LỜI NĨI ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hồ vào q trình hội nhập kinh tế của đất nước, ngành
du lịch non trẻ của Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ. Từ năm
1990 trở lại đây du lịch đã có bước phát triển khá mạnh, đem lại lợi ích kinh tế đáng
kể. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, năm 1990 doanh thu của Du lịch Việt Nam
mới chỉ đạt con số là 2.180 tỷ đồng thì năm 2002 con số này đã là 23.500 tỷ đồng. Du
lịch đã mang lại cho nền kinh tế quốc dân năm 2001 là 1,4 tỷ USD bao gồm các
khoản thu trực tiếp của Tổ chức Du lịch và các ngành có liên quan. So với năm 1990
số du khách quốc tế tăng 9 lần, còn du khách nội địa tăng hơn 10 lần. Với tốc độ phát
triển trung bình hằng năm đạt ở mức hai con số, ngành du lịchViệt Nam dã và sẽ tiếp
tục có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Với những tiềm năng phát triển vô cùng to lớn, thực tế ngành du lịch Việt Nam
đang có những bước tiến mạnh mẽ và khá hiệu quả: thu nhập từ du lịch không ngừng
tăng lên, Việt Nam đang ngày càng được biết đến rộng rãi và đang được xem là một
điểm đến an toàn và thân thiện. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, hoạt động
kinh doanh du lịch của Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm
năng sẵn có. Vẫn cịn đó những hạn chế và trở ngại: vấn đề thiếu vốn đầu tư, công tác
quy hoạch chưa đạt tới sự đồng bộ và tính dài hạn, đội ngũ nhân lực du lịch còn thiếu
và yếu, chưa chú trọng đúng mức tới vấn đề phát triển du lịch bền vững... Để du lịch
Việt Nam thực sự phát triển và hội nhập, một đòi hỏi tất yếu đặt ra là phải tìm cách
khắc phục một cách có hiệu quả mọi trở ngại nói trên, đồng thời phải khai thác bền
vững những thế mạnh vốn có. Mặt khác, vào tháng 3/2003 vừa qua, dịch bệnh đường
hô hấp cấp SARS bùng phát đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt
động kinh doanh du lịch không chỉ của Việt Nam mà của cả thế giới. Cho tới thời
điểm này (11/2003) Việt Nam cũng như nhiều nước khác vẫn đang đang phải nỗ lực
phục hồi lại hoạt động kinh doanh du lịch của nước mình. Qua đại dịch SARS chắc
chắn đã đặt ra cho ngành du lịch Việt Nam thêm những vấn đề mới, địi hỏi phải có
sự nhìn nhận thấu đáo và toàn diện hơn để tiếp tục phát triển đạt hiệu quả theo hướng
hội nhập.
1
Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài “Hoạt động kinh doanh du lịch Việt Nam
thời kỳ hậu SARS: tình hình khắc phục và một số kiến nghị để tiếp tục phát triển
theo xu hướng hội nhập” đã được tác giả lựa chọn làm khóa luận tốt nghiệp trên cơ
sở nhận thức được sự cần thiết và ý nghĩa thực tiễn của vấn đề.
2- Mục đích nghiên cứu của Khố luận
-
Đánh giá thực trạng của ngành du lịch Việt Nam thời kỳ tiền SARS (1990 2002)
-
Đánh giá tình hình khắc phục những hậu quả do dịch bệnh SARS (tháng
3/2003) để lại cũng như kết quả hoạt động kinh doanh du lịch đến tháng
12/2003.
-
Đưa ra những giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm thúc đẩy ngành du
lịch Việt Nam tiếp tục phát triển hiệu quả và bền vững theo xu thế hội nhập.
3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ chương trình “Năm du lịch Việt Nam” do ngành du lịch phát
động vào năm 1990 được xem như là sự đánh dấu mở đầu cho thời kỳ phát triển mới
của du lịch Việt Nam theo hướng đổi mới và hội nhập, khoá luận tập trung nghiên
cứu hoạt động kinh doanh du lịch Việt Nam nói chung giới hạn trong giai đoạn từ
năm 1990 cho tới nay.
4- Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp, các
phương pháp của khoa học thống kê, nghiên cứu tài liệu, đồng thời có sự kế thừa một
số kết quả nghiên cứu của những người đi trước để giải quyết các vấn đề nghiên cứu
đặt ra.
5- Bố cục của Khố luận
Ngồi lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo nội dung của khoá luận gồm 3
chương:
Chương I : Tổng quan về hoạt động du lịch. Chương này trình bày những
khái niệm cơ bản về du lịch và nêu ra một số nét chính về hoạt động du lịch trong khu
vực cũng như trên thế giới.
2
Chương II : Tiềm năng du lịch Việt Nam và thực trạng của ngành du lịch
sau dịch bệnh SARS. Đánh giá tiềm năng, thực trạng của du lịch Việt Nam trước và
sau khi diễn ra dịch bệnh SARS, đồng thời nêu lên những vấn đề lớn cần khắc phục
của ngành.
Chương III : Các giải pháp và kiến nghị để du lịch Việt Nam tiếp tục phát
triển theo xu hướng hội nhập. Đề xuất một số giải pháp cho sự phát triển của du
lịch Việt Nam trong thời gian tới trên cơ sở hệ thống những quan điểm, định hướng
và mục tiêu phát triển du lịch của Đảng và chiến lược phát triển của ngành đến năm
2010.
Do hạn chế về kiến thức, thời gian cũng như nguồn tài liệu nên khoá luận
khơng thể tránh khỏi thiếu sót. Mong nhận được sự góp ý của các thấy cơ giáo và các
bạn sinh viên để khố luận được hồn thiện hơn.
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
I. Khái niệm và vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước
1. Khái niệm cơ bản về du lịch
1.1. Du lịch là gì?
Từ lâu du lịch đã xuất hiện và trở thành một hiện tượng quan trọng trong đời
sống của con người. Đến nay, du lịch khơng cịn là một hiện tượng riêng lẻ, đặc
quyền của cá nhân hay một nhóm người nào đó, mà du lịch đã trở thành một nhu cầu
xã hội phổ biến đáp ứng mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho con người. Tuy nhiên, khái niệm du lịch có nhiều cách hiểu do được tiếp cận
bằng nhiều cách khác nhau. Sau đây là một số khái niệm về du lịch theo các cách tiếp
cận phổ biến.
1.1.1. Tiếp cận du lịch dưới góc độ nhu cầu của con người
Thứ nhất, du lịch là một hiện tượng: Trước thế kỷ XIX đến tận đầu thế kỷ XX
du lịch hầu như vẫn được coi là đặc quyền của tầng lớp giàu có, quý tộc và người ta
chỉ coi đây như là một hiện tượng cá biệt trong đời sống kinh tế xã hội. Trong thời
kỳ này, người ta coi du lịch như một hiện tượng xã hội góp phần làm phong phú thêm
cuộc sống và nhận thức cuả con người. Đó là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư
trú thường xuyên để đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau ngoại trừ mục
đích tìm kiếm việc làm (kiếm tiền) và trong thời gian đó họ phải tiêu tiền mà họ kiếm
được. Các giáo sư Thuỵ Sỹ là Hunziker và Krapf (Viện nghiên cứu Học viện kinh tế
Zurich) đã khái quát: Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh
từ việc đi lại và lưu trú của những người ngồi địa phương - những người khơng có
mục đích định cư và không liên quan tới bất cứ hoạt động kiếm tiền nào. Quan niệm
này được Hiệp hội quốc tế các chuyên gia khoa học về du lịch (International
Association of Scientific Experts in Tourism - IASET) thừa nhận. Với quan niệm này
du lịch mới chỉ được giải thích ở hiện tượng đi du lịch, tuy nhiên đây cũng là một
4
khái niệm làm cơ sở để xác định người đi du lịch và là cơ sở hình thành cầu về du
lịch sau này.
Thứ hai, du lịch là một hoạt động: Theo Mill và Morrison (R.C. Mill and A.M.
Morrison, The tourism system: an introductory text, Prentice-Hall International, New
Jersey, 1985), du lịch là một hoạt động xảy ra khi con người vượt qua biên giới một
nước (hay ranh giới một vùng, một khu vực) để nhằm mục đích giải trí hoặc cơng vụ
và lưu trú tại đó ít nhất 24 giờ nhưng khơng q một năm. Như vậy, có thể xem xét
du lịch thông qua những hoạt động đặc trưng mà con người mong muốn qua các
chuyến đi. Du lịch có thể được hiểu “là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng
trong một thời gian nhất định.”
Từ các góc độ nói trên, bản chất của du lịch được chỉ rõ thơng qua 5 đặc điểm
chính như sau:
- Du lịch nảy sinh từ sự di chuyển và lưu trú của con người ở các nơi đến khác nhau.
- Có hai yếu tố trong hoạt động du lịch: hành trình tới nơi đến và lưu lại, trong
đó bao gồm cả các hoạt động ở nơi đến.
- Chuyến đi và lưu trú xảy ra bên ngoài nơi cư trú và làm việc thường xuyên,
do đó du lịch làm nảy sinh những hoạt động của người đi du lịch ở nơi đến khác biệt
với những hoạt động của cư dân sinh sống và làm việc ở đây.
- Sự di chuyển tới nơi đến mang tính tạm thời, thời gian ngắn và sau đó quay
trở về trong khoảng vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng.
- Chuyến đi với nhiều mục đích song khơng vì mục đích định cư hoặc tìm
kiếm việc làm tại nơi viếng thăm.
Với các cách tiếp cận nói trên, bản chất của du lịch chủ yếu mới chỉ được giải
thích dưới góc độ là một hiện tượng, một hoạt động thuộc nhu cầu của khách du lịch.
Thứ ba, du lịch dưới góc độ là khách du lịch: Một quan niệm khác xem xét
khái niệm và bản chất của du lịch dưới góc độ người đi du lịch. Theo cách tiếp cận
này, nhà kinh tế học người Anh Ogilvie đã đưa ra khái niệm khách du lịch là “tất cả
những người thoả mãn hai điều kiện: rời khỏi nơi ở thường xuyên trong một khoảng
thời gian dưới một năm và chi tiêu tiền bạc tại nơi họ đến thăm mà không kiếm tiền ở
5
đó.” Khái niệm này chưa hồn chỉnh vì nó chưa làm rõ được mục đích của người đi
du lịch và qua đó để phân biệt được với những người cũng rời khỏi nơi cư trú của
mình nhưng lại khơng phải là khách du lịch.
Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch tại Rome (1963) thống nhất quan niệm về
khách du lịch ở hai phạm vi quốc tế và nội địa, sau này được Tổ chức du lịch thế giới
(World Tourism Organisation - WTO) chính thức thừa nhận.
(1). Khách du lịch quốc tế (International tourism): Là một người lưu trú ít nhất
một đêm nhưng không quá một năm tại một quốc gia khác với quốc gia thường trú
với nhiều mục đích khác nhau ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến.
(2). Khách du lịch nội địa (Domestic tourism): Là một người đang sống trong
một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác không phải là nơi cư trú
thường xuyên trong quốc gia đó, trong thời gian ít nhất 24 giờ nhưng khơng q một
năm với các mục đích có thể là giải trí, cơng vụ, hội họp, thăm gia đình ngồi hoạt
động làm việc để lĩnh lương ở nơi đến.
Quán triệt quan niệm của Tổ chức du lịch thế giới, trong Pháp lệnh Du lịch của
Việt Nam có quy định: “Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam
ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú
tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch” và “khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam
và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt
Nam”.
1.1.2. Tiếp cận du lịch dưới góc độ là một ngành kinh tế
Cùng với sự phát triển của xã hội, du lịch phát triển từ hiện tượng có tính đơn
lẻ của một bộ phận nhỏ trong dân cư thành hiện tượng có tính phổ biến và ngày càng
có vai trị quan trọng trong đời sống của mọi tầng lớp xã hội. Lúc đầu, người đi du
lịch thường tự thoả mãn các nhu cầu trong chuyến đi của mình. Về sau, các nhu cầu
đi lại, ăn ở, giải trí của du khách đã trở thành một cơ hội kinh doanh và du lịch lúc
này được quan niệm là một hoạt động kinh tế nhằm thoả mãn các nhu cầu của du
khách. Một ngành kinh tế được hình thành nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người
trong chuyến đi rời khỏi nơi cư trú thường xuyên - đó là ngành du lịch. Theo các học
giả Mỹ Mc Intosh và Goeldner, du lịch là một ngành tổng hợp của các lĩnh vực lữ
6
hành, khách sạn, vận chuyển và tất cả các yếu tố cấu thành khác kể cả xúc tiến quảng
bá nhằm phục vụ các nhu cầu và mong muốn đặc biệt của khách du lịch. Hội nghị
Liên hợp quốc về du lịch năm 1971 cũng đi đến thống nhất cần phải quan niệm rộng
rãi ngành du lịch như là người đại diện cho tập hợp các hoạt động công nghiệp và
thương mại cung ứng toàn bộ hoặc chủ yếu các hàng hoá và dịch vụ cho tiêu dùng
của khách du lịch quốc tế và nội địa.
Như vậy, khi tiếp cận du lịch với tư cách là một hệ thống cung ứng các yếu tố
cần thiết trong các hành trình du lịch thì du lịch được hiểu là một ngành kinh tế cung
ứng các hàng hoá và dịch vụ trên cơ sở kết hợp giá trị các tài nguyên du lịch nhằm
thoả mãn nhu cầu và mong muốn đặc biệt của du khách.
1.1.3. Tiếp cận du lịch một cách tổng hợp
Các quan niệm trên tiếp cận du lịch dưới góc độ một hiện tượng, một hoạt
động với các yếu tố tách biệt. Với cố gắng xem xét du lịch một cách toàn diện hơn,
các tác giả Mc Intosh và Goeldner cho rằng cần phải cân nhắc tất cả các chủ thể
(thành phần) tham gia vào hoạt động du lịch mới có thể hiểu được bản chất và đưa ra
khái niệm về du lịch một cách đầy đủ. Các chủ thể (thành phần) đó bao gồm :
(1). Khách du lịch: Đây là những người tìm kiếm các kinh nghiệm và sự thoả
mãn về vật chất hay tinh thần khác nhau. Bản chất của du khách sẽ xác định các nơi
đến du lịch lựa chọn và các hoạt động tham gia thưởng thức.
(2). Các doanh nghiệp cung cấp hàng hoá và dịch vụ du lịch: Các nhà kinh
doanh coi du lịch là một cơ hội để kiếm lợi nhuận thông qua việc cung cấp các hàng
hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng cho nhu cầu của thị trường khách du lịch.
(3). Chính quyền sở tại: Những người lãnh đạo chính quyền địa phương nhìn
nhận du lịch như một nhân tố có tác dụng tốt cho nền kinh tế thông qua triển vọngvề
thu nhập từ các hoạt động kinh doanh cho dân địa phương, ngoại tệ thu được từ khách
quốc tế và tiền thuế thu được cho ngân quỹ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
(4). Dân cư địa phương: Dân cư địa phương thường coi du lịch là một nhân tố
tạo ra việc làm và giao lưu văn hoá. Một điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là
hiệu quả của sự giao lưu giữa số lượng lớn khách du lịch quốc tế và dân cư địa
phương. Hiệu quả này có thể vừa có lợi và vừa có hại.
7
Như vậy, để phản ánh một cách đầy đủ và toàn diện các hoạt động, các mối
quan hệ của du lịch, theo cách tiếp cận này, du lịch được hiểu là tổng hợp các hiện
tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ sự tác động qua lại giữa khách du lịch, các nhà
kinh doanh, chính quyền và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và
tiếp đón khách du lịch.
Với cách tiếp cận này, khách du lịch là nhân vật trung tâm làm nảy sinh các
hoạt động và các mối quan hệ để trên cơ sở đó thoả mãn mục đích của các chủ thể
tham gia vào các hoạt động và các mối quan hệ đó.
Tóm lại: Du lịch là quá trình hoạt động, di chuyển của con người rời khỏi nơi
cư trú của mình để đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là để được thẩm nhận
những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo khác với nơi họ ở và có thể với
một số mục đích khác, nhưng khơng phải nhằm mục đích sinh lợi. Xuất phát từ tính
chất phong phú và sự phát triển của hoạt động du lịch, nên du lịch là một khái niệm
có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Song hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất
rằng, khái niệm du lịch luôn phải chuyển tải được 3 nội dung:
- Cách thức sử dụng thời gian rỗi bên ngoài nơi cư trú thường xuyên.
- Dạng chuyển cư đặc biệt.
- Là một ngành kinh tế thuộc lĩnh vực phi sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu tinh
thần của con người.
1.2. Một số khái niệm liên quan
- Lữ hành (Travel): Ở Việt Nam, khái niệm lữ hành là một lĩnh vực kinh
doanh trong ngành du lịch liên quan đến việc tổ chức các chuyến đi (tour) cho du
khách.
- Ngành khách sạn (Hospitality Industry): Với thuật ngữ bằng tiếng Việt,
khái niệm này chỉ được hiểu là như là lĩnh vực kinh doanh lưu trú trong ngành khách
sạn. Tuy nhiên với thuật ngữ bằng tiếng Anh thì nó có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó
được thừa nhận rộng rãi là bao gồm hoạt động của tất cả các loại hình cơ sở phục vụ
lưu trú và ăn uống cho những người đi xa nhà.
8
- Khách du lịch (Tourist): là người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để đến
một nơi nào đó nhằm mục đích tham quan, nghỉ dưỡng với khoảng thời gian lớn hơn
24 giờ.
2. Vai trò và sự cần thiết phải phát triển du lịch
Trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như là một sở thích, một hoạt
động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu được trong đời sống văn hoá, xã hội ở các nước. Về mặt kinh tế, du
lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước, đặc biệt
là các nước công nghiệp phát triển. Phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng; đồng thời cũng nâng cao nhận thức của nhân dân và khách
du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, cho nên, hoạt động của ngành du lịch có mối quan hệ tương tác đến các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội..., cụ thể:
- Việc phát triển du lịch sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác,
vì sản phẩm du lịch mang tính liên ngành và có quan hệ đến nhiều lĩnh vực trong nền
kinh tế. Khi một khu vực nào đó trở thành một điểm du lịch, du khách ở mọi nơi sẽ
đổ về làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá, dịch vụ tăng lên đáng kể (nhu cầu về sản
phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, giao thông, vận tải, bưu điện...).
Xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng đó của du khách mà ngành kinh tế du lịch không
ngừng mở rộng hoạt động của mình thơng qua mối quan hệ liên ngành trong nền kinh
tế, đồng thời làm biến đổi cơ cấu ngành trong nền kinh tế quốc dân.
- Hoạt động du lịch làm biến đổi cân bằng thu chi ngoại tệ của đất nước. Du
khách vào mang theo ngoại tệ làm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ cho đất nước mà họ
đến. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động du lịch tác động mạnh mẽ đến quan hệ
hàng hoá - tiền tệ, điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kinh tế
kém tăng trưởng hơn, kích thích tăng trưởng kinh tế ở vùng sâu, vùng xa...
- Du lịch thu hút sử dụng lao động xã hội. Du lịch tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động. Bên cạnh đó, ngành du lịch cịn tạo ra các nguồn thu làm lợi cho cư
dân địa phương nhờ việc phát triển các hoạt động kinh tế. Các khoản thuế thu từ kinh
doanh du lịch do khách du lịch đóng góp giúp chính quyền địa phương chi tiêu cho
9
giáo dục, y tế và các dịch vụ khác. Tiền do khách chi tiêu ở các nhà hàng, khách sạn
góp phần chi trả lương cho công nhân và các công việc khác. Ngồi ra, khách cịn bỏ
tiền mua các hàng hố dịch vụ, đây chính là hình thức xuất khẩu tại chỗ đem lại lợi
ích kinh tế rất tốt cho đất nước.
- Du lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng, không phải qua nhiều
khâu nên tiết kiệm được lao động, hạ giá thành sản phẩm. Người tiêu dùng mua hàng
hoá với giá thấp, người sản xuất bán được giá cao so với chi phí, điều này có tác dụng
kích thích sản xuất và tiêu dùng. Cũng do xuất khẩu tại chỗ nên có thể xuất được
những mặt hàng tươi sống khó bảo quản mà lại ít rủi ro như: hoa, rau quả tươi, thực
phẩm... Nhiều mặt hàng phục vụ khách tiêu thụ tại chỗ nên không cần đóng gói, vận
chuyển, bảo quản phức tạp, tốn kém.
- Du lịch cịn đóng một vai trị hết sức quan trọng trong việc tuyên truyền,
quảng bá hình ảnh của đất nước ra thế giới bên ngoài. Những ấn tượng về đất
nước, phong cảnh thiên nhiên, phong tục tập quán, nghệ thuật ẩm thực, con người...
tại nơi đến sẽ theo chân các du khách ra với thế giới, giới thiệu một cách tích cực về
hình ảnh của đất nước, từ đó lại kích thích bộ phận khách du lịch quốc tế tiềm năng
đến với đất nước. Du lịch phát triển sẽ cịn góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của
đất nước trên trường quốc tế, trợ giúp đắc lực cho q trình hội nhập quốc tế. Có thể
nói, du lịch chính là phương tiện quảng cáo hữu hiệu nhất về một đất nước với phần
còn lại của thế giới.
Qua phân tích trên có thể thấy du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt
kinh tế ở các vùng, đem lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội cho quốc gia. Nhiều nước
trên thế giới đã coi du lịch là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế yếu kém, q quặt của
mình. Chính từ những lợi ích nêu trên mà người Pháp đã gọi du lịch là “con gà đẻ
trứng vàng”.
II. Sơ lược về sự phát triển ngành du lịch trên thế giới
1. Lịch sử phát triển của ngành du lịch thế giới
Trong thời kỳ Ai Cập và Hy Lạp cổ đại, hiện tượng du lịch đã xuất hiện. Đó là
các chuyến đi với mục đích chủ yếu là tơn giáo, bên cạnh đó là các chuyến đi của các
nhà chính trị và thương gia. Trong những ngày lễ hội, hàng ngàn các tín đồ thực hiện
10
những chuyến hành hương tới các thánh địa, chùa chiền, các nhà thờ Kito giáo để cầu
nguyện, cúng bái. Các cuộc hành hương này có thể kéo dài hàng tháng.
Sau đó, khi lồi người phát hiện ra nguồn nước khống có khả năng chữa bệnh
thì loại hình du lịch chữa bệnh xuất hiện. Vì vậy, tại các khu vực có nguồn nước
khống đã thu hút ngày càng đơng du khách đến để nghỉ ngơi, chữa bệnh. Thời kỳ
này, hoạt động du lịch cịn mang tính chất tự phát, các chuyến du lịch còn hầu như do
các cá nhân tự đứng ra tổ chức và chưa có sự xuất hiện các hoạt động kinh doanh du
lịch.
Đến thời kỳ văn minh La Mã, do xã hội có sự phát triển, những người La Mã
đã tổ chức các chuyến đi tham quan các ngôi đền và Kim tự tháp Ai Cập, các ngôi
đền ở khu vực ven biển Địa Trung Hải và Tiểu Á. Ngồi các cuộc hành trình mang
tính tơn giáo đã xuất hiện loại hình du lịch cơng vụ, du lịch tham quan, chữa bệnh.
Đó là những hành trình của các thương gia, các hầu tước, bá tước, nam tước, các kị
sỹ. Thời kỳ này, con người đã bắt đầu có sự ham muốn các chuyến đi để thoả mãn
nhu cầu về tìm hiểu thế giới xung quanh. Số người đi du lịch trở nên đáng kể và du
lịch bắt đầu trở thành một cơ hội kinh doanh.
Sang thời kỳ chế độ phong kiến, hoạt động du lịch hình thành rộng rãi hơn.
Các chuyến du lịch nhằm mục đích ngắm cảnh, chữa bệnh, lễ hội ... của tầng lớp vua
chúa, quan lại phát triển mạnh. Các khu vực có giá trị chữa bệnh và phục hồi sức
khoẻ như các suối nước khoáng, các bãi biển, các địa danh thiên nhiên đã thu hút
đơng đảo khách du lịch. Bên cạnh đó là các hoạt động buôn bán của các thương gia
phát triển nhanh, việc buôn bán không chỉ diễn ra trong nước mà cịn mở rộng ra các
nước xung quanh. Điều đó đã thúc đẩy du lịch công vụ phát triển. Tuy nhiên, các hoạt
động du lịch dó cũng chỉ tập trung vào giới thượng lưu và thương gia. Các hoạt động
phục vụ nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi đáp ứng nhu cầu cho các đối tượng thương gia,
các tín đồ, giới thượng lưu cũng hình thành và phát triển rõ hơn. Du lịch lúc này đã
khơng cịn là một cơ hội kinh doanh nữa mà nó đã bắt đầu định hình với tư cách là
một ngành kinh tế - ngành du lịch. Tuy nhiên, hoạt động du lịch và kinh doanh cũng
chỉ phát triển ở một số nước có nền kinh tế phát triển như Anh, Pháp, Thuỵ Sỹ và
Đức.
11
Tiếp theo là thời kỳ cận đại (từ những năm 40 của thế kỷ XVII đến chiến tranh
thế giới lần thứ nhất) hiện tượng du lịch đã xuất hiện rộng rãi hơn. Song du khách vẫn
tập trung vào các đối tượng như trước là những nhà tư bản giàu có, giới quý tộc trong
xã hội. Hoạt động du lịch và kinh doanh du lịch trong thời kỳ này cũng chỉ tập trung
ở một số nước tư bản có nền kinh tế phát triển.
Sang thời kỳ hiện đại, sự phát triển của công nghiệp và những phát minh về
khoa học đã tạo tiền đề cho du lịch phát triển nhanh chóng. Đó là sự xuất hiện xe lửa,
ơ tơ, đặc biệt sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai với sự phát minh ra máy bay thân
rộng với các đường bay quốc tế được thiết lập và hệ thống đường xá thuận tiện đã
cho phép du lịch trở thành nhu cầu quan trọng đối với con người.
Xem xét du lịch với tư cách là một ngành kinh tế thì nó mới thực sự xuất hiện
từ giữa thế kỷ XIX. Năm 1841, Thomas Cook người Anh tổ chức chuyến đi đông
người đầu tiên đi du lịch trong nước và sau đó ra nước ngoài đánh dấu sự ra đời của
hoạt động kinh doanh lữ hành. Sau đó, Thomas Cook thành lập cơng ty lữ hành, năm
1865 ông tiếp tục mở rộng các tuyến du lịch đến Mỹ và từ Mỹ sang châu Âu, tiếp
theo là ở nước Nga và các nước Châu Âu khác, sau này lan rộng khắp các châu lục.
Đối với kinh doanh khách sạn, vào những năm 1880 các nước như Pháp, Thuỵ Sỹ,
Áo có hoạt động kinh doanh khách sạn hiện đại rất phát triển. Cùng với quá trình phát
triển xã hội hay nói cách khác, các tiền đề và điều kiện để ngành du lịch phát triển
được củng cố, tăng cường, thời kỳ hiện đại mà đặc biệt là từ những năm 50 của thế kỷ
trước ngành du lịch đã phát triển mạnh mẽ và trở thành ngành kinh tế hết sức quan
trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Năm 1979, đại hội của Tổ chức Du lịch
thế giới (WTO) đã thông qua Hiến chương du lịch và chọn ngày 27 tháng 9 hàng năm
làm Ngày du lịch thế giới.
Đến nay, du lịch đã trở thành nhu cầu có tính phổ biến trong quảng đại quần
chúng trên thế giới và ngành du lịch đã được nhiều quốc gia coi là ngành công nghiệp
số một và điều khơng thể tranh cãi rằng nó là một ngành kinh doanh lớn nhất và năng
động nhất trên thế giới.
12
2. Những xu hướng phát triển mới của ngành du lịch thế
giới trong thế kỷ 21
Thị trường du lịch có rất nhiều thay đổi, từ đầu thập kỷ 90, cung du lịch đã
vượt cầu, ngày càng có nhiều điểm du lịch được đưa vào khai thác, sử dụng, sản
phẩm du lịch đa dạng và liên tục phát triển. Thị trường du lịch trở nên cạnh tranh
hơn, du lịch thế giới phát triển nhanh trong lĩnh vực quảng bá tuyên truyền, có nhiều
thơng tin hơn đên người mua, do vậy họ chỉ quyết định mua một sản phẩm du lịch khi
đã có đủ thơng tin và hiểu rất rõ về sản phẩm đó.
Do kết quả của q trình hội nhập, hồ bình và ổn định xã hội của thế giới, du
lịch có xu hướng hợp tác khu vực và tồn cầu. Thị trường du lịch thế giới và khu vực
ngày càng mở rộng. Đồng thời những tiền bộ kỹ thuật, đặc biệt trong viễn thông, cho
phép khách hàng tiếp cận với nhà cung cấp và với sản phẩm du lịch được tốt hơn.
Bảng 1: “Du lịch: Tầm nhìn 2020”
2010
2020
565,4
1.006,4
1.561,1
Tỷ lệ
tăng
trưởng
trung
bình
năm
(%)
19952020
4,1
Châu Phi
20,2
47,0
77,3
Châu Mỹ
108,9
190,4
ĐA-TBD
81,4
Châu Âu
Năm
gốc
1995
Dự báo
Thị phần
(%)
1995
2020
100
100
5,5
3,6
5,0
282,3
3,9
19,3
18,1
195,2
397,2
6,5
14,4
25,4
338,4
527,3
717,0
3,0
59,8
45,9
Trung Đông
12,4
35,9
68,5
7,1
2,2
4,4
Nam Á
4,2
10,6
18,8
6,2
0,7
1,2
Nội vùng
464,1
790,9
1.183,3
3,8
82,1
75,8
Đường dài
101,3
215,5
377,9
5,4
17,9
24,2
Thế giới
Nguồn: Tổ chức Du lịch thế giới (WTO)
13
Theo nghiên cứu của WTO có tên “Du lịch: Tầm nhìn 2020” (xem bảng 1), số
lượng khách du lịch quốc tế trên toàn cầu năm 2010 dự báo sẽ đạt hơn 1 tỷ lượt khách
và đạt 1,561 tỷ lượt vào năm 2020. Tốc độ phát triển chung cho cả giai đoạn 19952020 là 4,1%/năm. Một trong các nét chính của việc tăng trưởng số lượng khách du
lịch quốc tế là có sự thay đổi tỷ lệ giữa khách du lịch nội vùng và khách du lịch từ
châu lục khách đến. Năm 1995 tỷ lệ này là 82:18, dự báo năm 2020 tỷ lệ này sẽ là
76:24. Châu Âu vẫn sẽ là thị trường gửi khách lớn nhất, chiếm 50% tổng số khách du
lịch quốc tế toàn cầu. Khách từ vùng Đơng Á - Thái Bình Dương sẽ tăng nhanh làm
cho vùng này trở thành thị trường gửi khách lớn thứ hai trên thế giới. Thị trường
khách có sự di chuyển, trước đây Châu Âu là thị trường đón khách chính có tốc độ
tăng tưởng cao, cịn hiện nay đang diễn ra sự chuyển khách từ Châu Âu sang Châu Á.
Khách du lịch đến Châu Á - Thái Bình Dương ngày một tăng, đặc biệt là đến thị
trường du lịch ASEAN. Một số nước như Thái Lan, Singapore và Nam Phi có tố độ
phát triển du lịch nhanh, tuy nhiên các nước này vẫn chưa lọt được vào danh sách 10
nước đứng đầu thế giới.
Tương lai phát triển của du lịch thế giới bị ảnh hưởng bởi các xu hướng phát
triển kinh tế xã hội và các xu hướng phát triển nhu cầu du lịch. Dưới giác độ thị
trường, các xu hướng phát triển chính của ngành du lịch trong tương lai sẽ là:
(1). Cung và cầu có quan hệ mật thiết
Nhu cầu thăm quan các danh lam thắng cảnh và những điểm du lịch nổi tiếng
thế giới của du khách ngày càng tăng làm cho nhiều điểm du lịch trở nên q tải, việc
có q đơng khách đến thăm gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến tuổi thọ của các điểm
du lịch. Trước tình hình này, các điểm du lịch sẽ phải quản lý sao cho vừa thoả mãn
được nhu cầu của khách vừa bảo vệ được sản phẩm du lịch. Ví dụ để bảo vệ mơi
trường, một số cơng viên quốc gia sẽ không cho phép ô tô đi vào; 1 số khu vực sẽ hạn
chế giờ thăm quan, áp dụng chế độ đặt trước đối với xe du lịch muốn vào trung tâm
thành phố.
(2). Phát triển các sản phẩm du lịch năng động với thời gian thích hợp
Xu hướng khách du lịch có nhu cầu thưởng thức nhiều sản phẩm dịch vụ trong
một khoảng thời gian ngắn đã thúc đẩy việc tạo ra các sản phẩm và chương trình du
14
lịch gây nhiều hứng khởi trong cùng một thời gian. các công viên chuyên đề kết hợp
cảnh quan đẹp với các trung tâm vui chơi giải trí tổng hợp sẽ được xây dựng nhiều
hơn. Du khách tàu biển cũng sẽ trở nên phổ biến bởi hành khách có thể tham quan
nhiều điểm du lịch và hương thụ được nhiều hơn.
Xuất hiện nhiều hình thức nghỉ ngơi mới, đồng thời khách du lịch muốn thử
nghiệm một cái gì đó trong kỳ nghỉ ví dụ thể thao, các thú vui, du lịch đồng q, hồ
mình vào thiên nhiên, tăng cương sức khoẻ, tìm hiểu văn hố... Các kỳ nghỉ truyền
thống cùng gia đình ở bãi biển sẽ khơng cịn giữ vị trí chủ đạo nữa, tương lai một kỳ
nghỉ sẽ kết hợp nhiều mục đích khác nhau.
Khách hàng địi hỏi sản phẩm du lịch có chất lượng hơn khơng có nghĩa là
sang trọng mà là có ý nghĩa, điểm du lịch phải xanh và sạch. Khách hàng khác nhau
có các yêu cầu khác nhau về sản phẩm du lịch. Ví dụ, khách lớn tuổi muốn khung
cảnh an tồn hơn cịn khách du lịch độc thân muốn có quan hệ xã hội hơn...
(3). Ứng dụng công nghệ điện tử trong du lịch
Với các phương tiện thông tin hiện đại khách hàng được thử nghiệm trước
chuyến đi nghỉ của mình trước khi ra quyết định. Các chương trình máy tính sẽ giúp
cho việc lựa chọn chuyến đi thích hợp và dễ dàng hơn. CD-ROM được sử dụng rộng
rãi vì chứa đựng nhiều lượng thơng tin và tiết kiệm thời gian tra cứu hơn so với sách
hướng dẫn. Việc đặt chỗ qua mạng Internet sẽ tăng mạnh trong vòng 10-15 năm tới.
(4). Nhu cầu về du lịch tăng lên dưới một hình thức khác
Tốc độ tăng số lượng kỳ nghỉ nhanh chóng hơn tốc độ tăng số người đi nghỉ,
một người có thể có nhiều kỳ nghỉ trong một năm hơn. Số kỳ nghỉ tăng sẽ đẩy cầu du
lịch tăng và điều này sẽ làm cung du lịch phát triển, thị trường du lịch được mở rộng,
xây dựng nhiều điểm du lịch và chương tình du lịch thích hợp cho từng loại kỳ nghỉ.
Ví dụ đối với kỳ nghỉ chính có thể thiết kế các chương trình du lịch dài ngày và ở nơi
xa xơi, còn đối với các kỳ nghỉ phụ và nghỉ lễ thì lại có các chương trình du lịch ngắn
ngày và gần...
Các xu hướng phát triển và sự thay đổi nêu trên về nhu cầu du lịch của khách
sẽ dẫn đến sự phát triển nổi trội của một số loại hình du lịch trong tương lai như :
- Du lịch sinh thái
15
Du lịch sinh thái được hiểu như là một kiểu du lịch có trách nhiệm trong việc
bảo vệ mơi trường thiên nhiên và sự duy trì cuộc sống tốt đẹp cho dân địa phương.
Du lịch sinh thái rất phù hợp với một nhịm nhỏ khách du lịch có mục đích nghiên
cứu nghiêm túc về tự nhiên và cũng phù hợp với những đoàn lớn muốn kết hợp
chuyến đi nghỉ với thăm quan thưởng thức những khu bảo tồn thiên nhiên. Một phần
tiền do khach du lịch mang lại được tái đầu tư để bảo vệ và giữ gìn nguồn tài ngun
thiên nhiên.
- Du lịch văn hố
Du lịch văn hóa cũng có nhiều hình thức và mức độ khác nhau, một số ít người
có động cơ đi học, nghiên cứu văn học, lịch sử, khảo cổ, nghiên cứu chuyên
ngành...Còn đa số khách khác là muốn nâng cao hiểu biết, kết hợp chuyến đi nghỉ với
việc tìm hiểu văn hóa địa phương. Cũng như du lịch sinh thái một phần tiền do khach
du lịch mang lại được tái đầu tư để bảo vệ và giữ gìn các di sản văn hố. Các vùng
thu hút nhiều khách du lịch văn hoá là Châu Âu, Trung Đông và Châu Á.
- Du lịch chuyên đề
Trong mấy năm gần đây du lịch chuyên đề là chất xúc tác tạo ra một số điểm
du lịch mới phục vụ nhu cầunghỉ ngơi giải trí. Cơng viên theo chủ đề ngày càng hấp
dẫn khách du lịch, thông qua thiên nhiên nó cung cấp một sản phẩm súc tích. Ví dụ
khu “vương quốc thú rừng” ở công viên Disneyland bang Florida có thể thay thế các
cơng viên động vật hoang dã trong khi chính các cơng viên động vật hoang dã ở
Đông Phi khách không được đảm bảo chắc chắn rằng sẽ nhìn thấy chúng.
- Du lịch bằng tàu biển
Du lịch đưòng biển đã phát triển với tốc độ cao và xu hướng sẽ tiếp tục phát
triển như thế trong thập kỷ tới. Năm 1997, có khoảng 7 triệu người đã đi du lịch bằng
tàu biển, đến năm 2000 có 9 triệu người. rất nhiều hàng du lịch đã đưa các chương
tình du lịch bằng tàu biển vào sách giới thiệu của họ. Mặc dù số lượng khách tàu biển
tăng lên nhanh chóng nhưng cơng suất của các tàu du lịch lại tăng nhanh hơn do đó sẽ
dẫn đến việc cung vượt cầu trong những năm trước mắt.
- Du lịch mạo hiểm
16
Thế giới ngày càng trở nên quen thuộc, chỉ còn lại một số ít điểm du lịch mới
cho khách du lịch ưa khám phá. Xuất hiện xu hướng thích leo lên các đỉnh núi cao, du
lịch xuống đại dương, du lịch đến các cực của trái đất, thậm chí du lịch đến các vì
sao. Năm 1999 trên 2,5 triệu khách du lịch đi thám hiểm đại dương, du lịch dưới đại
dương được coi là mặt trận mới cho các nhà thám hiểm - khách du lịch. Du lịch đến
các cực của trái đất trước mắt sẽ chỉ phục vụ được cho một số rất ít khách.
III. Tình hình kinh doanh du lịch trong khu vực ASEAN
1. Những nét chung về hoạt động du lịch trong khối
ASEAN
1.1. Sự hấp dẫn du lịch của các nước ASEAN
1.1.1. Về tự nhiên
Các nước ASEAN nằm trong một vùng địa lý tự nhiên có khí hậu nhiệt đới
nóng ẩm nên có thảm thực vật nhiệt đới phát triển với thành phần loài phong phú và
một thế giới động vật đa dạng, độc đáo. Các dân tộc ASEAN có cùng một nền văn
minh lúa nước với các phong tục, tập quán, tín ngưỡng và các truyền thuyết dân
gian... Chính vì vậy, các sản phẩm du lịch của các nước ASEAN có nhiều nét tương
đồng. Khi nói đến ASEAN, người ta hình dung ra ngay một vùng nhiệt đới với những
bãi biển đẹp, những cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh rập rạm với cuộc sống thiên
nhiên hoang dã phong phú và độc đáo; một vùng đất với những cung điện, đền đài cổ
kính, trang nghiêm lộng lẫy, những lễ hội truyền thống tưng bừng, rực rỡ mang đậm
phong cách Á Đông, những truyền thuyết dân gian đầy tình người, những người dân
vui vẻ, cởi mở và hiếu khách, những món ăn đặc sản thú vị...
Với vị trí địa lý bán đảo và quần đảo, các nước ASEAN có đường bờ biển dài
với nhiều bãi cát đẹp có thể sử dụng vào mục đích tắm biển, nghỉ ngơi, vui chơi giải
trí. Các bãi biển ở đây nằm trên các đảo và bán đảo nên gần các bãi biển hầu hết đều
có núi và những khu rừng nhiệt đới với nhiều loài động thực vật làm phong phú thêm
các loại hình du lịch, tăng tính hấp dẫn của các khu du lịch ở đây: du khách đến đây
nghỉ ngơi tắm biển có thể kết hợp tham quan, tìm hiểu các khu rừng nhiệt đới, thám
hiểm các vùng núi... Nằm ở vùng khí hậu nóng ẩm nên biển ở đây thường có các giải
san hơ phát triển mạnh. Nước biển ở các đảo san hơ ấm và có độ trong suốt rất cao
17
có thể phát triển loại hình du lịch lặn biển phục vụ cho mục đích tham quan, giải trí
và nghiên cứu khoa học... Một số khu du lịch biển đã trở thành trung tâm du lịch lớn
nhất của một vùng hay một nước như Sentosa là trung tâm du lịch lớn nhất của
Singapore; đảo Bali (Indonesia) được mệnh danh là “Thiên đường Châu Á”;
Langcagi là trung tâm du lịch lớn nhất của Malaysia; đảo Similan của Thái Lan được
xếp là một trong 10 điểm du lịch đẹp nhất thế giới; Vịnh Hạ Long của Việt Nam được
UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới...
Một thế mạnh nữa của du lịch ASEAN là du lịch núi. Ngoài sự hấp dẫn chung
bởi khí hậu mát mẻ trong lành, mỗi một điểm du lịch lại có những nét đặc trưng để
hấp dẫn du khách. Đến Sa Pa là đến với thác Bạc, cầu Mây, động Thuỷ Cung, Cổng
Trời. Mae Hong Son thì lại được gọi bằng những cái tên rất đẹp như: đất ba mùa
sương mù, đất của hoa Bua Tong và đất nước của những thiếu nữ xinh đẹp. Những
khu nghỉ núi Putao, Machanbaw, Sumbrabum ở cực Bắc Myanmar có những đỉnh núi
tuyết phủ và ở vài nơi cịn có thể trượt tuyết - mơn thể thao chỉ có ở vùng ôn đới. Hệ
thống núi lửa tập trung ở Indonesia cũng là những địa chỉ hấp dẫn đối với các du
khách, đặc biệt là đối với các nhà khoa học và các du khách ưa chuộng du lịch mạo
hiểm.
Khí hậu nhiệt đới cùng với cấu tạo địa lý nhiều dãy núi đá vôi là một trong
những điều kiện thuận lợi để hình thành hang động đá vơi, đáng kể nhất là các hang
động ở Việt Nam và Malaysia như quần thể hang động trên các đảo đá của Vịnh Hạ
Long; Thắng cảnh Hương Sơn với “ Nam thiên đệ nhất động” hàng năm thu hút rất
nhiều du khách đến thăm quan, tế lễ; Hang động Phong Nha ở Việt Nam, với những
động đá và nhũ đá huyền ảo, là một trong những hang dài nhất thế giới, hiện nay vẫn
chưa khám phá hết. Động Phong Nha là nơi thu hút sự chú ý của những du khách ưa
sự mạo hiểm và các nhà nghiên cứu hang động trên khắp thế giới. Hang Batu ở
Malaysia, nơi thờ Sura Maniam - người sáng lập ra đạo Hindu, là một quần thể hang
động gắn liền với truyền thống tôn giáo, hàng năm đến ngày lễ hội, hàng trăm nghìn
tín đồ về đây cúng lễ. Malaysia cịn có hang rộng nhất thế giới là hang Hươu; hang
Niah được cả thế giới biết đến với những dấu vết cổ nhất của con người ở khu Đông
Nam Á sống cách đây hơn 40.000 năm.
18
Rừng cũng là một trong những tài nguyên du lịch tự nhiên đáng kể của
ASEAN. Các nước ASEAN có diện tích rừng bao phủ khá lớn (khoảng 70% diện
tích) và hiện cịn gìn giữ được khá ngun vẹn một số khu rừng nguyên sinh (đa số
nằm trong khu vực bảo vệ của hàng trăm vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên
của các nước). Các loài động thực vật trong các khu bảo tồn rất phong phú và đa
dạng. Thêm vào đó, do có sự khác biệt về vị trí, địa hình, khí hậu...mà thành phần
lồi trong các khu bảo tồn cũng có sự khác biệt. Đến các khu bảo tồn ở các nước
ASEAN người ta sẽ thấy được sự phong phú, đa dạng và rất hấp dẫn của các khu
rừng nhiệt đới rụng lá theo mùa, rừng nhiệt đới và rừng xích đạo ẩm ướt quanh
năm...với nhiều loại động thực vật đặc hữu quý hiếm... Đặc biệt, các khu rừng ngập
mặn ở Indonesia và Việt Nam với diện tích chỉ đứng sau rừng ngập mặn Amazone,
khơng chí có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế mà cịn có ý nghĩa rất quan trọng về du lịch
sinh thái và bảo vệ mơi trường.
ASEAN có hơn 20 điểm đã được UNESCO xếp vào danh mục các di sản thế
giới (kể cả di sản tự nhiên và văn hoá). Trong số các di sản tự nhiên thế giới ở
ASEAN thì có hai điểm ở Inđônêsia (Vườn quốc gia Ujungkulon và Vườn quốc gia
Komodo) và một điểm cũng rất nổi tiếng ở Việt Nam đó là Vịnh Hạ Long. Vườn
quốc gia Ujungkulon là nơi duy nhất còn giữ được khoảng 50 con cuối cùng của loài
tê giác một sừng Java, ở đây cịn nhiều lồi động thực vật q hiếm khác; Vườn quốc
gia Komodo nổi tiếng với loại thằn lằn khổng lồ gọi là Rồng Komodo; Vịnh Hạ Long
có vẻ đẹp tự nhiên kỳ ảo với một quần thể hơn 3.000 hòn đảo nhỏ được gọi tên theo
trí tưởng tượng của người dân như hịn Con Cóc, hịn Con Voi, hịn Gà Chọi, hịn
Mái Nhà...và có nhiều hang động đẹp mà tên gọi gắn liền với các truyền thuyết như
hang Đầu Gỗ, hang Trinh Nữ, hang Sửng Sốt, động Thiên Cung...
1.1.2. Về nhân văn
Tất cả các nước ASEAN đều có bề dày lịch sử được thế giới biết đến với
những nền văn hoá giầu bản sắc thể hiện qua rất nhiều di tích lịch sử, văn hố, kiến
trúc cịn gìn giữ được đến ngày nay. Hầu hết các di sản văn hoá thế giới của khu vực
ASEAN là các kinh đô của của các triều đại phong kiến có phong cách kiến trúc và
nghệ thuật cổ như Angkor, Huế, Ayutthaya, Sukhothai, Luang Phra Bang và Pagan.
19
Chẳng hạn, Angkor là kinh đô cổ của Campuchia, gồm một chuỗi cung điện nguy nga
tráng lệ được xây dựng trên diện tích gần 200 km2 dưới thời đại Angkor, thời kỳ huy
hồng nhất của dân tộc Kh’me. Angkor có nghệ thuật chạm khắc đá ít nơi nào trên
thế giới bì kịp. Chung quanh Angkor là cả một hệ thống kênh đào và hồ nước tạo nên
một kết cấu tổng thể đẹp mắt. Quần thể kiến trúc tuyệt vời Angkor có thể được xem
như là kỳ quan thứ 8 của thế giới...
Những di sản văn hố cịn lại của ASEAN là các cơng trình kiến trúc cổ như
đền thờ Borobudur (cơng trình tưởng niệm của Phật giáo) được coi là một trong
những cơng trình nghệ thuật kiến trúc vĩ đại nhất không chỉ của Inđônêsia và thế giới
Phật giáo mà còn của cả nhân loại; khu đền Prambanan với bộ sử thi Ramayana bằng
đá, Chùa vàng ở Myanmar là một quần thẻ kiến trúc với hàng chục ngôi tháp, điện
thờ Phật, tháp chng, cột cờ trong đó tồn bộ bề mặt tháp chính được phủ bằng vàng
và đá quý; Phố cổ Hội An với những khu phố vẫn còn giữu nguyên được các kiến
trúc cổ và thánh địa Mỹ Sơn nơi hội tập rất nhiều tháp chàm mang nét đặc sắc của
nền văn hoá Chăm Pa ở việt nam...
Bên cạnh các di tích đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn hố thế giới
cịn rất nhiều các di tích khác có giá trị khơng kém về mặt lịch sử, nghệ thuật, kiến
trúc, cảnh quan và đã trở thành những nơi thu hút rất nhiều khách du lịch trong nước
và quốc tế đến tham gia và nghiên cứu. Các di tích đó bao gồm các kiến trúc cổ, các
đền, chùa, thành cổ, các làng nghề truyền thống, các bảo tàng, các di chỉ khảo cổ...
Những di tích này có thể gặp ở khắp nơi trên cùng lãnh thổ của các nước ASEAN. Nó
phản ánh sự phong phú, đa dạng về bản sắc văn hố, phản ánh q trình hình thành
đất nước và những bước thăng trầm trong lịch sử phát triển của mỗi dân tộc.
ASEAN còn rất nổi tiếng về những lễ hội sống động và phong phú gồm các lễ
hội dân gian như tết đầu năm, hội xuân, hội mùa, hội đền chùa và các giỗ tết khác đan
xen với những ngày hội của tôn giáo. Phổ biến nhất ở ASEAN là các lễ hội đền chùa
được tổ chức ở khắp nơi trong khu vực. Lễ hội đền Borobudur của Inđônêsia diễn ra
từ cuối tháng 5 đến tháng 6. Lễ hội chùa Hương ở Việt Nam từ tháng 1 đến tháng 3
(âm lịch), lễ hội Thạt Luồng của Lào diễn ra vào tháng 11, lễ hội Chùa Vàng của
Myanmar được tổ chức vào tháng 5.
20