Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG sữa mẹ của bà mẹ có CON dưới 2 TUỔI đến KHÁM tại VIỆN DINH DƯỠNG QUỐC GIA năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.97 KB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ THỊ LAN

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ
CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 2 TUỔI ĐẾN KHÁM
TẠI VIỆN DINH DƯỠNG QUỐC GIA NĂM 2019
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y KHOA
KHÓA 2015-2019

CHUYÊN NGÀNH: DINH DƯỠNG

🙞🙞🙞
Hà Nội - 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ THỊ LAN
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ
CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 2 TUỔI ĐẾN KHÁM
TẠI VIỆN DINH DƯỠNG QUỐC GIA NĂM 2019
Chuyên ngành : Cử nhân Dinh dưỡng
Mã ngành

: 52720303


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y KHOA
KHÓA 2015-2019
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1.

TS.BS. Phan Bích Nga

2.

PGS.TS. Trịnh Bảo Ngọc

Hà Nội - 2019


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu nhà trường, Viện Đào
tạo Y học Dự phòng và Y tê Công cộng, phòng đào tạo đại học, Bộ môn Dinh
dưỡng và An toàn thực phẩm, ban lanh đọa khoa Khám tư vấn Dinh dưỡng trẻ
em Viện dinh dưỡng Quốc gia đã tạo điều kiện thận lợi cho tôi trong quá trình
học tập, thu thập số liệu và hoàn thành khóa luận.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn TS.BS
Phan Bích Nga – Trưởng khoa Khám Tư vấn Dinh dưỡng trẻ em Viện Dinh
dưỡng Quốc gia, đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình tôi trong suốt quá
trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn, lòng biết ơn sâu sắc và chân thành
nhất tới ông bà, bố mẹ, anh chị em và bạn bè, những người đã luôn ở bên
động viên, giúp đỡ em, cùng em chia sẻ những khó khăn trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2019
Sinh viên


Đỗ Thị Lan


LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi Phòng đào tạo trường Đại học Y Hà Nội, Viện đào tạo Y học
Dự phòng và Y tế công cộng.
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này
hoàn toàn trung thực, chính xác do bản thân tôi thu thập và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với các kết quả đã đưa ra trong khóa
luận này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2019
Sinh viên

Đỗ Thị Lan


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

SDD

Suy dinh dưỡng

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)

A&T


Alive & Thrive

NCBSM

Nuôi con bằng sữa mẹ

NCBSMHT

Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn

VDD

Viện Dinh Dưỡng

BSMHT

Bú sữa mẹ hoàn toàn

NKHH

Nhiễm khuẩn hô hấp

UNICEF

Qũy Nhi đồng Liên Hợp Quốc
(United Nation’s Children’s Fund)

MỤC LỤC



DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Thành phần các chất dinh dưỡng có trong 100g sữa mẹ.
Bảng 3.1: Phân bố tuổi và giới tính của trẻ.
Bảng 3.2: Đặc điểm thông tin chung của bà mẹ.
Bảng 3.3: Tỷ lệ bà mẹ được hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ.
Bảng 3.4: Hiểu biết của bà mẹ về lợi ích của sữa mẹ.
Bảng 3.5: Kiến thức về thời gian cho trẻ bú sơm sau khi sinh.


Bảng 3.6: Kiến thức về khoảng thời gian cai sữa của trẻ.
Bảng 3.7: Kiến thức nuôi dưỡng trẻ dưới 6 tháng tuổi khi mẹ không đủ
sữa.
Bảng 3.8: Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ.
Bảng 3.9: Thời gian trẻ được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ.
Bảng 3.10: Lý do cho trẻ ăn thức ăn ngoài trước 6 tháng tuổi.
Bảng 3.11: Kiến thức và thực hành NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng
đầu.
Bảng 3.12: Khoảng thời gian trẻ được cai sữa.
Bảng 3.13: Thực hành cho trẻ bú khi bị bệnh.

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Phân bố độ tuổi của mẹ trong nghiên cứu.
Biểu đồ 3.2: Kiến thức của bà mẹ về thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn của
trẻ.
Biểu đồ 3.3: Kiến thức cho con bú khi trẻ bị bệnh.
Biểu đồ 3.4: Thời điểm trẻ bú mẹ trong ngày.



ĐẶT VẤN ĐỀ

Trẻ em là tương lai của đất nước, việc chăm sóc và nuôi dưỡng kém
trong thời kỳ sơ sinh và thời thơ ấu được xác định là một trong những yếu tố
làm tăng nguy cơ mắc bệnh và là yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp cho khoảng
một phần ba số ca tử vong trong tổng số 9,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi tử vong
trong năm 2006 [1]. Hiện nay, nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) hoàn toàn
trong 6 tháng đầu và ăn bổ sung hợp lý là biện pháp tốt nhất nhằm cung cấp
đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y
tế Thế giới WHO, trẻ sơ sinh cần được bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau
sinh và được nuôi dưỡng hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời để đạt
được sự phát triển và sức khỏe tối ưu. Trẻ không được bú mẹ hoàn toàn trong
6 tháng đầu đời thường dễ mắc bệnh, nhất là tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp
cấp tính là 2 nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ nhỏ. Nhiều công trình
nghiên cứu đã chứng minh tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ được bú mẹ hoàn
toàn trong 6 tháng thấp hơn ở những trẻ được nuôi nhân tạo hay hỗn hợp [2].
Nuôi dưỡng trẻ nhỏ đặc biệt quan trọng trong 24 tháng đầu đời vì ở độ
tuổi này tình trạng thấp còi và nhẹ cân tăng nhanh. Theo thống kê của Qũy
Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) cho thấy tỷ lệ SDD–protein năng lượng
xuất hiện nhiều nhất ở lứa tuổi từ 4 đến 18 tháng tuổi trong đó lứa tuổi dưới
12 tháng có nguyên nhân chủ yếu là không được bú mẹ hoặc cho trẻ ăn bổ
sung quá sớm [3].
Ở nhiều nước trên thế giới, ngay cả ở những nuớc đang phát triển việc
thực hành cho con bú đang có xu hướng giảm dần. Điều tra Quốc gia cho
thấy, tại Việt Nam tình trạng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn vẫn còn thấp chỉ
61,7% trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và chỉ 1/5 số trẻ được bú
mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, tỷ lệ NCBSM đến 24 tháng tuổi chỉ đạt


22,1% [4]. Năm 2014, nghiên cứu của Phạm Thị Thanh Thủy tại Bệnh viện đa
khoa Saint Paul cho thấy tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu có con nằm viện
tại đây là 17,5% [2], thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển (khoảng

34,8%) [5].
Hiện nay, với điều kiện kinh tế ngày càng phát triển người đang được
tiếp cận với các dịch vụ y tế và thông tin chăm sóc sức khỏe một cách dễ dàng
hơn thì lại có nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến việc thực hành nuôi con bằng
sữa mẹ như công việc, thời gian nghỉ sinh, điều kiện kinh tế xã hội, thói quen
nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ. Các loại thức ăn nhân tạo như sữa công thức,
cháo ăn liền,… ngày càng phổ biến và đa dạng nhiều chủng loại cũng làm ảnh
hưởng đến hành vi cho con bú. Vì vậy, chúng tôi làm đề tài nghiên cứu:
“Kiến thức thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ có con dưới 2 tuổi
đến khám tại Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2019” với hai mục tiêu sau:
1.

Mô tả kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ có con dưới 2
tuổi đến khám tại Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2019.

2.

Mô tả thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ trên.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Một số khái niệm nuôi con bằng sữa mẹ


Nuôi con bằng sữa mẹ: Là đứa trẻ được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ, trực
tiếp bằng bú mẹ hoặc gián tiếp do sữa mẹ tiết ra. Tùy theo nhu cầu của trẻ, có
thể cho trẻ bú mẹ 8 – 10 lần trong một ngày, không nhất thiết phải đúng giờ
giấc, ban đêm vẫn phải cho trẻ bú. Bú mẹ theo nhu cầu của trẻ không hạn chế
thời gian mỗi bữa bú, bú hết một bên vú rồi mới chuyển sang vú bên kia để

trẻ nhận hết được sữa cuối chứa nhiều chất béo. Trẻ bú đúng, thường xuyên
và đúng cách thì sữa càng được bài tiết nhiều [6].
Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn: Trẻ 0 – 5 tháng tuổi chỉ được bú sữa
mẹ từ vú mẹ hoặc vú nuôi hoặc từ vú mẹ vắt ra, ngoài ra không ăn hay uống
thêm bất kì đồ ăn hay thức uống nào khác kể cả nước đun sôi để nguội, trừ
trường hợp phải uống bổ sung các vitamin, muối khoáng bổ sung hoặc thuốc
mà bác sĩ chỉ định khi trẻ bị bệnh [7].
Sữa non: Là sữa mẹ được tiết ra trong vài ngày đầu sau khi sinh, sữa
non sánh đặc, có màu vàng nhạt. Trong sữa non có rất nhiều năng lượng,
protein và vitamin A, đồng thời lại có nhiều chất kháng khuẩn tăng cường
miễn dịch cho trẻ. Sữa non có tác dụng xổ nhẹ tống phân su nhanh, ngăn vàng
da, giúp tăng cường miễn dịch cho trẻ. Tuy số lượng ít nhưng chất lượng của
sữa non vẫn đủ thỏa mãn nhu cầu của trẻ sơ sinh [8].
Sữa trưởng thành: Là sữa mẹ được tiết ra sau sữa non, với thành phần
ổn định. Số lượng sữa trở nên nhiều hơn, vú của người mẹ có cảm giác đầy,
cương và nặng; sữa trưởng thành chứa ít protein hơn sữa non [8].
Sữa đầu bữa: Là sữa được tiết ra đầu bữa bú của trẻ. Sữa đầu bữa có
màu trắng trong, số lượng nhiều và cung cấp nhiều protein, đường, nước và
các chất dinh dưỡng khác [9].
Sữa cuối bữa: Là sữa được tiết ra cuối bữa bú của trẻ, bầu vú của mẹ lúc
này đã hết căng. Sữa cuối bữa có màu trắng đục vì chứa nhiều chất béo hơn


sữa đầu. Chất béo cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ giúp trẻ phát triển nhanh
[9].
Tiêu chảy cấp: Là đi ngoài phân lỏng hoặc tóe nước từ 3 lần trở lên
trong một ngày, khởi đầu cấp tính và kéo dài không quá 14 ngày [8].
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính: Bao gồm các nhiễm trùng ở bất kì vị trí
nào trên đường hô hấp, bao gồm tai, mũi, họng, thanh quản, khí quản, phế
quản, tiểu phế quản, phổi. Thời gian bị bệnh không kéo dài quá 30 ngày,

ngoại trừ viêm tai giữa cấp là 14 ngày [8].
Cai sữa: Là ngừng không cho trẻ bú mẹ, đây là giai đoạn chuyển giao
vai trò cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng từ sữa mẹ (ở giai đoạn đầu)
tới vai trò của các thực phẩm trong bữa ăn gia đình [6].
Lợi ích của sữa mẹ

1.2.

Nuôi con bằng sữa mẹ mang lại nhiều lợi ích to lớn. Nó tác động đến sự
sống còn, tình trạng dinh dưỡng và sự phát triển của trẻ. UNICEF đã coi nuôi
con bằng sữa mẹ là một trong 4 biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe
của trẻ em [10]. Hiểu rõ những lợi ích của sữa mẹ đem lại những hiệu quả to
lớn giúp bà mẹ thực hành đúng cách cho con bú, trẻ đạt được sự phát triển tối
ưu.
1.2.1.


Lợi ích đối với trẻ
Sữa mẹ là chất dinh dưỡng hoàn hảo dễ tiêu hóa và hấp thu:
Sữa mẹ là nguồn cung cấp dinh dưỡng quan trọng của trẻ nhỏ. Nó có thể

đáp ứng tới hơn một nửa nhu cầu năng lượng khi đứa trẻ đang ở tháng tuổi từ
6 – 12 tháng và đáp ứng 1/3 nhu cầu năng lượng của trẻ từ 12 – 24 tháng tuổi.
Hơn nữa, sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng thiết yếu cho trẻ khi bị bệnh và bú mẹ
làm giảm tỷ lệ tử vong ở những trẻ bị suy dinh dưỡng. Ngoài ra trẻ được bú
mẹ khi còn nhỏ thì nguy cơ thừa cân, béo phì thấp hơn ở trẻ không được bú
mẹ [11].


Thành phần dinh dưỡng


Hàm lượng

Đơn vị đo lường

Nước

88.3

g

Năng lượng

61.0

Kcal

Protein

1.5

g

Lipid

3.0

g

Glucid


700

g

Celluloza

0.0

g

Đường

6.89

g

Calci

34.0

mg

0.1

mg

Phospho

2


mg

Magie

15

mg

Vitamin C

6

mg

Vitamin B1

0.01

mg

Vitamin B2

0.04

mg

Vitamin PP

0.1


mg

Vitamin B6

0.01

mg

Vitamin B12

0.05

μg

Vitamin A

90.

μg

Vitamin D

0.1

μg

Vitamin E

0.08


mg

Vitamin K

0.3

μg

Acid béo không no

2.01

g

Acid béo no

2.16

g

Bảng 2.1: Thành phần các chất dinh dưỡng có trong 100g sữa mẹ
[12]


Protein: hàm lượng protein trong sữa mẹ tuy ít hơn sữa bò nhưng có đủ
các acid amin cần thiết và có tỷ lệ cân đối. Protein của sữa mẹ chủ yếu là các
α-lactambumin chiếm 80% tổng lượng protein trong sữa mẹ nên khi vào dạ
dày sữa thủy phân thành các phân tử nhỏ, dễ tiêu hóa. Ngược lại, trong sữa
bò, thành phần protein chủ yếu là casein, khi vào dạ dày kết tủa thành thể tích

lớn khó tiêu hóa. Ngoài ra trong sữa mẹ còn có các thành phần protein khác
như casein chiếm 20%, albumin, β-lactoglobbulin, globulin miễn dịch và các
glycoprotein khác [8].
Lipid: sữa mẹ có chứa các acid béo cần thiết như acid linoleic
(omega3), acid linolenic (omega 6) cần thiết cho sựa phát triển của não, mắt
và sự bền vững mạch máu của trẻ. Lipid của sữa mẹ dễ tiêu hóa hơn vì có mẹ
lipase – enzyme xúc tác cho quá trình thủy phân chất béo. Thành phần lipid
trong sữa mẹ có vai trò chủ đạo trong sự tăng trưởng và phát triển của trẻ,
cung cấp hơn 50% nhu cầu về năng lượng, các acid béo cần thiết và
cholesterol [8].
Lactose: hàm lượng lactose trong sữa mẹ có nhiều hơn sữa bò, cung
cấp thêm nguồn năng lượng cho trẻ. Một số lactose vào ruột chuyển thành
acid lactic giúp cho sự hấp thu calci và muối khoáng. Trong sữa mẹ có chủ
yếu là β-lactose là môi trường tốt cho vi khuẩn Lactobacillus bifidus – một
loại vi khuẩn có lợi, lấn át vi khuẩn gây bệnh như E.coli [8].
Vitamin: sữa mẹ có đủ vitamin để cung cấp cho trẻ tròn 4 – 6 tháng đầu
khi mẹ được ăn uống đầy đủ. Sữa mẹ có nhiều vitamin A, trẻ bú sữa mẹ
phòng được bệnh khô mắt do thiếu vitaminA [8].
Muối khoáng: Calci trong sữa mẹ có ít hơn trong sữa bò nhưng lại dễ
hấp thu và thỏa mãn nhu cầu của trẻ. Sắt trong sữa mẹ hấp thu cao hơn sữa bò
do đó trẻ được bú mẹ ít bị còi xương và thiếu máu do thiếu sắt [8].




Sữa mẹ chứa nhiều yếu tố quan trọng bảo vệ cơ thể trẻ mà không một
thức ăn nào có thể thay thế được:
Một số kháng thể từ mẹ truyền qua rau thai đến bào thai đã giúp cho trẻ

mới đẻ có sức đề kháng và miễn dịch một số bệnh đặc biệt trong 4 – 6 tháng

đầu trẻ không mắc các bệnh như sởi, cúm, ho gà. Sữa mẹ vô khuẩn, sạch sẽ,
trẻ bú trực tiếp ngay nên vi khuẩn không có điều kiện phát triển, trẻ ít bị tiêu
chảy [8].
Ngoài ra, sữa mẹ còn có các chất kháng khuẩn khác như Globulin miễn
dịch IgA, Lactoferin, Lysozym,… có tác dụng kìm hãm, ức chế sự phát triển
của các vi khuẩn gây bệnh cho trẻ. Do đặc tính kháng khuẩn của sữa mẹ mà tỷ
lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ bú mẹ thấp hơn so với trẻ được nuôi nhân tạo
[8].


Sữa mẹ giúp phát triển trí não hoàn hảo cho trẻ:
Sữa mẹ không chỉ giúp trẻ phát tiển tốt về thể chất mà phát triển cả về

trí não. Trẻ bú mẹ được cung cấp Taurine là thành phần quan trọng trong các
mô tế bào đặc biệt là tế bào não. Đồng thời các acid béo thiết yếu như omega
3 và omega 6 là tiền tố của DHA và ARA sẽ tham gia vào quá trình hình thành
màng tế bào não và võng mạc giúp trẻ thông minh và có thị lực tốt. Ngoài ra,
trẻ còn có thể hấp thu tốt sắt và vitamin C có sẵn trong sữa mẹ để thúc đẩy
quá trình phát triển trí não [13].


Tác dụng chống dị ứng của sữa mẹ:
Trẻ bú sữa mẹ thường không bị dị ứng, bị eczema như một số trẻ ăn sữa

bò vì IgA tiết cùng với đại thực bào có tác dụng chống dị ứng, ức chế hoạt
động của một số virus [8]. Đối với những trẻ có nguy cơ cao bị dị ứng, có
bằng chứng cho thấy trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu, giảm nguy
cơ mắc bệnh viêm da cơ địa và dị ứng sữa bò trong 2 năm đầu đời so với trẻ



ăn sữa công thức [2].
1.2.2.

Nuôi con bằng sữa mẹ có tác dụng bảo vệ sức khỏe của bà mẹ
Cho trẻ bú sớm sau sinh có tác dụng co hồi tử cung, cầm máu sau đẻ

cho bà mẹ để phòng chống thiếu máu sau khi sinh và nhanh hết sản dịch do
động tác bú của trẻ kích thích tiết oxytoxin giúp co hồi tử cung [8].
Cho trẻ bú đúng, bú đủ làm kinh nguyệt chậm trở lại, giúp mẹ chậm có
thai lại, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình (do prolactin tiết ra khi trẻ bú có
tác dụng ức chế sự rụng trứng). Cho trẻ bú mẹ giúp giảm nguy cơ ung thư vú,
ung thư tử cung ở phu nữ tiền mãn kinh. Bên cạnh đó còn giúp giảm căng
thẳng, giảm trầm cảm cho bà mẹ sau khi sinh [8].
Nuôi con bằng sữa mẹ giúp bà mẹ sớm lấy lại vóc dáng ban đầu do sự
tiêu thụ tích cực nguồn năng lượng qua sữa mẹ, an toàn mà không gây ảnh
hưởng đến sức khỏe.
1.2.3.

Nuôi con bằng sữa mẹ giúp tăng tình cảm mẹ con
Nuôi con bằng sữa mẹ giúp cho bà và trẻ em hình thành mối quan hệ

gần gũi yêu thương, trẻ ít khi quấy khóc [8]. Đây là yếu tố tâm lý quan trọng
giúp cho sự phát triển hài hòa của trẻ.
1.2.4.

NCBSM thuận tiện và ít chi phí hơn nuôi nhân tạo
Sữa mẹ luôn có sẵn và ở nhiệt độ thích hợp cho trẻ ăn được ngay,

không cần đun nấu, không cần dụng cụ pha chế, giá thành rẻ hơn nhiều so với
sữa mẹ và sữa công thức, tiết kiệm cho bà mẹ cả thời gian, tiền bạc và công

sức.
Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp tự nhiên, kinh tế và hiệu quả để
bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Kinh nghiệm thực tế và kết quả của nhiều
nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu
sau sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời có thể cứu sống được trên


1 triệu trẻ em hàng năm, đây là can thiệp có hiệu quả nhất trong tất cả các can
thiệp cứu sống trẻ em [14].
1.3.

Kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ

1.3.1.

Thời gian nuôi con bằng sữa mẹ
Bú sớm sau sinh: mẹ nên cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh,

bú mẹ càng sớm càng tốt và không cần cho trẻ ăn hay uống bất kì loại thức ăn
nào khác trước khi bú mẹ lần đầu. bú mẹ sớm giúp cho trẻ có thể bú được sữa
non, là nguồn cung cấp năng lượng cao hoàn hảo về dinh dưỡng và nhiều
kháng thể giúp bảo vệ trẻ sau khi sinh. Đồng thời, động tác bú của trẻ có tác
dụng kích thích tuyến yên sản xuất ra prolactin và oxytoxin. Trẻ bú sớm kích
thích sữa mẹ tiết ra sớm hơn, nhiều hơn [6].
Cai sữa: Trẻ được bú mẹ càng lâu càng tốt, không nên cái sữa cho trẻ
trước 12 tháng mà nên cho trẻ bú kéo dài từ 18 – 24 tháng tuổi. Nên cai sữa từ
từ để trẻ có điều kiện thích nghi với chế độ ăn mới. Cai sữa đột ngột, trẻ bỏ bú
ngay, thậm chí tách trẻ ra khỏi người mẹ dễ gây sang chấn tinh thần cho trẻ,
khiến trẻ không chịu ăn. Khi trẻ bị bệnh, nhất là tiêu chảy cần cho trẻ bú mẹ
nhiều hơn bình thường, không nên cai sữa vì trẻ dễ bị SDD [6].

1.3.2.

Cách cho trẻ bú
Tùy theo tư thế thoải mái của bà mẹ, tư thế cho trẻ bú đúng tốt nhất là

tư thế ngồi, nhất là những tháng đầu tiên khi trẻ còn nhỏ thì nên tránh cho trẻ
bú ở tư thế nằm, vừa có thể gây khó khăn cho trẻ trong việc mút và nuốt sữa
lại vừa có thể gây nguy hiểm cho trẻ khi trẻ bị sặc sữa. Các bà mẹ chú ý giữ
đầu vú sạch sẽ, trước khi cho con bú không nên vắt những giọt sữa đầu. Tư
thế thích hợp nhất cho con bú là ngồi hoặc nửa ngồi, một chân gác lên ghế, bế
trẻ áp sát vào lòng, đầu và thân trẻ phải nằm trên một đường thẳng, mẹ đỡ
toàn bộ thân trẻ. Các bà mẹ cũng nhớ là phải kẹp hai ngón tay vào đầu vú để
sữa chảy ra vừa đủ, không làm trẻ bị sặc. Miệng của trẻ mở rộng để ngậm sâu


vào hết quầng đen của vú. Môi dưới hướng ra ngoài, cằm tỳ vào vú mẹ. Má
trẻ căng phồng [8].
Trước khi cho bú mẹ nên dùng nước ấm và một khăn bằng gạc mỏng và
mềm lau sạch đầu vú. Tìm chỗ ngồi thoài mái, lưng thẳng và có chỗ để dựa
cho vững chức. Một tay đỡ đầu trẻ và ấp bé vào lòng, hai chân trẻ để lên đùi
mẹ.
Sau khi bú xong nên bế trẻ một lúc 20 – 30 phút rồi mới đặt trẻ nằm để
tránh nôn trớ sau khi ăn no. Cho trẻ bú kiệt một bên vú trước rồi chuyển sang
vú còn lại để trẻ nhận được sữa cuối giàu chất béo [8].
Số lần cho bú tùy theo nhu cầu của trẻ , không nhất thiết phải đúng giờ
giấc, ban đêm vẫn cho trẻ bú nếu trẻ đòi ăn. Trung bình từ 2 – 3 giờ cho ăn 1
lần [6].
Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ

1.4.


Trong những năm gần đây, nuôi con bằng sữa mẹ được quan tâm hàng
đầu trong lĩnh vực dinh dưỡng trẻ em. Đã có nhiều hội nghị trong nước và
quốc tế giành riêng cho vấn đề này vì tính thực tế và tính ưu việt của nó. Kết
quả của nhiều nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định cho bú sớm trong vòng
vài giờ đầu sau sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời có thể cứu
sống 1 triệu trẻ em hàng năm, đây là một can thiệp có hiệu quả nhất trong tất
cả can thiệp cứu sống trẻ em [14].


Nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ phát triển tốt hơn:
Do sữa mẹ có thành phần dinh dưỡng và tính chất ưu việt nên việc nuôi

con bằng sữa mẹ là biện pháp dinh dưỡng tối ưu dành cho trẻ. Nhiều nghiên
cứu cho thấy có sự liên quan giữ tình trạng dinh dưỡng của trẻ với việc thực
hành cho con bú, những trẻ được nuôi bằng sữa mẹ phát triển tốt hơn (Đào
Ngọc Diễn, 1991, Bùi Thị Thu Nhuận và cộng sự, 1986). Morow và cộng sự
(1988) cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa sự phát triển hiểu biết của trẻ 2


tháng đầu với việc bú mẹ và nhận thấy rằng có sự khác nhau có ý nghĩa giữa
những trẻ được bú mẹ hoàn toàn và những trẻ ăn nhân tạo [15]. Trẻ bú sữa mẹ
thường phát triển trí tuệ thông minh hơn trẻ ăn sữa bò [8].
Theo WHO có đến 500 triệu trẻ em bị SDD ở các nước đang phát triển,
gây tử vong 10 triệu trẻ em hàng năm. Tỷ lệ SDD ở nước ta năm 2002 là
30,1% trong đó có 25,3% là SDD nhẹ, SDD vừa là 4,5% và SDD nặng là
0,3%. Một trong những nguyên nhân chính chủ yếu là do bà mẹ thiếu kiến
thức về nuôi con bằng sữa mẹ [8].
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Ninh tại Thái Nguyên cũng chỉ ra rằng
những trẻ thiếu nuôi dưỡng bằng sữa mẹ, ăn bổ sung sớm có tỷ lệ bị thiếu

máu và thiếu vitamin A ở mức độ trầm trọng hơn những trẻ được bú mẹ hoàn
toàn trong 6 tháng đầu đời [16].
Tổ chức UNICEF ước tính hàng năm có khoảng 1 triệu trẻ em trên thế
giới chết do các nguyên nhân có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc
không hoặc thiếu được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ [17]. Ở châu Mĩ La tinh hàng
năm có khoảng 500 nghìn trẻ em dưới 5 tuổi chết do tiêu chảy mà hầu hết xảy
ra ở trẻ em dưới 1 tuổi. Người ta nhận thấy rằng nguy cơ chết do tiêu chảy ở
trẻ em ăn nhân tạo cao hơn gấp 14 lần so với trẻ bú sữa mẹ [18], [19].
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Trọng An, Đào Ngọc Diễn (1983)
ở các trẻ nội và ngoại thành cũng chỉ rõ tỷ lệ suy dinh dưỡng và mắc bệnh tiêu
chảy, NKHHCT ở trẻ dưới 12 tháng cao hơn một cách có ý nghĩa ở nhóm trẻ
không được bú mẹ hoàn toàn so với những trẻ được bú mẹ hoàn toàn [20].
Theo tài liệu của WHO, những trẻ từ 0 – 2 tháng tuổi mà không được
bú mẹ thì tỷ lệ tiêu chảy cao hơn 2 lần và nguy cơ chết do những ảnh hưởng
của nó tăng gấp 25 lần so với những trẻ được bú mẹ. Hơn thế nữa, những trẻ
không được bú mẹ nguy cơ chết do viêm phổi gấp 4 lần so với những trẻ được


1.5.
1.5.1.


1.5.2.







×