh về thể chất, một trí tuệ minh
mẫn của con người. Đặc biệt là lứa tuổi mầm non giai đoạn phát triển đầu
đời của trẻ.
Hiện nay đa số các trường Mầm non đều tổ chức bán trú cho học sinh,
phần lớn điều kiện kinh tế của người dân tương đối ổn định. Từ việc
mong được ăn no mặc ấm đến nhu cầu ăn ngon mặc đẹp, mong cho con đi
học 1 ngày hay 1 buổi cũng được miễn cho biết chữ chuyển sang nhu cầu
cho con học bán trú tại trường. Việc cho con đi học bán trú ở trường Mầm
non phụ huynh cũng rất cân nhắc, có phụ huynh mong con em mình đi học
5
trường Mầm non tại địa phương thì con có bạn trong xóm đi cùng cho vui
mà lại gần nhà thuận tiện cho việc đưa đón. Ngược lại cũng có phụ huynh
không ngại xa xôi chỉ mong gửi con vào học trường đáp ứng được mong
muốn của mình: về cơ sở vật chất, về tình hình cô giáo và đặc biệt là chất
lượng chăm sóc nuôi dưỡng. Do đó đối với bậc học Mầm non việc trẻ em
học trái tuyến là điều phổ biến.
Tôi tin chắc hầu hết phụ huynh khi đón con về thì câu hỏi đầu tiên là
“hôm nay ở trường con ăn cơm có giỏi không?, con tự xúc hay cô giáo đút?
các cô cấp dưỡng nấu ăn ngon không? Con ngủ có ngon giấc không? Cô
giáo có cho con vệ sinh sạch sẽ trước khi ăn cơm không? Khi ngủ dậy con
có xúc miệng rửa mặt không? Con tự đi vệ sinh hay cô giáo đi cùng?...rồi
mới đến câu hỏi “hôm nay cô giáo dạy con học gì?” Những câu hỏi này thể
hiện rõ sự quan tâm của các bậc phụ huynh về chất lượng chăm sóc nuôi
dưỡng chính là công tác bán trú của trường Mầm non.
Để thu hút đông đảo phụ huynh cho con em nhập học trường mình thì
phải xây dựng nên “thương hiệu” của nhà trường, ngoài chất lượng giáo
dục cần phải khẳng định được chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng, công tác
tổ chức bán trú của trường chính là sự chăm sóc sự an toàn, chăm sóc bữa
ăn, giấc ngủ cho các cháu lứa tuổi mầm non.
Với đứa trẻ phát triển bình thường khi chúng ta chăm sóc vệ sinh,
bữa ăn, giấc ngủ tốt thì trẻ lớn nhanh về thể chất: cân nặng, chiều cao,
phản xạ của cơ thể, mức độ linh hoạt, sự mềm dẻo, sức mạnh…song song
với đó là sự phát triển về trí tuệ giúp trẻ phát triển toàn diện.
Qua đây càng khẳng định vị trí của chăm sóc nuôi dưỡng đóng vai trò
hết sức quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. Trường Mầm non là nơi
phối hợp trực tiếp cùng với gia đình trong công tác chăm sóc sự an toàn, vệ
sinh, bữa ăn, giấc ngủ theo dõi tình trạng dinh dưỡng của trẻ tốt nhất .
6
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Tình hình đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học
sinh của trường
Toàn trường có 9 nhóm lớp (2 nhóm trẻ, 7 lớp mẫu giáo) với 189 học
sinh, bán trú 100%.
Tổng số cán bộ quản lý giáo viên, nhân viên: 26 người trong đó:
+ Cán bộ quản lý: 03
+ Giáo viên: 15
+ Nhân viên văn phòng: 03
+ Cấp dưỡng: 02
+ Bảo vệ: 02
* Qua thu thập thông tin, kiểm tra nắm bắt tình hình thực tế,
điều kiện khả năng của đội ngũ cấp dưỡng, giáo viên, tình hình dinh
dưỡng của học sinh kết quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ THỰC TRẠNG
(9 nhóm lớp, 15 cô giáo, 3 nhân viên cấp dưỡng)
S
T
NỘI DUNG
THƯỜN
G
XUYÊN
T
TỈ
LỆ
%
KHÔNG
THƯỜN
G
XUYÊN
TỈ
LỆ
%
KHÔNG TỈ
THỰC LỆ
HIỆN
%
I. ĐỐI VỚI CẤP DƯỠNG
1
Thực hiện giờ giấc theo 2/3
quy định
2
Đeo trang sức khi làm
việc
3
Mặc trang phục, đeo bảo 2/3
hộ khi làm việc
4
Chế biến thực phẩm theo
quy trình một chiều
66.7 1/3
1/3
7
33.3
33.3 2/3
66.7 1/3
33.3
3/3
100
66.7
5
Tự tin bày tỏ ý kiến, tham
gia các hoạt động
6
1/3
33.3 2/3
66.7
Tham gia học nâng cao
trình độ chuyên môn
3/3
100
7
Tham gia hội thi “cấp
dưỡng giỏi” cấp trường
3/3
100
8
Tham quan học hỏi
trường bạn
3/3
100
9
Bảo vệ thực phẩm
2/3
66.7 1/3
33.3
10
Bảo vệ đồ dùng nhà bếp
1/3
33.3 2/3
66.7
1
Thực hiện nề nếp vệ 7/9
sinh chung
77.8 2/9
22.2
2
Báo ăn chính xác, kịp thời 6/9
66.7 3/9
33.3
3
Thực hiện vệ sinh cá 5/9
nhân trẻ đúng quy định
55.5 4/9
45.5
4
Sắp xếp bàn ghế, chỗ 5/9
ngồi giờ ăn hợp lý
55.5 4/9
45.5
5
Nêm thử, giới thiệu tên,
giá trị dinh dưỡng của
món ăn, động viên trẻ ăn
hết suất
II. ĐỐI VỚI NHÓM LỚP, CÔ
GIÁO
S
T
NỘI DUNG
THƯỜN
G
XUYÊN
T
TỈ
LỆ
%
2/13
15.3 13/15
KHÔNG
THƯỜN
G
XUYÊN
TỈ
LỆ
%
6
Đọc thơ rèn nề nếp giờ
ăn, giờ ngủ
7
Sắp xếp chiếu, nệm chỗ 5/9
nằm giờ ngủ hợp lý
55.5 4/9
45.5
8
Có cô giáo thức trực giấc 5/9
ngủ cho trẻ
55.5 4/9
45.5
9
Có cô giáo theo dõi khi 5/9
trẻ đi vệ sinh
55.5 4/9
45.5
KHÔNG TỈ
THỰC LỆ
HIỆN
%
9/9
III. ĐỐI VỚI HỌC SINH
8
84.7
100
1
Kỹ năng thực hiện nề 5/9
nếp, vệ sinh theo quy
trình, đúng quy định.
55.5 4/9
45.5
2
Kỹ năng thực hiện nề 5/9
nếp giờ ăn, giờ ngủ đúng
quy định
55.5 4/9
45.5
3
Ăn hết suất
55.5 4/9
45.5
4
Trẻ suy dinh dưỡng thể Quý I có 25/189 trẻ SDDNC chiếm 13.2%
nhẹ cân (SDDVvừa)
5
Trẻ suy dinh dưỡng thể Quý I 27/189 trẻ SDDTC chiếm 14.28%
thấp còi (TCĐ1)
5/9
2.2.2. Thuận lợi:
Cơ sở vật chất, khuôn viên vệ sinh môi trường đảm bảo vệ sinh cho
hoạt động “Chăm sóc nuôi dưỡng và Giáo dục”, Các phòng học có nhà kho
để đồ dùng, nhà vệ sinh riêng cho mỗi lớp. Có mắc điện, giếng nước
khoan, có bếp ăn một chiều, đồ dùng phục vụ công tác bán trú đầy đủ.
Nhân viên cấp dưỡng và giáo viên đứng lớp đủ số lượng định biên theo quy
định.
Ban giám hiệu nhà trường đã học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý
giáo dục
Nhân viên cấp dưỡng là người địa phương, có uy tín với phụ huynh
học sinh, đã từng làm cấp dưỡng cho trường mầm non.
100% cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên được tập huấn kiến thức
vệ sinh an toàn thực phẩm, được khám sức khỏe định kỳ.
Nguồn nước nhà trường sử dụng đã qua kiểm nghiệm kết quả cho
thấy các chỉ số nằm trong giới hạn cho phép sử dụng.
Các cô bảo mẫu chính là giáo viên đứng lớp hiểu được đặc điểm,
tâm lý học sinh.
9
Hầu hết phụ huynh học sinh có nhu cầu cho con học bán trú, quan
tâm đến việc
Học sinh được phân chia theo lớp đúng độ tuổi, không có học sinh
khuyết tật, học sinh có chiều cao và cân nặng bình thường chưa có học
sinh suy dinh dưỡng về chiều cao và cân nặng mức độ nặng.
2.2.3. Khó khăn
Đường dây điện của nhà trường bắt từ ngoài đường chính vào khá xa
và là điện một pha. Ổ cắm điện dùng nấu cơm cùng chỗ với cầu dao bơm
nước, phích cắm tủ lạnh. Đến mùa tưới cà phê để có được bữa cơm chin
cho các cháu ăn là cả một quá trình hết sức khó khăn. Cấp dưỡng phải khéo
léo xới cơm, thăm chừng nồi cơm và không được phép quên việc này. Nếu
ngày nào quên ngày đó học sinh sẽ không kịp giờ ăn như bình thường được.
Trường chưa có nhà ăn cho học sinh, khu vực nhà bếp chưa có biển
tên quy định chia từng khu vực chế biến riêng biệt.
Nhà trường đã thực hiện công tác bán trú hơn 5 năm nhưng chưa tổ
chức một hội thi, cuộc thi lý thuyết hay thực hành để nhân viên cấp dưỡng
có cơ hội nghiên cứu cọ xát với lý thuyết, thực hành mở rộng tầm nhìn qua
việc tham quan giao lưu học hỏi đồng nghiệp trường bạn, cũng như có
động cơ để cấp dưỡng nghiên cứu nâng cao tay nghề. Đặc biệt là chưa qua
lớp đào tạo chứng chỉ nghề.
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Với kinh nghiệm của người quản lý, sự nỗ lực của bản thân tôi đã tìm
ra một số biện pháp để tác động khắc phục hạn chế như sau:
2.3.1. Biện pháp 1: Làm tốt công tác tham mưu – công tác phối
hợp
a. Công tác tham mưu
*Tôi tham mưu với Hiệu trưởng trong việc:
10
Tuyển nhân viên cấp dưỡng là người phải trung thực có uy tín với
nhân dân địa phương, có sức khỏe, có chứng chỉ nghề hoặc đang theo học,
đã từng nấu ăn cho học sinh. Hầu hết xí nghiệp, các cơ quan dân lập hay
công lập khi tuyển nhân viên hồ sơ bao giờ cũng đòi hỏi phải có bằng cấp
hay chứng chỉ nghề. Dù biết rằng học và thực hành là 2 vấn đề nhưng khi
đã qua học lý thuyết tất nhiên người ta có vỗn kiến thức áp dụng cho thực
tế. Mặt khác người đã từng làm công việc nấu ăn cho học sinh thì ít nhiều
cũng có kinh nghiệm, nhà trường tạo điều kiện vừa làm vừa học cũng
được.
Mua sắm trang thiết bị phù hợp, thuận tiện, đủ sử dụng, đảm bảo
cho công tác bán trú. Những đồ dùng cá nhân của trẻ thì phụ huynh có thể
tự mua sắm mang lên nhưng đồ dùng dùng chung thì nhà trường phải mua
sắm. Ngay từ đầu năm học căn cứ vào sĩ số học sinh tôi rà soát kiểm tra lại
cần phải mua sắm đồ dùng gì tham mưu Hiệu trưởng mua sắm đầy đủ kịp
thời cả đồ dùng phục vụ chế biến, chứa đựng của nhà bếp, đồ dùng phục
vụ giờ ăn, giờ ngủ.
Đặc biệt tham mưu Hiệu trưởng vay tiền quỹ tham quan du l ịch c ủa
Công đoàn nhà trường với lãi suất 5000đ/1 triệu/ tháng để mua tủ hấp cơm
vận động phụ huynh đóng góp trong vòng 2 năm để trả lại cho Công đoàn
được 100% phụ huynh nhất trí.
Hợp đồng thực phẩm với nhà cung cấp có uy tín: Hiện nay có rất
nhiều nhà cung cấp thực phẩm muốn làm hợp đồng với các trường mầm
non. Tuy nhiên qua tìm hiểu thực tế tôi tham mưu Hiệu trưởng làm hợp
đồng với nhà cung cấp đã được nhiều người biết đến, có uy tín với nhân
dân mà giá cả phù
hợp.
11
Huy động phụ huynh hỗ trợ kinh phí 15.000đ lên 20.000đ/cháu/tháng
cho nhân viên cấp dưỡng có thêm thu nhập yên tâm công tác.
Ngoài ra xây dựng kế hoạch trình hiệu trưởng phê duyệt tổ chức hội
thi “Cấp dưỡng giỏi cấp trường”
b. Công tác phối hợp
Công tác phối hợp với Ban Giám hiệu nhà trường, với các tổ chức, các
tổ có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với việc thực hiện một kế hoạch, một
công việc nào đó.
b.1. Phối hợp với Ban Giám hiệu nhà trường đưa ra quy chế bán trú
lấy đó làm căn cứ trong công tác kiểm tra, xếp loại thi đua hàng tháng .
Ngay từ đầu năm học phối hợp với các chị em trong Ban Giám hiệu xây
dựng quy chế bán trú sau đó tôi thông qua trước tập thể nhà trường trong
Hội nghị công chức viên chức (quy chế thể hiện ở phần phụ lục)
b.2. Phối hợp với tổ chức Công đoàn nhà trường làm vườn rau sạch
Dựa vào điều kiện sẵn có của trường: đất đai, kinh nghiệm gieo trồng
làm rau của công đoàn viên trong nhà trường. Tôi đề xuất Công đoàn nhà
trường nên làm vườn rau sạch, tạo thêm thu nhập để công đoàn có thêm
kinh phí sinh hoạt vừa là thành tích đáng ghi nhận của tập thể sư phạm.
Nhờ vậy Công đoàn nhà trường đã làm được vườn rau sạch, tự tin ký
hợp đồng cung cấp rau, củ sạch cho nhà trường. Ngược lại nhà trường
cũng yên tâm với nguồn rau sạch tự cung tự cấp này.
Dưới đây là hình ảnh một số loại rau mà Công đoàn nhà trường đã làm
được:
12
b.3. Phối hợp với Tổ cấp dưỡng, y tế nhà trường kiểm tra nhận thực
phẩm trước khi nhập.
Tôi nhận thấy nguồn thực phẩm đầu vào rất quan trọng, để đảm bảo
tính khách qua, chất lượng thực phẩm nhập vào tôi cùng với y tế nhà
trường, tổ cấp dưỡng trực tiếp nhận thực phẩm vào đầu buổi sáng. Với
mắt thường chúng ta đánh giá chất lượng thực phẩm bằng kinh nghiệm và
cảm nhận: thịt, tôm, cá có tươi không, rau củ có bị hư dập bị úng không,
trứng có mùi hôi hay vỡ không,…Nếu đảm bảo tiếp nhận và tiến hành chế
biến. Nếu không đảm bảo trả lại nhà cung cấp yêu cầu đổi lại trường hợp
không có ta có thể dùng thực phẩm khác phù hợp thay thế cho đảm bảo.
Sau đó sửa lại thực đơn trong sổ sách và bảng thực đơn công khai trong
trường cho phù hợp giữa sổ sách và thực tế. Kết quả cho thấy không có
hiện tượng trẻ bị ngộ độc thức ăn của trường.
13
b.4. Phối hợp với Trạm y tế xã, y tế nhà trường trong việc khám sức
khỏe, cân đo theo dõi tình trạng dinh dưỡng của trẻ, tuyên truyền chăm sóc
con theo khoa học
Để có cơ sở đánh giá học sinh trong trường có phát triển bình thường
thì chúng ta phải cân đo, theo dõi. Đầu năm có kế hoạch cụ thể về khám
sức khỏe, cân đo để nắm bắt tình hình thực tế. Sau đó tổng hợp kết quả
cân đo quý I có biện pháp phối hợp với phụ huynh kịp thời điều chỉnh khắc
phục để trẻ phát triển bình thường về cân nặng, chiều cao. Đồng thời chỉ
đạo y tế có kế hoạch tuyên truyền đến phụ huynh học sinh nuôi dạy con
theo khoa học đưa cho giáo viên chủ nhiệm nắm bắt, dán ở góc tuyên
truyền của trường. Qua đây phụ huynh quan tâm theo dõi cân đo thường
xuyên cũng như trong việc cho con ăn uống, chăm sóc vệ sinh để phối hợp
với nhà trường điều chỉnh kịp thời hơn.
2.3.2. Biện pháp 2. Xây dựng thực đơn khoa học
Thực đơn là thước đo đầu tiên góp phần vào việc phát triển bình
thường của trẻ. Việc xây dựng thực đơn hằng ngày cho học sinh không thể
làm qua loa đại khái mà phải dựa vào nhiều yếu tố:
Dựa vào nguồn thực phẩm vốn có của địa phương, cùng với sự cân
đối các chất dinh dưỡng, nhu cầu dinh dưỡng của trẻ tôi xây dựng thực
đơn đảm bảo bữa ăn chính và bữa phụ phù hợp với mức tiền ăn mà phụ
huynh đóng góp theo quy định chung nhưng đảm bảo cung cấp được 4
nhóm thực phẩm:
+ Nhóm chất bột đường: Có trong cơm, cháo, nui...
+ Nhóm chất đạm: Có trong thịt cá, tôm, cua, đậu khuôn, các loại
đậu...
+ Nhóm chất béo: Có trong dầu, mỡ…
+ Nhóm chất xơ: Có trong rau củ,…
14
Thực đơn phải thay đổi xen kẻ thực phẩm: cá, thịt, trứng, tôm. Rau
cũng phải xen ke như: Rau dền, mùng tơi, rau ngót, cải xanh, cải ngọt…
Quả thì: Bí thì bí đỏ, bí xanh, bầu…
Không chỉ thay đổi thực phẩm mà chúng ta cũng cần lưu ý đến dạng
chế
biến. Chẳng hạn cũng là thịt heo nhưng hôm nay là thịt nạc xay to kho với
chả giò, ngày mai là thịt đùi cắt nhỏ kho tàu với trứng hay với đậu khuôn.
Ngày kia lại xay nhỏ hấp với trứng vịt. Cùng là thịt bò nhưng khi thì xay to
hầm với đậu ve, bữa khác lại hầm với khoai tây cà rốt, rồi lại có bữa xay
nhỏ nấu nước súp. Tôm xay dùng nấu canh, tôm kho với thịt ba chỉ, tôm
nấu súp. Trứng thì khi chiên, khi hấp, trứng ốp la…Cá thì cá sốt chua ngọt,
cá nấu canh chua….Cua đồng khi thì nấu canh rau tập tàng, khi thì nấu bún
riêu cua…
Ngay cả bữa phụ cũng cần linh hoạt xen kẻ mặn, ngọt. Cháo chè,
nui, phở, súp…để tránh nhàm chán. Ngoài ra cũng phải tính thời gian các
công đoạn chế biến của cấp dưỡng sao cho kịp giờ ăn của trẻ.
Những món ăn cầu kỳ, mất nhiều thời gian không thể xếp cùng một
ngày.
Tôi thay đổi thực đơn theo mùa, theo thời tiết cho phù hợp, thay đổi
thường xuyên thực đơn tuần, ngày để trẻ không nhàm chán món ăn, ăn hết
suất. Tạo cho học sinh sự bất ngờ, hấp dẫn trước giờ ăn vì không biết hôm
nay mình sẽ được ăn món gì? kích thích sự tò mò và thích ăn của trẻ hơn
(thực đơn tuần thể hiện ở phần phụ lục)
Học sinh nhà trẻ trường tôi ngoài bữa xế chung theo các anh chị lớp
mẫu giáo được bổ sung thêm bữa phụ vào khoảng từ 3 giờ 30 phút đến 3
giờ 45 buổi chiều. Vì qua thực tế trẻ nhà trẻ vẫn ăn theo thực đơn trẻ mẫu
giáo nhưng ăn ít hơn và số tiền đóng vẫn bằng nhau. Để đảm bảo tính công
15
bằng về mức tiền đóng góp của phụ huynh, cũng như đáp ứng lượng dinh
dưỡng cần cung cấp ở số bữa phụ của trẻ nhà trẻ tôi đã xây dựng thực đơn
như thế. Kết quả là trẻ ăn dặm hết suất, phụ huynh rất hài lòng.
Tôi cũng không quên lưu ý nếu hôm nào biển động nhà cung cấp
không giao cá như thực đơn đã đặt thì phải chỉnh sửa thực đơn trong ngày
cho phù hợp giữa thức ăn của trẻ hôm đó với thực đơn công khai. Tránh
tình trạng thực đơn món này mà học sinh lại ăn món khác.
2.3.3. Biện pháp 3: Chỉ đạo nhân viên cấp dưỡng thực hiện tốt
quy định nhà trường đề ra
Giờ giấc: Bất kỳ một cuộc họp, một công việc nào đó đã được dự
kiến thời gian hoàn thành trước nếu có sự trở ngại do yếu tố chủ quan hay
khách quan thì công việc sẽ không hoàn thành hoặc hoàn thành không như
dự kiến.
+ Công việc của nhân viên cấp dưỡng cũng không ngoại lệ, 1 trong 3
người không thực hiện đúng giờ giấc thì kéo theo sự chậm trễ chung,
không kịp giờ ăn cho học sinh.
+ Để đảm bảo chế biến xong kịp giờ ăn của trẻ, nhà trường tạo điều
kiện cho luân phiên nhau 1 cấp dưỡng đi sớm nhận thực phẩm cùng nhà
trường, 2 đồng chí còn lại được phép đến muộn hơn 30 phút. Đồng chí nào
đi muộn hơn thời gian quy định phải xin phép nhà trường với lý do chính
đáng, trung thực.
+ Nhà trường có biện pháp xử lý nếu phát hiện không trung thực trong
việc vi phạm khung thời gian quy định. Tùy theo mức độ vi phạm có hình
thức nhắc nhở trực tiếp, phê bình trong họp tổ cấp dưỡng hoặc trong hội
đồng nhà trường. Cần thiết sẽ áp dụng hình thức viết bản cam kết.
+ Tôi luôn theo dõi sát xao nắm bắt tình hình để đánh giá xác thực
16
Trang phục, bảo hộ:
+ Đầu năm học khi nhà trường ký kết hợp đồng tôi trao đổi, dặn dò
cấp dưỡng phải trang bị cho mình ít nhất 2 bộ đồng phục, bảo hộ (áo
quần, khẩu trang, mủ, tạp dề…) để mặc làm việc tại trường. Nếu có đồng
chí không chấp hành tốt và nói là quên thì tôi yêu cầu may thêm 1 bộ để ở
trường phòng khi quên có mặc làm việc.
+ Trang phục phải thường xuyên giặt sạch sẽ, luôn luôn mặc khi chế
biến thực phẩm.
Móng tay, trang sức:
+ Tuyệt đối móng tay phải cắt ngắn, không được đeo trang sức khi
chế biến thức ăn
+ Thường xuyên theo dõi nhắc nhở cấp dưỡng cắt móng tay, phát hiện
có
trường hợp đeo trang sức thì yêu cầu gỡ ra cất ngay. Lần sau cố ý vi phạm
sẽ lập biên bản gửi về nhà trường có biện pháp xử lý thích hợp.
Chế biến thức phẩm:
+ Khi xem chương trình nào đó ta thường nói “cô ấy hát truyền cảm”
“cô ấy múa có hồn” “cô ấy diễn xuất hay thiệt”,… Tất cả những người
này đã nhập tâm vào vai trò nhiệm vụ họ đang thực hiện là ca sĩ, diễn viên
múa hay diễn viên điện ảnh. Với cấp dưỡng thì sao? nhiệm vụ là người
quản lý phụ trách bán trú tôi vừa như là trao đổi và là yêu cầu để với cái
tâm của mình cấp dưỡng nhập tâm vào công việc dù rất nhỏ: nhặt rau, xắt
thịt hay gọt củ, quả, bóc trứng…tạo cho cấp dưỡng cảm hứng “thổi hồn”
mình vào chế biến, nấu ăn cho bữa ăn được “Ngon mắt, ngon mũi, ngon
miệng”
+ Mặc dù có một đồng chí cấp dưỡng làm tổ trưởng Tổ cấp dưỡng,
tuy nhiên tôi chỉ đạo 3 đồng chí có trách nhiệm chung, không có đồng chí
17
nào chính hay phụ, trao đổi hỗ trợ lẫn nhau công việc gì ai cũng làm được.
Tránh tình trạng phân công nhiệm vụ theo dây chuyền, mỗi người phụ
trách một công đoạn sẽ có sự bất cập về sau.
Chế biến tuân thủ theo quy trình 1 chiều, đảm bảo nguyên tắc vàng:
+ Có sự phân chia khu vực chế biến sống, chín riêng biệt
+ Đồ dùng chứa đựng thực phẩm sống, chín riêng biệt (có ký hiệu làm
dấu)
+ Dụng cụ chế biến thực phẩm sống, chín riêng biệt (có ký hiệu làm
dấu)
Vệ sinh: Khu vực trong và ngoài nhà bếp phải được tổng vệ sinh
sạch sẽ, đồ dùng dụng cụ phải được bảo quản cẩn thận, lau dọn rửa sạch
sắp xếp đúng nơi quy định.
Dưới đây là hình ảnh cấp dưỡng đang làm việc tại bếp nhà trường:
Tổ chức họp hội Tổ cấp dưỡng theo định kỳ: Cứ vào chiều thứ 6
của tuần 2 và tuần 4 mỗi tháng sẽ tổ chức họp Tổ cấp dưỡng. Đồng chí tổ
18
trưởng làm chủ tọa, chị em trong tổ tự nhận xét và xây dựng chân thành để
giúp nhau cùng tiến bộ. Khi cần thiết tôi cùng tham gia tư vấn để cuộc họp
thành công hơn. Cuối tháng sẽ tự xếp loại để trình hội đồng trường xếp
loại thi đua hàng tháng, lấy đó làm căn cứ cho việc xếp loại thi đua cuối
năm và tiếp tục hợp đồng làm việc. Qua đó họ tự ý thức cao hơn về chức
trách nhiệm vụ của bản thân hoàn thành công việc chung một cách xuất
sắc.
2.3.4. Biện pháp 4: Tạo mối đoàn kết trong tập thể
Trong trường mầm non mỗi người mang đậm một nếp sống, một
phong cách của từng vùng miền. Từ cách ăn nói, đi đứng, sở thích, năng
lực… mỗi người một vẻ. Tuy nhiên khi làm việc trong cùng một môi
trường thì mọi người đều phải tuân thủ theo khuôn khổ, theo quy định để
cùng thực hiện một nhiệm vụ chung. Ban Giám hiệu phải xem trường là
ngôi nhà thứ 2, xem mỗi giáo viên nhân viên như là mỗi bộ phận rất quan
trọng không thể thiếu trên cơ thể của mình. Nếu các bộ phận ấy khỏe
mạnh thì ta đi lại hoạt động bình thường, khiếm khuyết đi một trong
những bộ phận đó thì hiệu quả làm việc sẽ khó khăn hơn. Cũng giống như
trong trường nếu thiếu đi một vài vị trí, thiếu sự nhiệt huyết của một đồng
chí đồng nghiệp thì ảnh hưởng đến thời gian
cũng như kết quả hoàn thành công việc. Khi ta không xây dựng tình đoàn
kết nói người này thế này, người khác thế kia, chưa quan tâm, chưa yêu
thương họ thật sự, chưa vun vén xây dựng khối tình cảm như thành viên
trong gia đình mình thì làm sao có thể đòi hỏi họ xây dựng tình đoàn kết nội
bộ được.
Muốn giáo viên nhân viên đoàn kết trước hết Ban Giám hiệu phải
làm gương để mọi người soi theo. Không ưu ái đồng chí nào và cũng không
được phép xem nhẹ đồng chí nào. Tôi luôn có ý thức vun vén tình cảm, tình
19
đoàn kết để ngoài trách nhiệm ra mọi người quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ,
gắn kết nhau hơn làm việc và cùng nhìn về một cái đích mà mình mong
muốn. Như lời Bác dạy giữ gìn đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt
mình bởi vì
“Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công”
2.3.5. Biện pháp 5. Tìm hiểu nắm bắt tâm tư nguyện vọng, tạo
sự tự tin cho nhân viên cấp dưỡng.
Qua tìm hiểu thực tế tôi nhận thấy: Trong cuộc họp các chị cấp
dưỡng luôn ngồi phía sau các thành viên khác. Không tham gia đóng góp ý
kiến vì trong tư tưởng không biết ý mình nói ra có đúng không? có được
mọi người ghi nhận không?
Chị em trong trường nhiều lúc vô tư gọi nhân viên cấp dưỡng là “Nhà
bếp”, đặc thù công việc các đồng chí ấy luôn gắn bó với cái nhà bếp. Cũng
có thể là cách gọi thân thương vì có nhà bếp mới nấu cơm, có cơm ăn.
Nhưng ngược lại ở vị trí của họ khi nghe gọi mình là “Nhà bếp” họ lại
chạnh lòng. Bình thường họ chỉ loanh quanh ở nhà bếp họ cũng muốn
được mọi người tôn trọng vì mỗi người một nhiệm vụ. Trừ những việc
làm không được pháp luật chấp nhận, còn lại chỉ có người thấp hèn chứ
không có công việc thấp hèn. Trong nhà trường thì phải có nhiều người
đảm nhận những công việc vị trí khác nhau. Không có nhiệm vụ nào trong
một cơ quan nhà nước mà thấp hèn, bị mọi người phân biệt xem thường
được.
Vì vậy nếu ai đó lỡ gọi cấp dưỡng là “nhà bếp”Tôi luôn nhắc nhỏ để
tránh làm tổn thương lòng tự trọng của họ. Trường hợp có nhiều lần thì tôi
lựa lời ý kiến xây dựng chung trong cuộc họp để mọi người rút kinh
20
nghiệm. Đơn giản chỉ lá cách xưng hô thôi nhưng họ luôn cảm thấy được
tôn trọng, được đối xử công bằng vì mỗi công việc đều có một cái tên cho
người làm nhiệm vụ đó (ví dụ: người đứng lớp gọi là giáo viên, các cô y tế,
kế toán văn thư, thủ quỹ gọi là nhân viên văn phòng...thì những người trực
tiếp nấu ăn như họ thì mọi người phải gọi là cấp dưỡng). Ngồi họp tôi yêu
cầu họ ngồi theo hàng với các thành viên khác, không ngồi sau như mọi khi
dần dần họ quen và mạnh dạn bày tỏ ý kiến khi có điều gì đó chưa thông
suốt, vướng mắc.
Động viên cấp dưỡng trích lương tham gia góp quỹ giống chị em
khác trong trường để khi nhận được quyền lợi từ công đoàn dù nhiều hay ít
không cảm thấy ái ngại. Tham gia các phong trào khi công đoàn phát động:
làm vườn rau sạch, hội thao, văn nghệ… cùng các thành viên khác trong
trường, qua đây giúp chị em có thời gian cởi mở gần gũi hiểu nhau hơn với
những cuộc trao đổi trò chuyện về công việc, về bản thân về gia đình...
Mọi người chung sức chung lòng cùng thực hiện một nhiệm vụ không còn
là quản lý, giáo viên, hay cấp dưỡng…mà tất đều có tên gọi như nhau là
công đoàn viên, cấp dưỡng cũng đóng góp công sức nhỏ bé cho hoạt động
công đoàn nhà trường. Dần dần họ tự tin hơn khoảng cách giữa họ với các
thành viên trong trường ngay một được rút ngắn.
Nhờ vậy tôi nhận thấy gương mặt cấp dưỡng mạnh dạn hơn, vui vẻ
hơn, rạng rỡ hơn, chăm chút vào công việc ngày một tích cực hơn.
2.3.6. Biện pháp 6: Động viên tham gia học chứng chỉ nghề, nâng
cao trình độ chuyên môn
Tiền lương ít ỏi cùng với tư tưởng của các chị cấp dưỡng là đi học
mất công, tốn tiền, học về có được vô biên chế đâu mà đi.
21
Tôi động viên, chỉ ra những ưu điểm khi cấp dưỡng tham gia học
tập:
Nâng cao tay nghề, cơ hội giao lưu học hỏi, có thêm kinh nghiệm chế biến
món ăn hằng ngày cho người thân trong gia đình. Khi học xong tất nhiên
mọi người sẽ nhìn nhận khác. Năm sau nhà trường hợp đồng cấp dưỡng
thì sẽ ưu tiên cho ai có chứng chỉ nghề, có kinh nghiệm. Các chị không
thích làm nhà ở trường nữa thì cũng tự tin xin việc nơi khác ví dụ như quán,
nhà hàng phục vụ ăn uống,…hay tự mở dịch vụ kinh doanh cho chính mình.
Hoặc bất ngờ có công văn của cấp trên đưa về xét tuyển nhân viên cấp
dưỡng với yêu cầu là người địa phương, có sức khỏe, có bằng cấp, chứng
chỉ nếu các chị không đi học lúc này có phải tiếc không.
Đôi khi tôi lại kể cho các chị ấy nghe chuyện làm báo cáo có mục
thống kê trình độ cấp dưỡng. Trường thì nhân viên cấp dưỡng đã học xong
và có chứng chỉ rồi việc báo cáo thuận tiện. Trường thì nhân viên cấp
dưỡng đang học không biết báo cáo thế nào vì chỉ báo cáo là có chứng chỉ
hay chưa có chứng chỉ. Trường mình thì đang nợ mục này rồi các chị ạ! Em
thấy điều này thiết thực với công việc các chị đang làm mà, các chị phải cố
gắng làm sao trường mình không nợ mục này. Mặt khác tôi tham mưu Hiệu
trưởng gia hạn cho cấp dưỡng ngày hoàn thành khóa học mang chứng chỉ
nộp về nhà trường.
Qua trao đổi, đề nghị với chị em cấp dưỡng kết quả là họ đã lựa chọn
nơi phù hợp nhất đăng ký tham gia học lớp ngoài giờ, một đồng chí học
trước, sau đó 2 đồng chí còn lại cũng đăng ký đi học luôn, và nộp chứng chỉ
đúng thời gian gia hạn.
2.3.7. Biện pháp 7: Tạo điều kiện tìm tòi nghiên cứu qua hội thi
Tổ chức hội thi nhằm nâng cao nhận thức của giáo viên, nhân
viên, tạo cơ hội để giáo viên và nhân viên tự học và sáng
22
tạo. Đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua, nhằm tuyên dương và nhân
rộng những giáo viên, nhân viên trong hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
Mặt khác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong tổ chức bữa ăn cho trẻ.
Nâng cao tay nghề chế biến món ăn, phù hợp với trẻ. Coi trọng việc đánh
giá thực chất năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Tạo sự đoàn kết trong tập
thể cùng nhau thực hiện nhiệm vụ chung
Qua tìm hiểu nắm bắt tâm tư nguyện vọng tôi biết cấp dưỡng cũng
muốn được nhà trường tổ chức một cuộc giao lưu, một hội thi mà trong đó
họ là 1 thành viên thực thụ tham gia hội thi. Không chỉ có nhiệm vụ quét
dọn, bê bàn ghế khi nhà trường tổ chức cuộc giao lưu hội thi nào đó mà họ
thường làm, tự sâu thẩm trong lòng họ một sự khát khao có cơ hội được
khẳng định mình.
Tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng, cùng với các bộ phận có liên
quan, vì các cô giáo chuẩn bị cho hội thi làm đồ dùng cấp huyện nên từ hội
thi “Cấp dưỡng, bảo mẫu giỏi cấp trường” được chuyển thành hội thi
“Cấp dưỡng giỏi cấp trường”.
Sau khi trao giải, bế mạc hội thi chị em cấp dưỡng vui mừng sung
sướng thốt lên “10 năm rồi bây giờ mới được thế này đây”!. Họ thốt lên
điều đó không phải tự đắc với thành quả của mình qua hội thi mà là làm
trong trường mầm non 10 năm rồi nhưng đó là lần đầu cảm nhận được sự
thấu hiểu, quan tâm của một tổ chức, lần đầu tiên được mọi người công
nhận là thành viên chính thức của hội thi.
23
Phần trưng bày sản phẩm của 3 thí sinh dự thi
Đồng chí Nguyễn Thị Hoa Hiệu trưởng nhà trường trao giải cho thí
sinh đạt giải nhất trong hội thi.
24
2.3.8. Biện pháp 8: Tạo điều kiện trau dồi kiến thức tay nghề qua
tài liệu, qua tham quan học hỏi trường bạn
Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhà nào có
mạng thì muốn xem chương trình gì có chương trình ấy. Nhà nào không có
mạng thì cũng có ti vi, ít nhiều gì cũng nắm được ngày nào có chương trình
gì. Tôi đề nghị cấp dưỡng tham khảo thêm các chương trình được phát
sóng trên truyền hình. Qua đó học hỏi thêm, có thể tham mưu nhà trường
xây dựng thực đơn mà mình cho là phù hợp. Ngoài ra qua thực tế, qua học
hỏi kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm từ cơ quan quản lý cấp trên tôi
cung cấp tài liệu để cấp dưỡng có cơ sở tự nghiên cứu.
Chúng ta thường nói “trăm nghe không bằng mắt thấy”, việc học hỏi
trau dồi kiến thức ở bất kỳ một công việc nào cũng không bao giờ là đủ.
Dù biết rằng mỗi trường có kết cấu nhà bếp khác nhau nhưng ở đâu cũng
chế biến theo quy trình một chiều. Để cấp dưỡng có dịp trải nghiệm thực
tế, có cơ hội giao lưu học hỏi đồng nghiệp, biết được mình làm tốt chỗ
nào, chưa thực hiện tốt chỗ nào từ khâu sơ chế đến chế biến. Cách sắp
xếp bố trí đồ dùng vật dụng…Vào đầu năm học tôi trao đổi với Ban Giám
hiệu trường bạn tạo điều cho chị em cấp dưỡng trường mình đến tham
quan trao đổi học hỏi. Nhận được sự đồng ý trường bạn tôi sắp xếp cho
nhân viên cấp dưỡng đi tham quan. Các chị em rất hứng thú, khi đi tham
quan học hỏi qua đó ít nhiều gì cũng giúp chị em cấp dưỡng có thêm kinh
nghiệm trong công tác.
2.3.9. Biện pháp 9. Lưu mẫu thức ăn
Ngoài việc xem xét nguồn thực phẩm nhập vào, vào biên bản giao
nhận, theo dõi quy trình chế biến của cấp dưỡng…để khẳng định thực
phẩm nhập vào có đảm bảo chất lượng hay không?, cấp dưỡng chế biến
có tuân thủ theo quy trình một chiều, theo nguyên tắc vàng hay chưa? Thì
25