Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

SKKN: Bàn thêm về việc ra đề - chấm - trả bài tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.76 KB, 30 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  

MỤC LỤC
1.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
1.5 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
2.NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận của vấn đề
2.2 Thực trạng của vấn đề
a.Thuận lợi và khó khăn
b.Thành công và hạn chế
c. Mặt mạnh,mặt yếu
d. Các nguyên nhân và yếu tố tác động
e. Phân tích và đánh giá thực trạng mà đề tài đã đặt ra
2.3 Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp,biện pháp
c. Điều kiện thực hiện các giải pháp và biện pháp
e.Kết quả khảo nghiệm và giá trị khoa học của vấn đề nghiên 
cứu
2.4 Kết quả thu được
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
3.2 Kiến nghị

1.MỞ ĐẦU:
 1.1 Lý do chọn đề tài:



                                                   Trang 1                     

Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 5
Trang 5
Trang 6
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 9
Trang 10
Trang 22
Trang 22
Trang 22
Trang 23
Trang 23
Trang 24


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  

      Bộ GD­ ĐT đã từng nhận xét tình hình giảng dạy ở môn Tập làm văn như 
sau: “Thiếu sót lớn nhất trong việc giảng dạy Tập làm văn hiện nay là việc 
chấm bài.Bên cạnh một số đông tận tụ, có một số giáo viên vẫn chưa có đầy  
đủ  tinh thần trách nhiệm trong việc chấm bài học sinh. Nhiều giáo viên chỉ 
chấm bài qua loa, nhận xét chung chung, bỏ mặc nhiều lỗi của học sinh trong  
bài làm. Thậm chí một số giáo viên chấm không đủ bài Tập làm văn theo quy  
định.Hiện nay có quá nhiều học sinh viết văn kém.Tình trạng đó chính là hậu 
quả của việc chấm bài chưa đầy đủ tinh thần trách nhiệm của giáo viên.
    Đối với giáo viên chưa lo đến việc chấm bài thì phương pháp chấm cũng ít  
tác dụng đối với học sinh. Giáo viên chưa yêu cầu học sinh tự chữa lỗi trong  
bài làm văn của mình, chưa chú ý cân đối đến việc khích lệ những cố gắng và 
chỉ rõ những sai sót về nội dung và hình thức diễn đạt trong bài làm của học  
sinh. Giáo viên chưa thực hiện đúng yêu cầu quy định là cho học sinh làm bài 
vào vở (hoặc làm vào giấy rời thì đính vào từng tập) để giáo viên có thể theo 
dõi sát sự chuyển biến của học sinh qua từng bài làm”.
     Theo công văn hướng dẫn dạy­ học môn Văn­ Tiếng Việt  đã nhấn mạnh:  
“ Đối với phân môn Tập làm văn, giáo viên phải hình thành kĩ năng phân tích 
đề, tìm ý, lập dàn ý và kĩ năng hành văn cho học sinh. Việc ra đề Tập làm văn 
phải có đáp án, sát hợp với chương trình, làm sao đa số  học sinh có học lực  
trung bình đều có thể  làm được bài. Việc chấm bài Tập làm văn phải được  
tiến hành nghiêm túc, chú ý gạn đục, khơi trong, trân trọng những ý tưởng,  
những phát hiện mới lạ của học sinh. Những bài làm hoàn chỉnh, hành văn lưu 
loát đáp  ứng những yêu cầu của đề bài phải được cho điểm cao( thang điểm 
9, 10) đề khuyến khích các em vươn lên trong học tập”.
      Qua quá trình giảng dạy, đã tiến hành dự  giờ  và tham khảo giáo án các 
đồng nghiệp tôi nhận thấy:

                                                   Trang 2                     



Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
     ­ Về giáo án, một số giáo viên ra đề Tập làm văn cho học sinh đáp án biểu  
điểm chấm hết sức tùy tiện, qua loa đại khái(hình thức đối phó gọi là “có”). 
Từ đó dẫn đến việc chấm bài một cách cảm tính, thiếu chính xác.
     ­ Về  chấm bài, nhận xét, cho điểm qua loa đại khái thiếu tinh thần trách 
nhiệm :
+ Nhận xét chung chung không cụ  thể: không sữa lỗi hoặc bỏ  qua 
nhiều lỗi trong bài làm của học sinh, viết tắt, cẩu thả trong phần “lời phê”.
+ Cho điểm: Chỉ tập trung điểm 4, 5, 6 ngại cho điểm 8 , 9, 10 làm cho 
một số học sinh có bài làm tốt thiệt thòi trong quá trình làm văn, góp phần làm  
cho tâm lí các em không thích học văn, vì cố  gắng cũng chẳng bao giờ  đạt 
điểm cao.
   ­ Về trả bài: Tôi thấy một số thầy cô giáo chưa có sự chuẩn bị chu đáo để 
giờ  trả  bài thực sự  có hiệu quả: Giáo án tiết trả  bài sọan quá ngắn gọn với 
những lời nhận xét chung chung, bài nào cũng như  bài nào, không có những  
nhận xét cho những  bài làm cụ thể. Nên khi lên lớp giáo viên chưa có những 
nhận xét xác đáng, trả bài thiếu tính hệ thống, không có phần sữa lỗi trong bài 
làm của học sinh.
   Do đó, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài “ Bàn thêm về việc ra đề ­ chấm ­ trả 
bài tập làm văn” để giáo viên  Ngữ Văn  cùng nhau bàn bạc thấu đáo để công 
việc này thực sự có hiệu quả hơn.
  1.2.Mục đích nghiên cứu:
­  Mục đích của đề  tài này là theo dõi sự  tiến bộ của các em qua từng  
bài làm, khắc phục những hạn chế  trong bài làm của các em để  điều chỉnh  
phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh.Giúp học sinh học sinh đúc 
rút kinh nghiệm, phân tích cái hay cái dở trong bài làm của mình, nêu phương 
hướng phấn đấu sửa chữa và vươn lên  ở  những bài sau.Từ  đó phát huy tính 

                                                   Trang 3                     



Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
tích cực chủ  động sáng tạo của các em góp phần nâng cao chất lượng dạy 
học bộ môn Ngữ văn ở bậc THCS.
 1.3. Đối tượng nghiên cứu:
  

­ Học sinh khối 6 đến khối 9 của Trường THCS Đăk Drô .

1.4. Phương pháp nghiên cứu:
­ Nghiên cứu các tiết tập làm văn trong SGK, SGV, sách chuẩn kiến 
thức kĩ năng môn Ngữ văn từ khối 6 đến khối 9. 
Đọc, nghiên cứu tài liệu từ các nguồn: sách, báo, internet
­ Thu thập dẫn chứng qua tiết dạy của bản thân và đồng nghiệp.
­ Nghiên cứu và thực nghiệm việc ra đề, chấm , trả bài qua các tiết tập  
làm văn cụ thể.
1.5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
­ Về  môn Ngữ  văn có rất nhiều vấn đề  để  nghiên cứu song  ở  đây tôi 
chỉ chọn nghiên cứu việc ra đề ­ chấm ­ trả bài Tập làm văn mà thôi.
2. NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
     Làm văn là giờ  học mang tính thực hành tổng hợp  ở  trình độ  cao của ba  
phân môn : Tiếng Việt­ Đọc văn  và làm văn.Đây là gờ học giờ học thể hiện  
rõ nhất kết quả dạy và học môn ngữ văn của thầy và trò. Nó góp phần quan  
trọng trong việc trực tiếp hình thành mục tiêu : Phát triển năng lực tạo lập 
văn bản với yêu cầu không những đúng mà còn phải hay cho học sinh. Làm  
văn không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng dùng từ, đặt câu, thực hành 
và vận dụng những gì đã học trong giờ Ngữ văn  vào tạo lập một văn bản mà 

còn chứa đựng trong nó cả nhận thức, tình cảm, cá tính, tâm hồn, năng lực tư 
duy của các em . Mỗi bài Làm văn là  một sản phẩm tổng hợp về nhân cách 
cá tính của mỗi học sinh. Do đó ra đề  ­ chấm ­ trả  bài Tập làm văn là khâu 
quan trọng để đánh giá khách quan những sáng tạo nhỏ của các em học sinh,  
                                                   Trang 4                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
đánh khả  năng tiếp thu bài học lý thuyết mà giáo viên truyền đạt cho để  áp 
dụng vào thực hành. Đây cũng là  khâu quan trọng giúp cho học sinh nhận ra 
những ưu khuyết điểm trong bài làm của mình để rút kinh nghiệm cho những 
bài viết lần sau tốt hơn. 
    Tuy nhiên trên thực tế, một số giáo viên còn coi nhẹ công tác ra đề ­ chấm­  
trả bài Tập làm văn. Giáo viên ra đề chưa sát với đối tượng học sinh ở vùng  
miền mình giảng dạy, chấm bài qua loa đại khái thiếu tâm huyết, tiết trả bài  
được thực hiên một cách đơn giản chưa có sự chuẩn bị chu đáo để giờ trả bài 
thực sự  có hiệu quả. Giáo án tiết trả  bài sọan quá ngắn gọn với những lời 
nhận xét chung chung, bài nào cũng như bài nào, không có những nhận xét cho 
những  bài làm cụ thể. Do đó, khi lên lớp, giáo viên chưa có những nhận xét  
xác đáng, trả bài thiếu tính hệ thống, không có phần sữa lỗi trong bài làm của 
học sinh. Từ  đó, dẫn đến học sinh chưa ý thức đúng vai trò của tiết trả  bài. 
Chỉ mong ngóng mình được bao nhiêu điểm để mà buồn mà vui thôi chứ chưa 
có ý thức phát huy những mặt tốt và khắc phục những thiếu sót trong bài làm 
của mình.
   Từ những vấn đề trên, để khắc phục những hạn chế của việc ra đề, chấm, 
trả bài Tập làm văn tôi mạnh dạn thực hiện đề tài  “ Bàn thêm về việc ra đề ­  
chấm ­ trả bài Tập làm văn”.
2.2.Thực trạng của vấn đề:
    Từ năm học 2008­2009, tôi được phân công về công tác tại  trường THCS 

Đăk Drô – xã Đăk Drô – huyện Krông Nô. Từ  đó đến nay, tôi đã được giảng 
dạy môn Ngữ  văn từ  khối 6 đến khối 9. Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy 
thực trạng của  việc ra đề ­ chấm ­ trả bài Tập làm văn  như sau:
a.Thuận lợi khó khăn:
 a.1.Thuận lợi:  

                                                   Trang 5                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
      Hiện nay, tất cả  bộ  môn nói chung và môn Ngữ  văn nói riêng  đang thực 
hiện đổi mới một cách toàn diện trong đó có đổi mới phương pháp dạy học. 
Phương pháp dạy học mới đòi hỏi: “dạy học lấy học sinh làm trung tâm” và  
“phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của người học”. Để  thực hiện tốt  
công tác đổi mới phương pháp dạy học trong môn Ngữ  văn, Phòng Giáo dục 
huyện Krông Nô, trường THCS Đăk Drô thường xuyên tổ chức tập huấn, hội  
thảo chuyên đề để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho giáo viên. Qua  
các buổi tập huấn này, tôi đã rút ra được nhiều bài học bổ  ích phục vụ  cho  
công tác giảng dạy môn Ngữ văn cũng như thực hiện việc ra đề ­ chấm ­ trả 
bài Tập làm văn..
­ Mặt khác, hiện nay công nghệ  thông tin phát triển mạnh mẽ,  đây 
chính là mảnh đất màu mỡ để tôi tự học hỏi, nghiên cứu khi thực hiện đề tài  
này.
­  Bên cạnh đó,ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan  
tâm, giúp đỡ tận tình của Ban giám hiệu nhà trường, các đồng nghiệp, các em 
học sinh  đã tạo động lực to lớn cho tôi thực hiện đề tài này
a.2. Khó khăn:
­ Học sinh yêu môn văn, học giỏi môn văn ngày ngày càng ít, giáo viên 
dạy văn không được học sinh hưởng ứng nhiều. Chất lượng của các bài viết  

của học sinh chưa cao, chưa rèn luyện được kỹ năng hoàn thành một bài viết. 
Bài viết của học sinh mắc nhiều lỗi chính tả, không xác định được yêu cầu  
của đề  bài, không biết triển khai bài viết theo hướng nào, cách dùng từ, đặt 
câu, dựng đoạn …thiếu trong sáng và không   hợp lí . Học sinh chưa thấy 
được những điểm mạnh, điểm yếu trong bài làm của mình.  Điều đó đã ảnh 
hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện đề tài.
b.Thành công, hạn chế.
b.1.Thành công: 
                                                   Trang 6                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
   Đề  tài này đã gúp tôi theo dõi sát  sự  tiến bộ, những hạn chế  của các em  
qua từng bài làm, để điều chỉnh phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học  
sinh.  Đề tài đã giúp học sinh học sinh đúc rút kinh nghiệm, phân tích cái hay 
cái dở trong bài làm của mình, có phương hướng phấn đấu sửa chữa và vươn  
lên ở những bài sau. Do đó chất lượng bài viết của học sinh được nâng cao rõ 
rệt, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của các em  trong giờ học ,góp  
phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở bậc THCS.
b.2. Hạn chế: 
    Một số học sinh chưa ý thức hết tầm quan trọng của tiết trả bài nên chưa  
có ý thức rút kinh nghiệm cho bài viết lần sau của mình. Do đó trong các bài  
làm vẫn còn mắc nhiều lỗi như  dùng từ, đặt câu, triển khai các ý lộn xộn ,  
sắp xếp bố cục bài làm chưa khoa học…
c. Mặt mạnh, mặt yếu.
c.1. Mặt mạnh : 
   Là giáo viên  được trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn  ở  tất cả các khối  
lớp của bậc THCS, tôi có điều kiện để  nắm rõ những mặt được và chưa  
được trong bài làm của học sinh. Từ  đó tôi luôn luôn có ý thức học tập trau 

dồi kiến thức, tìm hiểu nắm bắt đối tượng học sinh của mình để  thực hiện  
công tác ra đề ­ chấm ­ trả bài Tập làm văn một cách tốt nhất. 
c.2. Mặt yếu:
   Tài liệu  tham khảo bồi dưỡng về công tác ra đề ­ chấm ­ trả bài Tập làm  
văn còn rất ít. Công tác ra đề, chấm trả  bài Tập làm văn hầu như  không có  
một tài liệu nào hướng dẫn cụ  thể mà hầu hết giáo viên tự  mày mò, tự  học 
hỏi để thực hiện.
d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
     Theo tác giả  Lê Ngọc Trà, dạy văn tức là: “ khai trí, khai tâm”.Thật vậy,  
văn có một tính chất đặc biệt, đó là tính toàn vẹn của nhận thức về thế giới,  
                                                   Trang 7                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
nó có cả nhận thức về lí trí và tình cảm. Thực tế môn Ngữ  văn có một vị  trí 
quan trọng trong nhà trường. Học văn không chỉ  học những tri thức về ngôn 
ngữ, về  lí luận ,về  lịch sử  văn chương mà cốt lõi của việc học văn là bồi  
dưỡng và phát huy năng lực của mỗi con người: năng lực tư  duy, năng lực 
cảm xúc và năng lực cảm thụ.Tầm quan trọng đó ai cũng biết. Thế  nhưng 
trên thực tế những năm gần đây, học sinh yêu môn văn ngày càng ít đi. Những  
giờ dạy văn không còn được học sinh đón nhận một cách hứng thú say mê mà 
cảm thấy chán nản, gò bó. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do nhiều 
nguyên nhân nhưng theo tôi chủ  yếu là bắt nguồn từ  giáo viên.Một số  giáo 
viên chưa biết cách dẫn dắt, hướng dẫn học sinh cảm nhận một vấn đề  văn 
chương hay có chăng cũng thực hiện một cách qua loa không đến nơi đến 
chốn, không có sự  động viên, khích lệ  dù đó là sự  sáng tạo,cảm thụ  rất nhỏ 
bé của các em. 
      Đặc biệt trong việc ra đề ­ chấm ­ trả bài Tập làm văn , một số giáo viên 
chưa thực sự đầu tư  và quan tâm đúng mức. Hơn nữa, giáo viên không có tài 

liệu soạn mẫu hay mô hình bài soạn để tham khảo, thậm chí ngay cả các đợt 
tập huấn việc soạn giáo án tiết trả bài như thế nào cũng không thấy đề cập. 
Chưa có sự thống nhất về cách soạn giảng và chưa coi trọng đến mục tiêu và 
nhiệm vụ của công tác ra đề ­ chấm ­ trả bài Tập làm văn. Tiết trả bài ít khi 
được dự  giờ,đánh giá.Tổ  chuyên môn chưa thực hiện đầy đủ  vai trò, chức  
năng của mình. Mặt khác, học sinh có thói quen học vẹt bài văn mẫu mà  
không có kĩ năng viết văn . Bài viết mắc nhiều lỗi chính tả, không xác định 
được yêu cầu của đề bài , không biết triển khai bài viết  theo hướng nào, cách 
dùng từ  , đặt câu,dựng đoạn …thiếu trong sáng và không  hợp lí . Học sinh  
chưa thấy được những điểm mạnh, điểm yếu trong bài làm của mình.  
     Chính vì vậy công tác ra đề ­ chấm ­ trả bài Tập làm văn cần phải được  
nhìn nhận đúng và thực hiện một cách nghiêm túc để đạt hiệu quả tốt hơn.

                                                   Trang 8                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
e. Phân tích, đánh giá thực trạng:
    Theo khảo sát Ngữ văn năm 1991­1992 của sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội  
cho thấy trong số 897 bài chỉ có 2% không có lỗi chính tả, 0,6% không có lỗi 
về câu và chỉ có 4,5% viết sạch sẽ không tẩy xóa. 
    Còn bản thân tôi, khảo sát số học sinh trong hai năm học: 2011­2012, 2014­
2015 thì: năm học 2011­2012:   Trong 78 học sinh chỉ  có 2,6% không có lỗi 
chính tả, 0% không mắc lỗi về câu, 3,8% viết sạch đẹp không tẩy xóa. Năm  
2014­2015: Trong 64 học sinh tôi khảo sát có 1,6% không có lỗi chính tả,1,6% 
không mắc lỗi về câu, 3,1% viết sạch đẹp không tẩy xóa. Chất lượng của các 
bài viết của học  sinh chưa cao, chưa rèn luyện được kỹ năng hoàn thành một 
bài viết. Bài viết mắc nhiều lỗi chính tả, không xác định được yêu cầu của 
đề bài, không biết triển khai bài viết theo hướng nào, cách dùng từ , đặt câu,  

dựng đoạn …thiếu trong sáng và không hợp lí . Học sinh chưa thấy được 
những điểm mạnh, điểm yếu trong bài làm của mình.  
   Trong thực tế, nhiều giáo viên chưa thật sự đầu tư thời gian và tâm sức vào  
việc ra đề, chấm và trả bài Tập làm văn .
    Để đỡ mất thời gian, giáo viên thường lấy những đề có sẵn trong sách giáo 
khoa, sách những bài văn mẫu và  ở  các tài liệu khác để  ra cho học sinh mà  
không cần quan tâm đến đối tượng học sinh của mình. Đáp án, biểu điểm lập  
ra rất sơ sài ,không khoa học mà để đối phó, để gọi là cho có.
   Bên cạnh đó việc chấm bài,  giáo viên cũng thực hiện chấm qua loa và thiếu 
chuẩn xác:
­ Chấm bài theo cảm tính, điểm  thiếu chính xác, do không có đáp án và  
biểu điểm chấm bài cụ thể.
 

­ Chấm bài thiếu chính xác do không đọc kỹ, thiếu tôn trọng kết quả, 

công sức làm bài của học sinh . Có khi chỉ  đọc mở  bài, kết bài, liếc sơ  qua 
phần thân bài rồi cho điểm.
                                                   Trang 9                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
 

­ Nhận xét bài làm của học sinh qua loa đại khái, đôi khi không nhận xét  

chỉ cho điểm. Nhiều giáo viên còn viết tắt, viết láu trong phần lời phê và bỏ 
qua phần gạch lỗi trong bài làm của học sinh ( Đến lỗi chính tả  cũng không 
gạch chân…)

        Giờ trả bài,so với các giờ khác, có lẽ giờ trả bài lại là giờ hiệu quả kém  
nhất, giáo viên thực hiện tùy tiện nhất, học sinh làm việc uể  oải nhất. Hầu 
như giáo viên trả bài không theo một hệ thống nào cả, trúng  bài nào nhận xét 
bài đó, có giáo viên chỉ  tập trung cho học sinh lập dàn ý mà không nhận xét  
một cách cụ  thể, không cho học sinh sửa lỗi, trong khi  đó lời phê lại rất  
chung. Kết quả  là học sinh chẳng nắm được  ưu, khuyết điểm cụ  thể  trong 
bài làm của mình là gì để  biết hướng sửa chữa và tiến bộ. Các em chỉ  ngồi 
chờ  giáo viên phát bài, xem mình được điểm mấy để  mà buồn hoặc vui.Một 
số giáo viên cho học sinh làm bài trên giấy không chịu đính lại thành tập . Còn  
có tình trạng học sinh xé bài làm,vứt bài bị điểm xấu một cách vô thức. Phần  
lớn là do giờ trả bài chưa làm trọn yêu cầu của nó.
   Xuất phát từ thực trạng trên, tôi mạnh dạn : Bàn thêm về việc ra đề ­ chấm  
­ trả bài Tập làm văn như sau.
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
       ­  Mục tiêu của đề tài này  là theo dõi sự tiến bộ của các em qua từng bài 
làm,   khắc   phục   những   hạn   chế   trong   bài   làm   của   các   em   để   điều   chỉnh 
phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh.  Giúp học sinh học sinh 
đúc rút kinh nghiêm, phân tích cái hay cái dở  trong bài làm của mình, nêu 
phương hướng phấn đấu sửa chữa và vươn lên  ở  những bài sau.Từ  đó phát 
huy tính tích cực chủ động sáng tạo của các em góp phần nâng cao chất lượng  
dạy học bộ môn Ngữ văn ở bậc THCS. 
         Để đạt được mục tiêu đó tôi đã thực hiện các giải pháp sau:
                                                   Trang 10                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
b.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
b.1.Ra đề:

     Trước đây, tất cả các giáo viên Ngữ  văn đều phải ra đề, lập đáp án biểu 
điểm chấm mới thấy được cái khó của việc ra đề  tập làm văn.Ra được một 
đề văn không có gì sai sót là việc đã khó rồi, tự mình lập một đáp án chính xác 
và lập biểu điểm chấm cho đúng với trình độ của học sinh mình lại càng khó 
hơn. Đó là cái khó của một thời ít các loại sách dàn bài, sách những bài văn 
mẫu, các bộ đề.
     Ngày nay, các nhà sách bán nhan nhản các loại sách ra đề, có đáp án sẵn,  
giáo viên chỉ cần dựa vào đề và đáp án có sẵn để ra đề và đánh giá học sinh.  
Làm như vậy rất thuận tiện cho giáo viên và đỡ được bao nhiêu công sức của 
giáo viên. Nhưng có lẽ  chúng ta cần xem xét lại vì tôi thiết nghĩ: Việc giáo 
viên tự  ra đề  dựa trên thực tiễn học sinh của mình, dựa vào yêu cầu của  
chương trình, hoàn cảnh dạy và học theo đúng hoàn cảnh vùng miền, từ  tình  
hình chính trị, văn hóa xã hội… Để  ra một đề  văn rồi xây dựng đáp án biểu  
điểm chấm thích hợp sẽ có tác dụng bổ ích về nhiều mặt cho  giáo viên học  
sinh .
    Ví dụ:Thay vì những có sẵn về văn thuyết minh như: “Cây lúa Việt Nam”,  
“Chiếc nón lá việt Nam” , “Tà áo dài Việt Nam”… Giáo viên  huyện Krông  
Nô có thể ra đề : “Cây cà phê trên quê hương Đăk Nông” thật gần gũi và bổ 
ích cho cả giáo viên lẫn học sinh.
    Tiếc rằng đến nay số giáo viên tự ra đề Tập làm văn không nhiều. Bởi hầu 
hết chúng ta chỉ chú ý đến sự  tiện lợi, đỡ  mất thời gian trong khâu ra đề  mà 
quên mất rằng : Ra đề  là một thước đo năng lực văn chương, năng lực sư 
phạm và trình độ  nhiều mặt khác của người giáo viên Ngữ  văn” (Giáo sư 
Phan Trọng Luận).

                                                   Trang 11                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  

    Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến trong hội nghị đổi mới phương pháp dạy  
học văn và những vấn đề  bức thiết về  dạy Tập làm văn  ở  bậc Trung học: 
“Đã đến lúc người giáo viên cần nhận thức rõ : “Ra đề cho học sinh làm bài là 
một khâu hết sức quan trọng cần được tiến hành một cách nghiêm túc và có 
tính toán kĩ”.
    b.2. Yêu cầu của việc ra đề Tập làm văn: 
      “Cần đảm bảo tính tư  tưởng, tính khoa học, tính sư  phạm và vừa sức ,  
xuất phát từ  kiến thức trung bình trong sách giáo khoa và trình độ  trung bình 
của học sinh trong từng lớp.Tránh tình trạng ra đề mà nhiều học sinh bị điểm 
dưới trung bình.”
      ­ Ra đề Ngữ văn phải kiểm tra được học sinh về các kĩ năng sau:
          + Kĩ năng sử  dụng ngôn từ: dùng từ, đặt câu, lựa chọn ngữ  liệu, sử 
dụng dấu câu.
        + KĨ năng văn học: Bài làm của học sinh là kết quả cụ thể của việc học  
tập văn học ( các tiết văn bản) và ngôn ngữ ( các tiết tiếng Việt) của học sinh  
cũng chính là kết quả  cuối cùng để  đánh giá kết quả  học tập môn Ngữ  văn. 
Muốn vậy, đề phải đạt những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Đề Tập làm văn trước hết phải có tính tư tưởng: 
   Đề làm văn trước hết phải giáo dục cho  học sinh một điều gì đó trong cuộc  
sống. Đối với văn miêu tả, kể chuyện vấn đề không chỉ là tả cái gì, kể cái gì?  
Mà quan trọng hơn là tả nhằm mục đích gì? Kể nhằm mục đích gì? Mục đích  
phải nằm ngay trong điều mà các em tả, trong câu chuyện mà các em  kể. Đối 
với văn nghị luận cũng vậy:  Mục đích về tư tưởng phải nằm ngay trong vấn  
đề ra cho các em nghị luận.
    Muốn vậy cần ra những đề gắn liền với những sự việc, hiện tượng mà các  
em gần gũi, những câu chuyện mà các em thấy và nghe được; những vấn đề 

                                                   Trang 12                     



Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
văn học, chính trị  , xã hội có tính giáo dục các em về  lòng yêu tổ  quốc, yêu 
quê hương , yêu đồng bào, yêu bạn bè….
    Lưu ý: Tính tư  tưởng của bài phải phù hợp với nội dung cần tả, cần kể 
hoặc cần nghị luận, không có tính chất gò ép.
­ Tính tư tưởng cũng cần gắn với đời sống của các em trong hoàn cảnh 
đất nước hiện nay.
      Ví dụ: Ra đề  miêu tả, mục đích miêu tả  cần nằm ngay trong đối tượng 
được lựa chọn miêu tả. Thường là cảnh, vật, con người… tươi vui, đẹp đẽ, 
đáng yêu, đáng mến:
           “Tả một người thầy(cô) giáo mà em yêu quý”.
           “Tả một người thân yêu trong gia đình”.
 “Tả cảnh ngôi trường em đang học”.
            “Tả cảnh bình minh trên quê hương em vào một buổi sáng đẹp trời”.
Ra đề kể chuyện:
        “Kể lại một việc làm tốt của em hoặc bạn em.”
        “Kể lại một buổi sinh hoạt lớp đầy ý nghĩa”.
        “Kể lại niềm vui của em trong ngày khai trường”.
Kể cả những chuyện tưởng tượng cũng cần lưu ý dến tính tư tưởng :
         “Cái bàn tự kể lại cuộc đời phục vụ các bạn học sinh học tập tốt”.
         “Chiếc khăn quàng tự kể về cuộc đời mình”.
Ra đề thuyết minh:
 “Cây bút nhỏ bé mà thật tiện ích. Hãy thuyết minh về cây bút”.
            “ Cây cà phê trên quê hương Đắk Nông”.
 Ra đề nghị luận:
        “ Hãy phân tích một tác phẩm văn học mà em yêu thích”.

                                                   Trang 13                     



Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
                 “ Một hiện tượng khá phổ  biến hiện nay là vứt rác ra đường hoặc  
những nơi công cộng làm  ảnh hưởng tới môi trường. Em hãy đặt một nhan 
đề cho hiện tượng ấy và viết bài văn nêu suy nghĩ của mình”.
Thứ 2: Đề Tập làm văn phải có tính khoa học:
* Về nội dung: 
     Vấn đề mà đề bài nêu ra phải cụ thể , phạm vi giới hạn vấn đề  phải rõ 
ràng. Ngoài ra, vấn đề của đề bài còn phải phù hợp với thể loại văn. (Đối với 
đề miêu tả cần phải nêu rõ tả cái gì? Ở đâu? Lúc nào? Đối với văn kể chuyện 
phải nêu rõ kể việc gì? Của ai? Lúc nào? Ở  đâu?. Đối với văn thuyết minh :  
thuyết minh đối tượng nào? Yêu cầu thuyết minh là gì? Đối với văn Nghị 
luận phải nêu rõ: Nghị  luận vấn đề  gì? Phạm vi nghị  luận (Vấn đề  đưa ra 
nghị luận của tác giả nào?Ở sách nào hay ở đâu? Vấn đề nghị luận thuộc lĩnh 
vực nào trong đời sống?...)
*Về hình thức: 
    Từ ngữ trong đề bài phải chọn lọc, trong sáng, dễ hiểu, tránh dùng những 
từ  ngữ  chung chung mơ  hồ  làm học sinh dễ  bị  hiểu lầm. Kết cấu câu văn  
phải rõ ràng, đúng ngữ pháp và không được sai chính tả. Nếu có xuất xứ (đối 
với bài văn nghị  luận ) thì phải tra cứu cẩn thận, không được ghi vào đề 
những điều mà giáo viên chỉ nhớ mang máng, thiếu xác thực.
Thứ 3: Đề Tập làm văn phải có tính sư phạm và tính vừa sức:
  Đầu tiên, đề Tập làm văn phải gây hứng thú cho học sinh. Điều đó thể hiện 
trước hết trong nội dung đề  bài. Đó là nội dung vừa nâng cao vốn hiểu biết,  
vốn sống cho học sinh, vừa phát triển tư duy, giáo dục thẩm mĩ, tư tưởng cho 
các em.
   Một đề  văn có tính sư  phạm cao còn thể  hiện  ở  chỗ  nó phù hợp với vốn  
hiểu biết, vốn sống, vốn ngôn ngữ sẵn có của học sinh.Trước đề bài học sinh  
tự thấy nếu mình cố gắng làm bài thì có thể làm được bài hay.

                                                   Trang 14                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
  Một đề  văn vừa sức cần thể  hiện: đúng trọng tâm chương trình, sát đối 
tượng học sinh, vừa với mức độ  trung bình thực học của học sinh trong từng 
lớp,  ở  từng thời gian cụ  thể: Kết hợp kiểm tra hiểu biết với khả năng vận  
dụng kiến thức, gắn với đời sống xã hội và tâm lí lứa tuổi….
             Một đề  văn vừa sức học sinh cũng là đề  văn được diễn đạt sáng rõ, 
ngắn , không thừa ý, thừa lời, không tạo sự hiểu lầm làm học sinh xa đề, lạc 
đề khi làm bài.
      Một đề văn có tính sư phạm còn thể hiện ở chỗ nó tạo điều kiện cho học  
sinh sáng tạo, thể hiện cá tính của mình chứ không phải chép nguyên văn bài 
văn đã có sẵn.
       Không ra những đề  quá tầm suy nghĩ của các em, khiến các em phải có 
những suy nghĩ già trước tuổi ( nhất là văn nghị luận).
b.3. Hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu đề, tìm ý để định hướng cho học  
sinh: 
        ­ Tìm hiểu đề: Trước hết phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu thể, loại  
văn của đề. Thường thường, người ra đề  nêu yêu cầu về  loại, thể một cách  
trực tiếp nhưng đôi khi người ra đề  yêu cầu một cách gián tiếp, học sinh sẽ 
lúng túng nếu không được hướng dẫn.
 Ví dụ: Với văn miêu tả không nhất thiết phải cứ nêu rõ: “Hãy tả lại..” mà “  
Hãy ghi lại những điều quan sát của em về cảnh vật trên”, hoặc “ Cảnh vật 
trên đã hấp dẫn em như thế nào?”
       ­ Xác định nội dung cơ bản của đề: Đây là việc quan trọng nhất trong quá 
trình tìm hiểu đề. Nội dung cơ bản của đề  thường thể  hiện trong một số  từ 
ngữ quan trọng, cần được đặc biệt chú ý. Học sinh cần tự hỏi: Đề yêu cầu tả 
cái gì? Kể  cái gì? Thuyết minh về cái gì? Nghị  luận vấn đề  gì? Từ  ngữ  nào 

yêu cầu kể, tả, thuyết minh, nghị luận đó?
 Ví dụ: Đề ra: “Hãy tả lại vườn cà phê vào mùa hoa nở rộ”
                                                   Trang 15                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
     Trong đề  văn này có hai ý: Đối tượng miêu tả( vườn cà phê), thời điểm 
miêu tả (khi mùa hoa nở rộ).
      ­ Xác định giới hạn đề: hiện nay, học sinh chưa có thói quen tìm hiểu đề 
một cách tỉ mỉ.Trước một đề văn, các em thường có thái độ coi thường cho là  
đề dễ, hoặc hoảng sợ cho là đề khó. Nhất là văn nghị luận, các em có thể tìm 
được luận điểm chính song khi phân chia luận điểm thành các luận cứ  với 
mối quan hệ giữa các luận cứ, các em lúng túng do không nắm chắc, giới hạn 
phạm vi vấn đề.
 Đề miêu tả thường giới hạn về mục đích miêu tả,phạm vi nội dung miêu tả,  
về không gian và thời gian miêu tả….
 Đề kể chuyện thường giới hạn nhân vật, tình tiết, mục đích…
  Đề  thuyết   minh  thường  có  giới hạn  về  vấn  đề  thuyết  minh,  đối tượng 
thuyết minh, mục đích thuyết minh…
 Đề  Nghị  luận thường giới hạn vấn đề  nghị  luận, đối tượng nghị  luận, nội 
dung nghị luận, mục đích nghị luận.
 Nắm chắc phạm vi giới hạn của đề, học sinh sẽ  không bị  xa đề  một cách  
đáng tiếc.
­ Tìm ý: Phương pháp tự  đặt câu hỏi và tự  trả  lời là phương pháp tìm ý tốt  
nhất.
     Ví dụ: Đối với văn miêu tả  : nên quan sát đối tượng miêu tả  theo trật tự 
nào? ( Trên xuống? Dưới lên? Hay từ xa đến gần?)
   Theo từng trật tự quan sát ta thấy có những chi tiết nào?  Chi tiết nào đáng 
chú ý nhất?  Chi tiết có hình dáng , màu sắc , âm thanh gì? Nó diễn tả điều gì?  

Dùng từ ngữ, cách so sánh nào để diễn tả chi tiết đó?.....
     Đối với văn kể chuyện: Câu chuyện cần có sự việc gì? Có nhân vật nào? 
Sự  việc, nhân vật chính nào? Cần sắp xếp theo thứ  tự sự việc của các nhân  

                                                   Trang 16                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
vật như thế nào để câu chuyện hấp dẫn? Cần mở đầu và kết thúc câu chuyện 
ra sao?...
   Sau khi tìm ý xong giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp các ý thành dàn ý,  
để từ đó viết thành bài văn dựa trên dàn ý đã có. Đến đâ, điều chủ yếu là tập 
cho học sinh viết đúng chính tả, dùng từ, đặt câu, dùng dấu câu cho đúng và 
cho thích hợp với từng thể, loại văn.
Trong khâu diễn đạt, cần luyện cho học sinh biết chấm xuống dòng, biết 
dùng từ ngữ chuyển đoạn , biết sơ kết đoạn, ý. Đặc biệt đối với phần mở bài  
và kết bài yêu cầu học sinh viết nháp thành văn trước khi viết vào bài)
     Cuối cùng là hướng dẫn các em đọc, kiểm tra lại bài viết của mình. Yêu  
cầu học sinh dành khoảng 10 phút để thực hiện khâu này. Đây là khoảng thời  
gian cần thiết giúp các em  xem lại nội dung, chính tả, cách dùng từ, đặt câu 
để  kịp thời chỉnh sửa, bổ  khuyết trước khi nộp bài. Rất nhiều học sinh coi  
thường, bỏ  qua khâu này nên sau khi nộp bài, trong bài làm của các em vẫn  
còn đầy rẫy lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu, dấu câu…
         Lưu ý: Phần hướng dẫn học sinh làm bài giáo viên chỉ   nên làm trong 
khoảng thời gian từ  5 đến 7 phút, còn lại dành thời gian cho học sinh chủ 
động làm bài.
b.4. Chấm bài:
     Chấm bài là để  phát hiện những  ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, 
đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời vạch phương hướng  

phấn đấu cho học sinh trong mỗi bài làm của các em.
   Trong thực tế, nhiều giáo viên chưa thật sự đầu tư thời gian và tâm sức vào  
việc chấm bài, chấm qua loa và thiếu chuẩn xác:
        ­ Chấm bài theo cảm tính, điểm  thiếu chính xác, do không có đáp án và 
biểu điểm chấm bài cụ thể.

                                                   Trang 17                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
         ­ Chấm bài thiếu chính xác do không đọc kỹ, thiếu tôn trọng kết quả,  
công sức làm bài của học sinh . Có khi chỉ  đọc mở  bài, kết bài, liếc sơ  qua 
phần thân bài rồi cho điểm.
        ­ Nhận xét bài làm của học sinh qua loa đại khái, đôi khi không nhận xét 
chỉ cho điểm. Nhiều giáo viên còn viết tắt, viết láu trong phần lời phê và bỏ 
qua phần gạch lỗi trong bài làm của học sinh( Đến lỗi chính tả  cũng không 
gạch chân…)
   Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của giáo sư  Phan Trọng Luận: “ Để  khắc 
phục tình trạng chấm bài chưa tốt phải đi từ những vấn đề có ý nghĩa lí luận.  
Trước hết phải bàn đến quan điểm, thái độ  ứng xử  của nhà giáo đối với bài 
làm của học sinh. Thường thường giáo viên chỉ thấy bài làm như một kết quả 
học tập của học sinh phải nộp cho giáo viên với nghĩa vụ là học trò . Và giáo 
viên có nghĩa vụ  chấm bài đó. Trong khi đó bài làm của các em là một sản 
phẩm lao động, một sản phẩm sáng tạo cực nhọc của các em. Tiếp xúc với 
bài làm của các em là tiếp xúc với một tiếng nói, một con người, đằng sau các 
dòng chữ các em đang hồi hộp chờ mong từng giâ, từng phút, từng giờ, thầy 
cô giáo công bố  kết quả  lao động của mình. Với một cách nghĩ như  vậy về 
học sinh,   giáo viên khi chấm bài sẽ  có được một thái độ   ứng xử  đẹp đẽ,  
đúng đắn trước mọi điều hay dở  trong bài làm của học sinh. Nên trân trọng 

tìm tòi, cảm thông từng sai sót, vừa nghiêm khắc vừa độ  lượng trước từng  
khuyết điểm của học sinh….Thiếu cảm thông trân trọng là điều cần tránh, 
đồng thời cần tránh thái độ  gò ép cách suy nghĩ của giáo viên cho học sinh. 
Giáo viên phải đọc kỹ, lắng nghe, tìm từng chữ, từng lời, từng ý của học sinh  
trên bài làm. Không nên lấy cách nghĩ của mình để gạt bỏ phê phán học sinh. 
Cần trân trọng những ý nghĩ độc đáo của học sinh để  biểu dương , khuyến  
khích… Tình trạng không hiểu học sinh, không thông cảm với học sinh, thiếu  
trân trọng người làm bài văn nhiều khi đã tạo ra một thói quen quá khắt khe 

                                                   Trang 18                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
trong đánh giá… Giáo viên thường lấy mình làm chuẩn để phán xét những bài  
văn của học sinh, lấy tư duy mình để đánh giá cách suy nghĩ của học sinh, lấy 
ngôn ngữ mình để đòi hỏi học sinh, khiến học sinh xa cách với giáo viên, ngại  
công việc làm văn trong nhà trường”.
 Do đó , khi chấm bài, giáo viên cần lưu ý một số việc như sau:
       Thứ  nhất: Phải có thái độ  đúng đắn với bài làm học sinh. Phải coi bài 
làm của học sinh dù là học sinh yếu cũng là kết quả lao động sáng tạo của các 
em, trong đó thể  hiện những nét cá biệt về  tâm hồn,hiểu biết của từng em 
học sinh. Sự đánh giá đúng sẽ làm cho các em phấn khởi tin tưởng ở việc học  
của mình mà cố gắng vươn lên.
      Thứ hai: Phải chuẩn bị tốt đáp án và biểu điểm ( tiêu chuẩn cho điểm).  
Nếu giáo viên chuẩn bị  tốt tiêu chuẩn cho điểm thì việc chấm sẽ  nhanh và 
chính xác . Tiêu chuẩn chấm Tập làm văn là phải căn cứ vào yêu cầu của đề 
bài vào trình độ  của học sinh. Vì vậy trước khi làm biểu điểm chấm, giáo  
viên cần nghiên cứu kỹ đề bài rồi đặt ra tiêu chí cho hai mặt của bài làm: Nội  
dung của bài làm ( kiến thức cần đạt) hình thức bài làm của học sinh ( chính 

tả, dùng từ, đặt câu, bố cục, trình bày..). Từ đó mới vạch ra yêu cầu của từng  
thang điểm. Nếu giáo viên nào kỹ lưỡng  thì nên đọc lướt một số bài làm của  
học sinh trước khi làm thang điểm chấm bài trong biểu điểm. Vì biểu điểm 
càng sát với tình hình thực tế  bài làm của học sinh bao nhiêu càng dễ  chấm  
bấy nhiêu.
   *  Kỹ thuật chấm bài:
 Biết chấm chưa đủ, còn phải biết chấm như thế nào? 
Thứ  nhất: Phát hiện  ưu điểm và phát hiện lỗi trong bài làm của học 
sinh.
   Chấm văn thì không thể đọc lướt qua mà đọc kỹ  từ  đầu đến cuối bài văn.  
Có thế, giáo viên mới phát hiện được từng lời hay, ý đẹp, từng cách trình bày 
                                                   Trang 19                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
diễn đạt tốt cũng như  từng lỗi về nội dung kiến thức đến lỗi hình thức như 
sai chính tả, dùng từ đặt câu…
   Việc phát hiện để tuyên dương những ưu điểm trong bài làm của học sinh:  
Các em có ý văn hay, nội dung sáng tạo hay cách dùng từ  đặt câu độc đáo, 
cách lập luận sắc sảo, cách xây dựng hình  ảnh sinh động.. . cần được thể 
hiện rõ trong bài chấm để  kịp thời động viên các em trong quá trình làm bài 
tập làm văn.
    Bên cạnh đó là việc chữa lỗi cho học sinh gồm các khâu: Phát hiện lỗi, nêu  
tên lỗi, giúp học sinh chữa lỗi ( Trong tiết trả bài sau).
    Cần chú ý là không nên sửa lỗi ngay trong bài làm của học sinh ngay cả với  
lỗi chính tả.
   Muốn làm tốt phần này, giáo viên cần có một hệ  thống ký hiệu chấm bài 
( Được quy  ước thống nhất giữa giáo viên với học sinh ngay từu đầu năm 
học). Việc đặt ra kí hiệu chấm văn nhằm tiết kiệm thời gian cho giáo viên . 

Mặt khác, ký hiệu còn gúp cho giáo viên tổng kết một cách nhanh chóng và  
khoa học tình hình mắc lỗi của học sinh để đưa vào bài soạn của tiết trả bài.  
Vì vậy kí hiệu cần có tính khoa học: gọn, giá trị biểu thị rõ.
  Ví dụ: Gạch chân dưới chữ viết: Ký hiệu sai chính tả, gạch hai gạch dưới  
từ dùng rồi ghi ngoài lề chữ  “dt”: Ký hiệu lỗi dùng từ, “dđ”: Ký hiệu lỗi diễn  
đạt, gạch chéo trên chữ: Ký hiệu lỗi dư từ, khoanh tròn chữ cái : Ký hiệu lỗi  
viết tắt, viết hoa sai quy định, đánh dấu ngoặc ngoài lề  rồi ghi “ý hay” hoặc 
“đạt”: Ký hiệu nội dung viết  tốt hoặc diễn đạt hay đáng khen.
* Lưu ý: Giáo viên chỉ  được dùng ký hiệu ( viết tắt ) trong quá trình chấm  
trong bài làm của học sinh còn khi ghi lời phê không được viết tắt, không 
được dùng kí hiệu.
    Chấm bài chính là vấn đề  chuẩn bị  một cách khoa học cho việc soạn tiết  
trả bài và tiến hành trả bài cho học sinh sau đó. Nếu không kết hợp một cách  
                                                   Trang 20                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
khoa học cho việc chấm bài và chuẩn bị  trả  bài cho học sinh thì giáo án trả 
bài sẽ  hết sức sơ  sài, bỏ  sót nhiều  ưu khuyết điểm của học sinh, kém tính 
khái quát, dẫn đến giờ trả bài trở nên khô khan hình thức thậm chí trở nên vô  
bổ đối với học sinh.
    Để lưu lại những ưu khuyết điểm trong bài làm của học sinh đưa vào giáo 
án tiết trả  bài, trong quá trình chấm bài, giáo viên nên có một quyển sổ  tổng 
hợp các  ưu khuyết điểm, ghi lại những lỗi chính tả, lỗi dùng từ, diễn đạt… 
điển hình để tiện cho việc chữa lỗi trong tiết trả bài cho học sinh.
Thứ hai: Việc ghi lời phê trong bài làm của học sinh:
   Chấm bài xong phải ghi nhận xét trong phần “ lời phê” trước khi ghi điểm. 
Lời phê vừa biểu dương khen ngợi những mặt tốt, vừa chỉ ra những thiếu sót 
chính trong bài làm của học sinh. Cần tránh những nhận xét quá chung chung, 

ít bổ ích cho học sinh. Cũng nên tránh những lời phê không khích lệ được học  
sinh.
    Do đó, lời phê cần chu đáo thiết thực với học sinh. Lời phê cần đạt một số 
yêu cầu sau:
­ Khoa học: Đánh giá đúng,cụ thể những ưu khuyết điểm riêng của bài  
làm bằng những câu nhận xét ngắn gọn, đủ ý nghĩa…
         Hình thức, câu chữ  phải ngay ngắn, rõ, đẹp: Câu văn ngắn gọn nhưng  
không được sai ngữ pháp ,chính tả, cách dùng từ.
­Tư  tưởng : Nghiêm khắc, đúng mực nhưng vẫn động viên được các 
em học sinh    
* Có thể phê theo trình tự sau:
+ Nhận xét tổng quát về ưu, khuyết điểm( nội dung, hình thức).
+ So sánh sự tiến bộ so với bài trước.
+ Vạch hướng phấn đấu trước mắt để học sinh cố gắng trong bài tiếp theo.

                                                   Trang 21                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
 Giáo sư  Phan Trọng Luận từng nói: “ Xem lời phê có thể  đoán được người  
dạy văn đó như thế nào”. Do đó, giáo viên Ngữ văn chúng ta cần hết sức lưu  
ý trong việc ghi lời phê cho học sinh. Nên nhớ rằng những lời phê này không  
chỉ  đánh giá sự  tiến bộ  trong quá trình học Ngữ  Văn của các em mà sẽ  theo 
các em, lưu dấu  ấn trong cuộc đời học sinh của các em. Và đôi khi những lời  
phê  ấy  không phải chỉ  có học sinh đọc mà còn cả  cha mẹ  các em và những 
người khác nữa cùng đọc, cùng suy ngẫm.
Thứ ba: Việc ghi điểm:
     Lời phê rất quan trọng nhưng “điểm” lại có sức hấp dẫn học sinh ( kể cả 
học sinh lớn như học sinh lớp 8, 9). Điểm phải tương ứng với lời phê, không 

thể lời phê tốt mà lại điểm yếu hay ngược lại ngược lại lời phê không tốt mà 
lại đạt điểm cao.
     Phải cho điểm dứt khoát không nên kí hiệu (­) hay (+).
     Không nên chữa đi chữa lại điểm đã cho.
     Cần bỏ thói quen e ngại việc cho điểm tối đa ( thang điểm 9 hoặc 10) vì 
đọc kỹ   những yêu cầu trong thang điểm tối đa của bài Tập làm văn, không 
bao giờ yêu cầu bài làm của học sinh phải tuyệt đối hoàn hảo.
b.5. Trả bài:
    Giờ  trả  bài Tập làm văn có thể  nói là một giờ  hết sức quan trọng. Đây là  
giờ  giáo viên thấy rõ được kết quả cụ  thể giảng dạy của mình về  một loại  
văn, cũng là giờ mà người giáo viên phải có trách nhiệm, phải tập trung uốn  
nắn những  yêu cầu chưa đạt cho học sinh đối với thể  văn đó. Đây cũng là  
giờ  mà giáo viên có thể  phát huy tính chủ  động, tích cực của học sinh trong  
việc tham gia xây dựng dàn ý và sửa lỗi.
     Thế nhưng hiện nay giờ trả bài, so với các giờ khác có lẽ giờ trả bài lại là 
giờ hiệu quả kém nhất,  giáo viên thực hiện tùy tiện nhất, học sinh làm việc  
uể oải nhất. Hầu như giáo viên trả bài không theo một hệ thống nào cả, trúng 
                                                   Trang 22                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
bài nào nhận xét bài dó, có giáo viên chỉ tập trung cho học sinh lập dàn ý mà  
không nhận xét một cách cụ thể, không cho học sinh sửa lỗi, trong khi đó lời  
phê lại rất chung. Kết quả là học sinh chẳng nắm được ưu, khuyết điểm cụ 
thể trong bài làm của mình là gì để  biết hướng sửa chữa và tiến bộ. Các em  
chỉ ngồi chờ giáo viên phát bài, xem mình được điểm mấy để  mà buồn hoặc 
vui. Một số giáo viên cho học sinh làm bài trên giấy không chịu đính lại thành 
tập. Còn có tình trạng học sinh xé bài làm, vứt bài bị  điểm xấu một cách vô 
thức. Phần  lớn là do giờ trả bài chưa làm trọn yêu cầu của nó. Muốn trả bài 

tốt cần thực hiện hai khâu:
Khâu thứ nhất: Chuẩn bị cho giờ trả bài:
      Giáo viên chuẩn bị  nội dung cho tiết trả bài thật tốt trên giáo án( tiết trả 
bài) với các mục đích sau:
a. Mục tiêu cần đạt
b.  Xác định lại yêu cầu của đề bài( xây dựng dàn bài)
  c.  Khái quát ưu, nhược điểm của bài làm với những dẫn chứng điển hình.
  d. Các lỗi  điển hình cần sửa chữa ( lưu tên học sinh phạm lỗi cụ thể ở từng  
phần  để nhận xét).
 e. Bài văn hay ghi rõ bài của em nào, lớp nào.
     Các  ưu và khuyết điểm, các lỗi hình thức về  chính tả, dùng từ  đặt câu..  
trong quá trình chấm, giáo viên chịu khó lưu vào một quyển sổ riêng, giúp giáo 
viên tổng hợp và hệ  thống lại trong bài soạn một cách nhanh chóng, chính 
xác, không mất thời gian lục lại bài làm của học sinh ( Vừa mất thời gian vừa 
không hiệu quả).
 Khâu thứ hai:Trả bài trên lớp:
     Từ giáo án đã soạn, giáo viên có thể trả bài theo trình tự sau:
a. Giáo viên ghi lại đề trên bảng, học sinh  ghi lại đề vào vở.

                                                   Trang 23                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
b. Giáo viên yêu cầu học sinh xác định lại yêu cầu của đề  bài, xây dựng dàn 
bài( lưu ý: phần này chỉ làm từ 5 đến 7 phút).
   Giáo viên nhận xét  ưu khuyết điểm, nêu dẫn chứng điển hình ( giáo viên  
tổng kết bài làm của học sinh về mọi mặt: tinh thần bài làm, những ưu điểm  
chính, những cá nhân đáng biểu dương, những câu văn hay, những hiện tượng  
đáng chú ý…)

       ­ Giáo  viên hướng dẫn học sinh sửa lỗi: chính tả, dùng từ, đặt câu, diễn  
đạt…( thuộc những lỗi điển hình trong thực tế bài làm của học sinh)
      ­ Hướng dẫn học sinh về nhà sữa những lỗi còn lại trong bài làm mà giáo  
viên đã nhận xét, đánh dấu ( yêu cầu sửa bằng bút chì).
d. Phát bài, cho học sinh hỏi trực tiếp giáo viên về  bài làm của mình, kể  cả 
thắc mắc về số điểm.
đ. Công bố  tỉ  lệ  điểm, động viên, khích lệ  học sinh làm bài chưa được, có 
điểm   kém.   Tuyên   dương   khen   ngợi   những   bài   làm   tốt,   cho   học   sinh   đọc  
những bài văn hay.
        Điều cần chú ý khi trả bài Tập làm văn là làm thế nào cho học sinh tích 
cực tham gia xây dựng trả bài, mạnh dạn nêu ý kiến và xung phong chữa lỗi,  
tránh tình trạng học sinh chỉ  mong ngóng, xem điểm mà không quan tâm gì 
đến việc xây dựng dàn ý và sửa chữa lỗi, kể cả lỗi trong bài làm của mình.
c. Điều kiện thực hiện các giải pháp, biện pháp: 
   Bất kì một  công việc nào muốn thành  công con người ta phải có tâm huyết  
phải có ý chí nghị lực. Do đó để công việc ra đề ­ chấm ­ trả bài Tập làm văn  
có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên Ngữ  văn phải có tâm huyết, có trình độ 
chuyên môn vững chắc, thường xuyên học hỏi và trau dồi chuyên môn nghiệp 
vụ    cho bản thân mình. Bằng tâm huyết,   bằng trình độ  của mình hãy khơi 
dậy trong học sinh niềm say mê, sự  hứng thú đối với mỗi giờ  học văn.Để 
mỗi bài viết văn của các em không chỉ  là nơi thể  hiện sự  tiếp thu kiến thức 
                                                   Trang 24                     


Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về  việc ra đề  ­ chấm­ trả  bài Tập làm  
văn                                  
mà còn là nơi bồi dưỡng những phẩm chất, tâm hồn, tình cảm tốt đẹp cho các 
em.
2.4. Kết quả thu được:
    Qua thực tế nghiên cứu giảng dạy, rút kinh nghiệm,tôi nhận thấy: Khi thực  

hiện đúng yêu cầu của việc ra đề ­ chấm ­ trả bài như tôi đã trình bày ở trên ,  
kết quả chất lượng bài viết Tập làm văn của học sinh tiến bộ rõ rệt qua từng  
bài viết:
                                           Bài viết số 1.
Số lượng 
học sinh 
100

Điểm giỏi
2%

Điểm 
khá 
9%

Điểm   trung  Điểm yếu
bình
45%
34%

Điểm kém
10%

                     
                                                Bài viết số 2.
Số lượng 
học sinh 
100

Điểm giỏi

5%

Điểm 
khá 
15%

Điểm   trung  Điểm yếu
bình
47%
25%

Điểm kém
8%

                                            
                                                Bài viết số3.
Số lượng 
học sinh 
100

Điểm giỏi
10%

Điểm 
khá 
20%

Điểm   trung  Điểm yếu
bình
50%

15%

Điểm kém
5%

    ­ Thái độ của học sinh  qua các tiết trả bài:
+ Ở tiết trả bài số 1: Đa số học sinh không quan tâm đến việc nhận xét 
ưu khuyết điểm trong bài làm mà giáo viên nêu ra: chỉ  mong ngóng chờ  phát  
bài, xem điểm.

                                                   Trang 25                     


×