Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ LOAN
NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC BẢN ĐỊA GÂY TRỒNG
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LÂM SẢN NGOÀI GỖ
TẠI VÙNG ĐỆM VƢỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN, NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ LOAN
NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC BẢN ĐỊA GÂY TRỒNG
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LÂM SẢN NGOÀI GỖ
TẠI VÙNG ĐỆM VƢỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60 62 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. GS.TS. ĐẶNG KIM VUI
2. THS. ĐỖ HOÀNG SƠN
THÁI NGUYÊN, NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi, những số liệu
và kết quả trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chƣa hề đƣợc sử dụng
để bảo vệ ở một học vị nào khác.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã đƣợc cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc./.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2010
Tác giả
Nguyễn Thị Loan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn đƣợc hoàn thành tại trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
theo chƣơng trình đào tạo cao học lâm nghiệp, chuyên ngành Lâm học khoá
16, từ năm 2008 - 2010.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã nhận đƣợc sự giúp đỡ
quý báu của Khoa sau đại học, các thầy cô giáo Trƣờng Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên; Ban quản lý vƣờn quốc gia Tam Đảo, Hạt kiểm lâm Tam Đảo,
Lãnh đạo và đồng nghiệp Hạt Kiểm lâm Đồng Hỷ, nhân dịp này, tác giả xin
chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Trƣớc hết, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS.
Đặng Kim Vui, Ths Đỗ Hoàng Sơn - Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, đã dành nhiều tình cảm tốt đẹp và trực tiếp hƣớng dẫn khoa học giú p
tác giả hoà n thà nh bản luận văn này.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới UBND huyện Tam Đảo, UBND 2 xã Đại
Đình và Hồ Sơn, Ban quản lý vƣờn Quốc gia Tam đảo, Lãnh đạo và tập thể cán
bộ - Hạt Kiểm lâm Tam Đảo, Lãnh đạo và đồng nghiệp Hạt Kiểm lâm Đồng
Hỷ, tập thể hội LSNG và các hộ gia đình các xã Đại Đình - Hồ Sơn,… đã tạo
mọi điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập số liệu ngoại nghiệp.
Cuối cùng tác giả xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã dành nhiều tình cảm động viên, cổ vũ tác giả trong suốt quá trình
làm luận văn.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2010
Tác giả
Nguyễn Thị Loan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Khái quát về kiến thức bản địa và vai trò của kiến thức bản địa 4
1.1.1. Khái quát về kiến thức bản địa 4
1.1.2. Tầm quan trọng của kiến thức bản địa 9
1.2. Một số khái niệm có liên quan 11
1.2.1. Khái niệm về tính bền vững 11
1.2.2. Định nghĩa về Lâm sản ngoài gỗ 12
1.3. Thực trạng và vai trò LSNG Việt Nam 14
1.3.1. Thực trạng nguồn lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam 14
1.3.2. Vai trò của lâm sản ngoài gỗ 16
1.3. Các nghiên cứu có liên quan đến LSNG 18
1.3.1 Nghiên cứu ở nƣớc ngoài 18
1.3.2. Nghiên cứu ở Việt Nam 23
Chƣơng 2: MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1. Mục tiêu 31
2.1.1. Mục tiêu chung 31
2.1.2. Mục tiêu cụ thể 31
2.2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 31
2.2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 31
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu 32
2.3. Nội dung nghiên cứu 32
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu 33
2.4.1. Phƣơng pháp tổng quát 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
2.4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể 34
2.4.2.1. Nguồn thông tin và chọn địa điểm thu thập thông tin 34
2.4.2.2. Phƣơng pháp điều tra thu thập các thông tin về thực trạng
gây trồng và xác định loài cây LSNG có giá trị kinh tế 34
2.4.2.3. Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trƣờng của các
mô hình gây trồng cây LSNG 37
2.4.2.4. Phƣơng pháp đánh giá các biện pháp kỹ thuật gây trồng
một số loài cây LSNG có giá trị kinh tế 37
Chƣơng 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI KHU
VỰC NGHIÊN CỨU 39
3.1. Điều kiện tự nhiên 39
3.1.1. Vị trí địa lý 39
3.1.2. Đặc điểm địa hình 39
3.1.3. Điều kiện thổ nhƣỡng 40
3.1.4. Đặc điểm khí hậu 40
3.1.5. Chế độ thuỷ văn 41
3.1.6. Tài nguyên thực vật 42
3.1.7. Tài nguyên động vật 42
3.2. Điều kiện kinh tế xã hội 43
3.2.1. Dân số, lao động và việc làm 43
3.2.2. Đặc điểm kinh tế 44
3.2.3. Tình hình sản xuất kinh doanh 44
3.2.3.1. Hiện trạng sử dụng đất nông - lâm nghiệp khu vực
nghiên cứu 44
3.2.3.2. Sản xuất nông nghiệp 47
3.2.3.3. Sản xuất lâm nghiệp 47
3.2.3.4. Canh tác vƣờn hộ 48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
3.2.3.5. Chăn nuôi 48
3.2.4. Cơ sở hạ tầng 49
3.2.4.1. Hệ thống giao thông 49
3.2.4.2. Thuỷ lợi 49
3.2.4.3. Hệ thống điện 49
3.2.4.4. Hệ thống bƣu chính 49
3.2.4.5. Hệ thống y tế 50
3.2.4.6. Giáo dục 50
3.3. Đánh giá chung về địa bàn nghiên cứu 51
3.3.1. Những thuận lợi 51
3.3.2. Khó khăn 51
3.3.3. Mức độ tác động vào Vƣờn quốc gia Tam Đảo 52
3.3.4. Một số định hƣớng cho giải quyết mâu thuẫn giữa bảo tồn và
phát triển 53
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 55
4.1. Kết quả khảo sát các nhóm LSNG chính và định hƣớng phát triển 55
4.1.1. Cây thuốc 55
4.1.2. Măng tre 57
4.1.3. Cây cảnh 59
4.1.4. Cây lấy gỗ đa mục đích và cây ăn quả 61
4.1.5. Các sản phẩm sợi 62
4.2. Đánh giá thực trạng gây trồng và phát triển các loài cây LSNG ở
khu vực nghiên cứu 63
4.2.1. Thực trạng gây trồng và phát triển một số loài cây LSNG chủ
yếu của khu vực nghiên cứu 63
4.2.2. Xác định cơ cấu cây trồng LSNG có giá trị và tiềm năng phát
triển tại các xã nghiên cứu 67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
4.2.3. Tình hình khai thác, sử dụng và thị trƣờng tiêu thụ lâm sản
ngoài gỗ ở một số thôn trên địa bàn nghiên cứu 70
4.2.3.1. Tình hình khai thác và sử dụng 70
4.2.3.2. Thị trƣờng tiêu thụ LSNG ở một số thôn trên địa bàn
nghiên cứu 73
4.3. Đánh giá về mặt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trƣờng của một số
mô hình gây trồng LSNG có giá trị cao hiện nay ở địa bàn
nghiên cứu 76
4.3.1. Hiệu quả kinh tế của một số mô hình 76
4.3.1.1. Mô hình gây trồng cây Sa nhân tím (Amomum longiligulare) 77
4.3.1.2. Mô hình gây trồng cây tre Bát độ (Đendrocalamus latiflours) 77
4.3.1.3. Mô hình Gối hạc dƣới tán rừng 78
4.3.2. Hiệu quả xã hội của các mô hình gây trồng cây LSNG 80
4.3.3. Hiệu quả môi trƣờng của các mô hình gây trồng cây LSNG 81
4.3.3.1. Hiệu quả theo hƣớng tích cực 81
4.3.3.2. Hiệu quả theo hƣớng tiêu cực 82
4.4. Tổng kết, đánh giá các kỹ thuật bản địa trong gây trồng một số
loài cây LSNG có giá trị kinh tế 83
4.4.1. Cây Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu) 83
4.4.2. Cây gối hạc (Leea rubra Blunne) 85
4.4.3. Cây Ba kích (Morinda officinalis How) 87
4.4.4. Cây Trám đen (Canarium tramdenum) 89
4.4.5. Kỹ thuật trồng Trám trắng (Canarium album) 91
4.4.6. Cây rau Sắng (Melientha acuminata) 91
4.5. Nghiên cứu kiến thức bản địa liên quan tới khai thác, sử dụng và
phát triển lâm sản ngoài gỗ 94
4.5.1. Các quy ƣớc về khai thác, sử dụng và phát triển lâm sản
ngoài gỗ 94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vii
4.5.2. Kiến thức, kinh nghiệm trồng một số loài LSNG có giá
trị cao 95
4.5.3. Kinh nghiệm khai thác, sử dụng một số loài lâm sản ngoài gỗ 99
4.5.4. Đánh giá chung về kiến thức bản địa của ngƣời dân 103
4.6. Đề xuất các giải pháp phát triển một số loài cây LSNG có giá trị
cao tại vùng đệm VQG Tam Đảo 104
4.6.1.Giải pháp về chính sách 105
4.6.2. Giải pháp kỹ thuật 105
4.6.3. Giải pháp thực hiện và quản lý 107
Chƣơng 5: KẾT LUẬN, TỒN TẠI, KHUYẾN NGHỊ 108
5.1. Kết luận 108
5.2. Tồn tại 111
5.3. Khuyến nghị 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
PHỤ LỤC: MỘT SỐ HÌNH ẢNH NHÂN GIỐNG, TRỒNG LSNG
TẠI VÙNG ĐỆM VQGTĐ 120
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LSNG
Lâm sản ngoài gỗ
TV
Thực vật
LSP
Lâm sản phụ
VQG
Vƣờn Quốc gia
VQGTĐ
Vƣờn Quốc gia Tam Đảo
NN&PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
DTTN
Diện tích tự nhiên
DTLN
Diện tích lâm nghiệp
NN
Nông nghiệp
QLBVR
Quản lý bảo vệ rừng
FAO
Tổ chức nông lƣơng Liên Hiệp quốc
NTFP
Non timber forest products
NWFP
Non wood forest producst
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ix
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Dân số và lao động khu vực nghiên cứu 43
Bảng 3.2: Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp tại khu vực nghiên cứu 45
Bảng 3.3. Hiện trạng sƣ̉ dụ ng đấ t lâm nghi ệp của 2 xã Hồ Sơn và Đại
Đình năm 2009 46
Bảng 3.4. Thống kê các loại cây trồng ăn quả 48
Bảng 3.5. Thống kê các loại gia súc gia cầm ở 2 xã 48
Bảng 3.6. Mạng lƣới nhân viên y tế 50
Bảng 3.7. Hiện trạng giáo dục 50
Bảng 4.1. Các loài cây LSNG giá trị kinh tế đƣợc gây trồng ở 2 xã
thuộc khu vực nghiên cứu 64
Bảng 4.2. Các loài LSNG phân theo công dụng đƣợc gây trồng ở 2 xã
thuộc khu vực nghiên cứu 65
Bảng 4.3. Thố ng kê chi tiế t diệ n tích gây trồ ng 1 số loài cây LSNG của
2 xã thuộc khu vực nghiên cứu, năm 2009 66
Bảng 4.4: Sản lƣợng khai thác một số loài LSNG chủ yếu tại 2 xã vùng
đệm thuộc khu vực nghiên cứu, năm 2009 67
Bảng 4.5. Xếp hạng ƣu tiên cơ cấu cây trồng LSNG ở Đại Đình 68
Bảng 4.6. Xếp hạng ƣu tiên cơ cấu cây trồng LSNG ở Hồ Sơn 69
Bảng 4.7. Sự thu hút công lao động trong các mô hình trồng LSNG 81
Bảng 4.8. Kỹ thuật bản địa trong gây trồng Sa nhân tím 83
Bảng 4.9. Kỹ thuật bản địa trong gây trồng cây Gối hạc 86
Bảng 4.10. Kỹ thuật bản địa trong gây trồng trám đen của ngƣời dân
khu vực nghiên cứu 89
Bảng 4.11. Tổng kết các biện pháp kỹ thuật áp dụng trong mô hình
trồng rau Sắng 92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kiến thức bản địa là vốn quý của cộng đồng các dân tộc nƣớc ta, là một
nguồn lực quý giá đối với quá trình phát triển. Trong một số trƣờng hợp, kiến
thức bản địa có thể tƣơng xứng hoặc ƣu việt hơn kiến thức đƣa từ bên ngoài
vào. Do vậy, trong những nỗ lực phát triển, chúng ta cần coi trọng và sử dụng
đến mức tối đa kiến thức bản địa. Ngày nay, mặc dù có nhiều chuyên gia về
phát triển nhận thức đƣợc tiềm năng của kiến thức bản địa, song vấn đề này
vẫn bị lãng quên. Lý do chính là do thiếu sự chỉ dẫn về việc ghi chép lại và áp
dụng kiến thức bản địa.
Thật đáng tiếc là khi nhận thức về giá trị của kiến thức bản địa đang
đƣợc nâng cao, đặc biệt là khả năng đóng góp của nó vào việc phát triển bền
vững và xoá đói giảm nghèo, thì cũng là lúc những kiến thức này rơi vào tình
trạng bị đe dọa nghiêm trọng. Những kiến thức này có nguy cơ biến mất
không chỉ do tác động của sự thay đổi toàn cầu với tốc độ chóng mặt, mà còn
bởi sự thiếu hụt khả năng và điều kiện cần thiết để ghi nhận, đánh giá, phê
chuẩn, bảo vệ, phổ biến chúng ở các quốc gia.
Thực tế đã cho thấy rằng, tại các cộng đồng dân tộc sống trong và gần
rừng nếu kết hợp hài hoà giữa kiến thức bản địa và kỹ thuật mới sẽ đƣa đến
một sự phát triển có hiệu quả và bền vững, đƣợc cộng đồng hƣởng ứng tích
cực. Vì vậy, việc tìm hiểu, lƣu giữ và phát triển kiến thức bản địa của ngƣời
dân có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển kinh tế - xã hội, môi trƣờng
vùng miền núi. Việc hiểu biết kiến thức bản địa là nền tảng của các phƣơng
pháp phát triển có sự tham gia của ngƣời dân. Khi những ứng dụng tích cực
của kiến thức bản địa trở thành một phần của nỗ lực phát triển, lấy con ngƣời
làm trung tâm, có sự tham gia của ngƣời dân thì chúng ta mới có thể nhận
thấy đƣợc tiềm năng của kiến thức bản địa trong phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Theo quyết định số 136/TTg ngày 06/3/1996 của Thủ tƣớng Chính phủ
và quyết định số 273/NN-PTLN/QĐ ngày 20/02/1977 của Bộ trƣởng Bộ
Nông nghiệp và PTNT: Diện tích vùng đệm Vƣờn quốc gia Tam Đảo là
15.515ha., thuộc 20 xã xung quanh châm núi Tam Đảo, trong đó huyện Đại
Từ (Thái Nguyên) có 10 xã; huyện Sơn Dƣơng (Tuyên Quang) có 4 xã; 6 xã
của Vĩnh Phúc gồm Lập thạch (1 xã), Tam Dƣơng (3xã), Bình Xuyên (2 xã).
Theo kết quả điều tra thống kê năm 2009, tổng dân số vùng đệm vƣờn quốc
gia Tam Đảo có gần 150.000 ngƣời với 30.520 hộ thuộc 8 dân tộc cùng sinh
sống, trong đó dân tộc Kinh đông nhất chiếm 63 %, 7 dân tộc còn lại xếp theo
thứ tự giảm gần nhƣ sau: Sán dìu, Sán chỉ, Dao, Tài, Nùng, Cao lan, Hoa. Lực
lƣợng lao động trong độ tuổi là 89.500 ngƣời, chiếm 60 % tổng số nhân khẩu.
Dân cƣ vùng đệm giữ vai trò quan trọng và liên quan mật thiết đến sự
suy giảm hay phát triển các hệ sinh thái rừng trong Vƣờn quốc gia Tam Đảo.
Mật độ dân số đông, diện tích canh tác ít, sản xuất chƣa phát triển. Vấn đề
bức xúc hiện nay là thiếu công ăn việc làm, trình độ dân trí thấp, đời sống một
bộ phận lớn dân cƣ còn gặp khó khăn tạo nên một sức ép rất lớn vào Vƣờn
quốc gia Tam Đảo. Trƣớc những khó khăn về đời sống, nhiều ngƣời dân vùng
đệm sống dựa vào việc khai thác trộm gỗ, củi, măng, dƣợc liệu, săn bắt động
vật hoang dã, lấn chiếm đất rừng làm nƣơng rẫy…
Trong khu vực Vƣờn quốc gia Tam Đảo, các sản phẩm lâm sản ngoài
gỗ (LSNG) tạo ra một nguồn sinh kế và thu nhập quan trọng cho ngƣời dân
địa phƣơng. Nguồn lâm sản ngoài gỗ (LSNG) cung cấp cho ngƣời dân củi
đun, tre, nứa, thực phẩm, dƣợc liệu,
Trong tổng số hơn 600 loài LSNG đã biết đến đang đƣợc sử dụng và
thu hái từ Vƣờn quốc gia Tam Đảo (Trần Công Khánh và cộng sự, 2000) bao
gồm các cây thuốc, măng tre và mây, cây cảnh, hoa quả, rau, nấm và các loài
mộc nhĩ khác. Nhìn chung, những loài này đƣợc thu hái từ khu rừng đƣợc bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
vệ nghiêm ngặt và trong toàn bộ Vƣờn quốc gia Tam Đảo. Việc thu hái từ
rừng tự nhiên các loài LSNG diễn ra trong quá khứ khiến nhiều loài LSNG
hiện nay đang trở nên khan hiếm, trong đó 46 loài LSNG tại Vƣờn quốc gia
Tam Đảo đã đƣợc liệt vào danh sách những loài bị đe dọa (Bruce Dunn, 2005).
Ngoài các vấn đề về thể chế và quản lý, một trong những giải pháp then
chốt cho bảo tồn LSNG hiện nay tại Vƣờn quốc gia Tam Đảo và nhiều vùng
khác đƣợc xác định là phải giúp ngƣời dân và cộng đồng địa phƣơng phát
triển các chƣơng trình gây trồng LSNG thay vì thu hái chúng từ tự nhiên. Để
có thể thực hiện đƣợc điều này, cần đẩy mạnh các hoạt động sƣu tầm, nghiên
cứu các kiến thức bản địa của ngƣời dân vùng đệm trong gây trồng, phát triển
các LSNG phục vụ cuộc sống và nâng cao thu nhập. Có nhƣ vậy mới có thể
hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng thu hái LSNG từ rừng của ngƣời dân.
LSNG đƣợc trồng bởi các hộ tạo nên một nguồn thu nhập và nguồn sản phẩm
cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của các cộng đồng sinh sống trong và
xung quanh rừng.
Hiện nay tại vùng đệm VQG Tam Đảo, nhiều loài cây LSNG đã và
đang đƣợc ngƣời dân gây trồng. Một số trong những loài đó đã có những
thông tin khoa học về kỹ thuật gây trồng, một số khác đƣợc phát triển trên cơ
sở các kiến thức bản địa. Thực tế chƣa có một nghiên cứu đánh giá, lựa chọn
và phổ biến các kiến thức bản địa có giá trị trong gây trồng một số loài LSNG
tại đây. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, đề tài: "Nghiên cứu kiến thức bản
địa trong gây trồng và phát triển một số loài cây lâm sản ngoài gỗ tại vùng
đệm vườn Quốc gia Tam Đảo" đặt ra là hết sức cần thiết và có ý nghĩa khoa
học lẫn thực tiễn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về kiến thức bản địa và vai trò của kiến thức bản địa
1.1.1. Khái quát về kiến thức bản địa
Theo Warren (1991), khái niệm kiến thức bản địa hay địa phƣơng đƣợc
sử dụng để phân biệt các kiến thức do một cộng đồng nhất định sáng tạo ra,
nó khác hệ thống kiến thức hoặc khoa học quốc tế. Về sau này đôi khi ngƣời
ta nói đến hệ thống kiến thức „Phƣơng Tây‟ do các trƣờng đại học, trung tâm
nghiên cứu của chính phủ và doanh nghiệp tƣ nhân sáng tạo ra. Kiến thức
nbản địa có thể là hiểu biết „kỹ thuật‟ sâu sắc hoặc sự thông thái do ngƣời dân
ở một vùng nhất định sáng tạo và phát triển, thông qua nhiều năm quan sát,
khảo nghiệm các hiện tƣợng tự nhiên xung quanh họ.
Dewes (1983) cho rằng kiến thức của dân địa phƣơng là một hợp phần
thúc đẩy phát triển. Ông so sánh giữa kiến thức bản địa với bộ lông chim, vì
„con chim chỉ có thể bay nếu có đƣợc bộ lông‟. Thuật ngữ „kiến thức bản địa‟
đồng nghĩa với „kiến thức địa phƣơng‟. Tuy nhiên các chuyên gia phát triển
không đồng ý với việc đánh đồng truyền thống với các kiến thức riêng biệt
của một ngƣời, bởi vì từ „truyền thống‟ bị gắn với một số hàm ý từ thế kỷ 19
là „đơn giản, mông muội và trì trệ‟.
Ngƣời ta phân biệt hệ thống kiến thức phƣơng Tây với hệ thống kiến
thức bản địa trên cơ sở phƣơng pháp, biểu hiện tồn tại và bối cảnh. Trƣớc tiên,
hệ thống kiến thức phƣơng Tây là chung cho toàn thế giới, do nền giáo dục
phƣơng Tây ảnh hƣởng tới rất nhiều văn hoá trên thế giới. Thứ hai, nó đƣợc
trải qua quá trình quan sát, khảo nghiệm và phê chuẩn, tất cả các giai đoạn
đều đƣợc ghi thành tƣ liệu cẩn thận. Điều này không có đƣợc đối với hệ thống
kiến thức bản địa, nhất là khâu ghi chép thành tƣ liệu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Thuật ngữ "kiến thức chính thống" (formal knowledge) dùng để chỉ
những hệ thống kiến thức phát triển phần lớn dựa trên nền tảng hệ thống giáo
dục phƣơng Tây. Đó là những kiến thức chuẩn vì nó đƣợc xác nhận trong
những văn kiện, những nguyên tắc, luật lệ, những quy định và cơ sở hạ tầng
kỹ thuật.
Ngƣợc lại, khái niệm kiến thức bản địa hay kiến thức địa phƣơng dùng
để chỉ những thành phần kiến thức hoàn thiện đƣợc duy trì, phát triển trong
một thời gian dài với sự tƣơng tác qua lại rất gần gũi giữa con ngƣời với môi
trƣờng tự nhiên. Kiến thức bản địa là những kinh nghiệm đƣợc thử thách và
đúc rút qua nhiều thế hệ ở các cộng đồng cƣ dân qua thực tiễn sản xuất và đời
sống. Trải qua nhiều thế kỷ, các cộng đồng dân cƣ đã tích góp đƣợc lƣợng lớn
các thông tin, các kỹ năng, tay nghề và công nghệ trong trồng trọt, chăn nuôi,
bảo quản và chế biến lƣơng thực, quản lý tài nguyên thiên nhiên, tổ chức cộng
đồng làng bản
Trên thực tế, kiến thức bản địa và khoa học hiện đại cần đƣợc hiểu là
hai hệ thống kiến thức bổ trợ chứ không cạnh tranh với nhau. Việc đƣa ra mối
liên hệ giữa kiến thức địa phƣơng và kiến thức toàn cầu cũng rất quan trọng
(trong khi vẫn phải tránh xu thế biến kiến thức địa phƣơng thành kiến thức
toàn cầu). Những cố gắng này cũng đã tạo ra sự quan tâm sâu sắc đến hệ
thống kiến thức dựa trên nền tảng truyền thống và văn hoá địa phƣơng và nhu
cầu làm sao để hệ thống này có hiệu lực xét trên quan điểm giáo dục.
Kiến thức bản địa đƣợc hình thành và phát triển là kết quả tƣơng tác
của nhiều yếu tố: Dân số, khoa học, kỹ thuật, phong tục tập quán, chuẩn mực
đạo đức, thể chế và cơ cấu xã hội. Đó là kết quả tích luỹ những kinh nghiệm
to lớn thông qua các quá trình tiếp xúc với thiên nhiên, dƣới áp lực chọn lọc
trong quá trình tiến hóa của sinh quyển và dần dần trở thành thói quen truyền
thống. Nói một cách khác, kiến thức bản địa của một cộng đồng, một dân tộc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
phản ánh tính thích ứng với những điều kiện kinh tế xã hội và sinh thái đặc
thù. Nhƣ vậy, kiến thức bản địa đều là những thứ phải học, phải tiếp xúc mới
có đƣợc, là những thứ đƣợc chia xẻ, là một hệ thống các đặc thù có tính thích
ứng cao.
Trong nỗ lực đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau, các cộng đồng nông
thôn sử dụng „thử nghiệm tò mò, thử nghiệm giải quyết vấn đề, và thử nghiệm
thích nghi‟ (Rhoades & Bebbington 1995). Khi đã đƣợc khẳng định, thì kết
quả đƣợc bổ sung vào khối tri thức của tổ tiên. Thông qua xã hội hoá và
truyền miệng, khối tri thức đó đƣợc truyền tải từ ngƣời già đến thế hệ trẻ. Khó
có sự mai một trong cách lƣu truyền hiểu biết sâu sắc nhƣ trên.
Theo Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc [52], trong cuộc sống và trong
thực tiễn sản xuất, chống đỡ và chinh phục tự nhiên, các cộng đồng đều có
nhiều kinh nghiệm và đƣợc thể hiện dƣới nhiều thể loại:
Ở dạng thông tin: Một vài ví dụ điển hình của dạng này là: Những cây
nào, thực vật nào có thể trồng cùng với nhau. Đó phải chăng là cây muồng
trồng trong nƣơng chè để che bóng; cây keo dậu trồng che bóng cho cây cà
phê; cây đậu đỗ trồng xen với nhiều loại cây trồng hoặc cây hành tỉa theo
luống cải bắp, mùi của cây hành có tác dụng hạn chế sâu hại cây bắp cải
Những loài cây nào là phù hợp nhất dùng cho phủ tủ mặt đất chống xói mòn,
phải chăng đó là thân cây lạc, cây đậu đỗ và cây cốt khí. Những thông tin này
phần lớn mang tính gợi mở còn việc cụ thể hóa lại phụ thuộc vào đặc điểm
cây trồng và tập quán của từng vùng.
Ở dạng kinh nghiệm thực tế và công nghệ: Những kinh nghiệm thực tế
mang tính bản địa cũng rất phong phú, đa dạng. Những kinh nghiệm này trải
qua nhiều năm bổ sung, cải tiến và hoàn thiện phản ánh đầy đủ nội dung của
một công nghệ. ở Tuyên Hóa, Quảng Bình, nông dân thƣờng dùng lá xoan
khô đƣa vào trong chậu vại cùng với đậu xanh, đậu đen, ngô để bảo quản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Nông dân ở một số nơi ngâm bồ hóng có thêm vôi, lá xoan, bã trầu, nƣớc
điếu lấy nƣớc này phun phòng chống sâu hại, sâu bị chết nhƣng không gây
ô nhiễm môi trƣờng. ở Quảng Bình, nông dân thƣờng lấy bồ hóng trộn với
phân gà và vãi vào ruộng lúc buổi sáng có tác dụng rất tốt để diệt sâu hại.
Cách làm ruộng bậc thang san đất hay xếp đá. Phƣơng thức này rất phổ biến ở
vùng cao của các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang
Ở dạng tín ngưỡng: Tín ngƣỡng có thể giữ vai trò quan trọng trong
phƣơng thức kiếm sống và duy trì môi trƣờng sinh thái trong lành ở nhiều
cộng đồng các dân tộc. Rừng thần thánh, rừng linh thiêng là những loại rừng
dùng để bảo vệ, xuất phát từ những nguyên nhân về tín ngƣỡng. Trong thực tế,
những khu rừng này làm nhiệm vụ của rừng đầu nguồn, cung cấp gỗ củi, sản
phẩm rừng và nƣớc cho làng bản.
Ở dạng công cụ: Công cụ thƣờng sử dụng để gieo trồng hoặc thu hoạch.
Những công cụ do ngƣời H'Mông sáng tạo nhƣ "cày Mèo" rất phù hợp cho
việc canh tác trên đất dốc, "dao Mèo" tự chế sắc bén đa dụng hơn bất cứ loại
dao nào
Ở dạng thí nghiệm: Đó là sự gieo trồng có tính tích hợp những giống
loài cây mới vào trong các hệ thống nông nghiệp hiện hành dƣới dạng
trồng xen, trồng cây che bóng; băng xanh chống xói mòn, hàng cây chắn
gió Đó là những thay đổi và biến thể trong thực tiễn gieo trồng, nhƣng
dạng này nhiều khi đã trở thành những câu ca dao, tục ngữ để dễ truyền đạt
cho các thế hệ.
Ở dạng nguồn nhân lực: Trong cuộc sống và sản xuất, những kiến thức
bản địa đã đào tạo những chuyên gia giàu kinh nghiệm nhƣ những ngƣời hòa
giải ở nông thôn; những ngƣời có tay nghề cao và khéo léo nhƣ thợ rèn, thợ
nguội. Trong các tổ chức cộng đồng nhƣ tổ chức dòng họ, tổ chức ngƣời cao
tuổi hoặc các nhóm, tổ đổi công lao động.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Về sinh học: Đó là những kinh nghiệm trong chăn nuôi và chọn giống
động vật. Nếu chúng ta lên miền núi phía Bắc đến với ngƣời H'Mông sẽ thấy
"lợn Mèo" và "chó Mèo" đã trở thành đỉnh cao của công tác tuyển chọn.
Ngoài ra những kinh nghiệm về thuần hóa trâu, bò, ngựa dùng kéo cày, kéo
xe cũng đã trở thành hình tƣợng văn hóa độc đáo của đông đảo các cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Đó là những kinh nghiệm trong chọn giống cây trồng mà
điển hình là đồng bào H'Mông ở Hà Giang thâm canh ngô trên các hốc đá đã
chọn đƣợc giống ngô "chao đèn", đến mùa ngô chín các bắp ngô gập xuống
và các bẹ ngô xoè ra nhƣ cái chao đèn che cho những hạt ngô không bị ƣớt và
có thể để rất lâu trên nƣơng mà không sợ thối, mục.
Ở dạng vật liệu: Đó là những loại đá đƣợc tạo hình dùng xây tƣờng nhà
và rất nhiều vật liệu khác dùng để xây dựng nhà ở, kho tàng.
Những kiến thức bản địa là cơ sở để đƣa ra những quyết định về nhiều
phƣơng diện cơ bản của cuộc sống hàng ngày tại địa phƣơng nhƣ săn bắn, hái
lƣợm, đánh cá, canh tác và chăn nuôi, sản xuất lƣơng thực, nƣớc, sức khoẻ và
sự thích nghi với những thay đổi của môi trƣờng và xã hội. Hơn nữa, trái với
kiến thức chính thống, những kiến thức không chính thống đƣợc truyền miệng
từ đời này sang đời khác và rất hiếm khi đƣợc ghi chép lại.
Hệ thống kiến thức bản địa cần phải đƣợc duy trì, gìn giữ vì những tƣ
tƣởng phƣơng Tây đang có xu thế thống trị hầu hết những quan điểm về chính
sách phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế những cố gắng nhằm giải quyết tình
trạng đói nghèo cho thấy những dự án hỗ trợ phát triển thƣờng xuyên thất bại.
Tồi tệ hơn là đôi khi chúng gây ảnh hƣởng bất lợi đến sinh kế của ngƣời dân.
Giải pháp theo phƣơng pháp của phƣơng Tây đã đƣợc áp dụng ngay cả trong
những trƣờng hợp mà những kiến thức bản địa có thể giải quyết đƣợc tốt hơn,
nhƣng lại không đƣợc lựa chọn vì một lí do nào đó [52].
Mặc dù đã chứng tỏ đƣợc giá trị trong nhiều trƣờng hợp, song kiến
thức bản địa không thể - hay không nên - đƣợc quảng bá khi chƣa đƣợc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
xem xét một cách thận trọng. Không phải tất cả các kiến thức bản địa đều
đƣa ra đƣợc những giải pháp bền vững cho những vấn đề phát sinh ngày
nay. Thêm vào đó, hầu hết các giải pháp mang tính địa phƣơng đều rất đặc
trƣng cho từng bối cảnh.
Cần tiến hành nhiều nghiên cứu hơn nữa và phát triển các phƣơng pháp
xử lý đối với hệ thống kiến thức bản địa. Có nhƣ vậy chúng ta mới có thể
dùng kiến thức bản địa để đƣa ra đƣợc giải pháp cụ thể cho từng vấn đề thông
qua việc nâng cấp hoặc thay đổi những hệ thống kiến thức này. Việc nghiên
cứu cần tiến hành với sự tham gia của những ngƣời sở hữu kiến thức bản địa
và cộng đồng địa phƣơng trong khu vực.
1.1.2. Tầm quan trọng của kiến thức bản địa
Kiến thức bản địa đã và đang đóng góp một phần quan trọng vào việc
giải quyết các vấn đề của địa phƣơng. Trong những năm gần đây, các nƣớc
đang phát triển cung cấp ngày càng nhiều thông tin về vai trò của kiến thức
bản địa trong nhiều lĩnh vực tại các quốc gia phía Nam bán cầu nhƣ: nông
nghiệp (kỹ thuật xen canh, chăn nuôi, quản lý sâu bệnh, đa dạng cây trồng,
chăm sóc sức khoẻ vật nuôi, chọn giống cây trồng); sinh học (thực vật học, kỹ
thuật nuôi cá); chăm sóc sức khoẻ con ngƣời (bằng các phƣơng thuốc truyền
thống); sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên (bảo vệ đất, thuỷ lợi và các
hình thức quản lý nƣớc khác); giáo dục (kiến thức truyền miệng, các ngôn
ngữ địa phƣơng) và xoá đói giảm nghèo nói chung [52].
Kết quả của dòng thông tin lớn mạnh đó là các học giả, những nhà
hoạch định chính sách và những ngƣời đang hoạt động trên lĩnh vực phát triển
ngày càng quan tâm đến kiến thức bản địa. Hơn hai thập kỷ trƣớc, họ đã thiết
lập mối quan hệ giữa kiến thức bản địa và khoa học, và thừa nhận tính hợp lý
của kiến thức bản địa đối với hệ thống giáo dục và các vấn đề phát triển.
Hơn nữa, kiến thức bản địa đã đóng góp cho khoa học trong nhiều lĩnh
vực liên quan đến việc quản lý tài nguyên thiên nhiên qua các nghiên cứu về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
thực vật dân tộc học hiện đại. Cụ thể là kiến thức bản địa đã giúp các nhà
khoa học nắm đƣợc những vấn đề về đa dạng sinh học và quản lý rừng tự
nhiên. Kiến thức bản địa cũng đóng góp vào khoa học những hiểu biết sâu sắc
về thuần hoá cây trồng, gây giống, quản lý và giúp các nhà khoa học nhận
thức đúng đắn về nguyên tắc, thói quen đốt nƣơng làm rẫy, nông nghiệp sinh
thái, nông lâm kết hợp, luân canh cây trồng, quản lý sâu hại, đất đai và nhiều
kiến thức khác về khoa học nông nghiệp. Thêm nữa, các nhà khoa học cũng
thƣờng quen với kiến thức bản địa và ứng dụng vào trong các dự án về hợp
tác phát triển và trong nhiều bối cảnh hiện tại khác.
Nông dân ở các nƣớc đang phát triển có nhiều kiến thức phức tạp về
nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên. Kiến thức đó dựa trên cơ sở hiểu biết
sâu sắc qua nhiều thế hệ bởi tƣơng tác gần gũi của họ với thiên nhiên và môi
trƣờng tự nhiên vi mô (Amusan & Warren 1996; Osunade 1988; Atte 1991;
Rajasekaran et al 1991). Sự khác nhau về điều kiện môi trƣờng từ năm này
qua năm khác đòi hỏi hệ thống canh tác cũng phải linh động để bảo đảm tính
bền vững. Thí dụ, „thử nghiệm của ngƣời trồng trọt là một việc bình thƣờng
trong sự thay đổi canh tác‟ ( Box 1999 ). Hệ thống kiến thức với các quyết
định canh tác phải đảm bảo tính phản hồi và chủ động, trên cơ sở thử nghiệm
bản địa và đổi mới, cũng nhƣ các công nghệ có sẵn, để đƣơng đầu và thích
nghi với những thay đổi (Warren 1996).
Sự quan tâm ngày càng lớn đến kiến thức bản địa đƣợc thể hiện rõ
trong những báo cáo của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ ở nhiều quốc
gia. Các tổ chức này cũng nhƣ các tổ chức quốc tế nhƣ Ngân hàng thế giới
(WB), Tổ chức Lao động Thế giới, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá
Liên Hợp Quốc (UNESCO) và Tổ chức Nông lƣơng Thế giới (FAO) đều thừa
nhận rõ ràng về những đóng góp của kiến thức bản địa trong phát triển bền
vững. Kết quả là một số chính phủ của các quốc gia nhƣ Uganda, Nam Phi và
Philippin cũng thể hiện sự quan tâm ngày càng lớn đến kiến thức bản địa
trong các chính sách và chƣơng trình của mình [52].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Chúng ta có thể kết luận rằng những đánh giá về kiến thức bản địa ngày
càng đúng đắn. Kiến thức bản địa đã đƣợc chấp nhận, đƣợc thích nghi và
đƣợc ứng dụng trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, sinh thái của địa
phƣơng tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Bất luận trong hoàn cảnh nào, kể cả khi hệ thống kiến thức này đƣợc
công nhận hay không, thì việc thử nghiệm và chứng minh trong điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội, sinh thái của địa phƣơng vẫn nổi trội hơn so với các
quan điểm bên ngoài. Khẳng định sử dụng các kiến thức công nghệ bản địa
bắt nguồn từ khái niệm của Ogburn (1950) về „văn hoá chậm trễ‟. Điều này
khẳng định rõ rằng sự thay đổi văn hoá phi vật thể (ý tƣởng và tổ chức xã hội)
luôn luôn chậm hơn so với văn hoá vật chất (công nghệ và phát minh). Mặc
dù có mức độ chấp nhận hiện đại nhất định, ngƣời dân địa phƣơng vẫn muốn
duy trì kiến thức cụ thể của họ theo không gian và thời gian, và những yếu tố
phù hợp với các mục đích nhất định của họ. Đối với những ngƣời sống trên cơ
sở truyền thống và phong tục tập quán, thay đổi sẽ chứa đựng rủi ro; họ tin
tƣởng những gì đã đƣợc thử nghiệm, kiểm tra với truyền thống lâu đời
(Landis 1940).
1.2. Một số khái niệm có liên quan
1.2.1. Khái niệm về tính bền vững
- "Bền vững" là một thuật ngữ đang đƣợc thảo luận một cách rộng rãi
trong các chủ đề của tất cả các hệ thống sử dụng đất hiện nay. Đây là một đề
tài tập hợp đƣợc cả hai nhóm các nhà khoa học môi trƣờng và các nhà khoa
học sản xuất. "Bền vững" là một khái niệm mà khái niệm này kết hợp đƣợc
những quan tâm dài hạn về xã hội với những nhu cầu cơ bản, ngắn hạn đối
với thế giới thứ ba (Thomas, 1990).
- Bởi tính phức tạp và tính thời gian của khái niệm này, những định
nghĩa về "tính bền vững" thƣờng xuyên đƣợc hiểu một cách mơ hồ và đôi khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
mâu thuẫn. Đã có nhiều định nghĩa về "tính bền vững" nhƣ của BIFAD - 1990,
TAC of CGIAR, CIMYT - 1989 Hiện nay định nghĩa của Uỷ ban thế giới
về môi trƣờng và phát triển WCED - 1987 (The World Commission on
Environment and Devolopment) đƣợc sử dụng rộng rãi và phổ biến. Theo
định nghĩa này "Bền vững" là sự phát triển để thoả mãn những nhu cầu hiện
tại nhƣng không làm tổn hại tới những khả năng phát triển để thoả mãn những
nhu cầu trong tƣơng lai.
- Trong các hệ thống sản xuất, bền vững có thể đƣợc xác nhận nhƣ là
khả năng duy trì sức sản xuất lâu dài, không làm tổn hại đến môi trƣờng tự
nhiên mà sản xuất phụ thuộc vào.
- Đánh giá về tính bền vững trong lâm nghiệp nói chung và trong việc
sử dụng khai thác và phát triển lâm sản ngoài gỗ nói riêng cũng đã bắt đầu
đƣợc chú ý trong mấy năm trở lại đây. Nhƣng những đánh giá bƣớc đầu này
mới chỉ dựa trên khả năng phòng hộ của hệ thống chống xói mòn và nâng cao
độ phì của đất rừng, mà ít chú ý tới bền vững về mặt kinh tế và những lợi thế
khác về các nhân tố sinh thái. Vấn đề mới mẻ cần phải đƣợc xem xét và
nghiên cứu tiếp, để từ đó đƣa ra đƣợc các tiêu chí và phƣơng pháp đánh giá có
tính thuyết phục nhất
1.2.2. Định nghĩa về Lâm sản ngoài gỗ
Đã có nhiều những tên gọi khác nhau về lâm sản ngoài gỗ đang đƣợc
sử dụng rộng rãi hiện nay nhƣ: lâm sản phụ, lâm sản phi gỗ, sản phẩm rừng
không phải là gỗ Hầu hết mọi ngƣời đều có cùng quan điểm coi các khái
niệm trên là đồng nhất, để chỉ các sản phẩm của rừng không phải là gỗ nhƣ:
động vật rừng, các cây dƣợc liệu, các sản phẩm từ cây rừng không phải là gỗ,
các sản phẩm phụ từ khai thác gỗ (cành, lá, gốc, rễ ).
Có nhiều tài liệu viết về lâm sản ngoài gỗ, nhƣng chỉ ở những phạm vi
hẹp của một loài hoặc một nhóm loài nhất định. Nhƣng chƣa có một công
trình nào đƣa ra đƣợc một khái niệm chính xác về lâm sản ngoài gỗ này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
+ Khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ đƣợc đề cập chính thức vào năm
1989 do W.W.F. Theo khái niệm này: “Lâm sản ngoài gỗ bao hàm tất cả các
vật liệu sinh học khác gỗ, được khai thác từ rừng tự nhiên phục vụ mục đích
của con người. Bao gồm các sản phẩm là động vật sống, nguyên liệu thô và
củi, song mây, tre nứa, gỗ nhỏ và sợi”. (The Economic value of Non-timber
Forest products in Southeast asia - W.W.F - 1989).
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về LSNG nhƣng
thông dụng hơn cả là định nghĩa do Hội đồng Lâm nghiệp Tổ chức Lƣơng
Nông Liên Hiệp quốc (FAO) thông qua năm 1999: “Lâm sản ngoài gỗ (Non
timber forest products- NTFP, hoặc Non wood forest products- NWFP) bao
gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác gỗ, được khai thác từ rừng,
đất có rừng và từ cây gỗ ở ngoài rừng”
Nhƣ vậy, lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các vật liệu sinh học khác gỗ
đƣợc khai thác từ rừng (cả rừng tự nhiên và rừng trồng) phục vụ mục đích của
con ngƣời. Bao gồm các loài thực vật, động vật dùng làm thực phẩm, làm
dƣợc liệu, tinh dầu, nhựa sáp, nhựa dính, nhựa dầu, cao su, tanin, màu nhuộm,
chất béo, song mây, tre nứa, cây cảnh, nguyên liệu giấy, sợi
Phân loại lâm sản ngoài gỗ
Có rất nhiều loại lâm sản ngoài gỗ khác nhau đã đƣợc điều tra, phát
hiện và khai thác sử dụng, chính vì vậy việc phân loại chúng là rất cần thiết.
Trên thế giới tồn tại nhiều cách phân loại LSNG, song chƣa có hệ thống phân
loại nào thực sự hợp lý. Trong cuốn “ Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam” của Dự án
Hỗ trợ chuyên ngành lâm sản ngoài gỗ tại Việt Nam - Pha II đã phân loại
LSNG theo 6 nhóm tổng hợp dựa vào công dụng và nguồn gốc của các LSNG,
tuy nhiên đây cũng chỉ là cách phân loại mang tính chất tƣơng đối vì công
dụng của lâm sản luôn có sự thay đổi, một số sản phẩm có thể phân vào nhiều
nhóm khác nhau tuỳ nơi, tuỳ lúc, không cố định và biến đổi theo địa phƣơng.
Cách phân loại này đƣợc giới thiệu nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
(1) Sản phẩm cây có sợi: tre nứa, song mây, các loại cây thân lá có sợi…
(2) Thực phẩm:
a/ Những sản phẩm có nguồn gốc thực vật nhƣ: thân, chồi non, rễ, lá,
hoa, quả, hạt, các loại gia vị, hạt có dầu, nấm…có thể dung làm thực phẩm.
b/ Những sản phẩm có nguồn gốc động vật nhƣ: mật ong, thịt thú rừng,
cá, tổ yến, trứng chim, các loài côn trùng ăn đƣợc.
(3) Dƣợc liệu chất thơm và cây có chất độc.
(4) Những sản phẩm chiết suất nhƣ: các loại nhựa, tanin, chất màu, dầu
béo và tinh dầu…
(5) Động vật và những sản phẩm từ động vật không dùng làm thực
phẩm nhƣ các loại thú rừng, chim, côn trùng sống, da, sừng, ngà, xƣơng, cánh
kiến đỏ…
(6) Những sản phẩm khác nhƣ: cây cảnh, lá để gói,v.v…
1.3. Thực trạng và vai trò LSNG Việt Nam
1.3.1. Thực trạng nguồn lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam
Ƣớc tính, Việt Nam có khoảng 12.000 loài thực vật. Hiện nay đã thống
kê đƣợc hơn 7.000 loài thực vật bậc cao, 800 loài rêu, 600 loài nấm lớn. Có
2.300 loài đƣợc sử dụng với mục tiêu kinh tế (Lê Trọng Cúc, 1989).
Hệ động vật cũng rất đa dạng, hiện nay đã phát hiện đƣợc 273 loài thú,
773 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài lƣỡng cƣ và nhiều loài động vật không
xƣơng sống khác (Võ Quý, 1992). Hầu nhƣ sự đa dạng sinh học này tập trung
chủ yếu ở vùng đồi núi. Trƣớc đây, hầu nhƣ toàn bộ vùng đồi núi đƣợc che phủ
bởi một thảm thực vật nhiệt đới giàu có. năm 1943 có khoảng 50% diện tích
rừng che phủ trong cả nƣớc (Maurand, 1993) hiện nay chỉ còn khoảng 24%.
Rừng bị tàn phá nhiều loại động vật mất nơi sinh sống và cƣ trú. Mấy
năm gần đây, cộng thêm sự buôn bán động vật phi pháp (qua biên giới) làm
cho nhiều loài trở nên rất hiếm và có nguy cơ bị tiêu diệt, cũng nhƣ nhiều loài
gỗ quỹ, các loại cây thuốc bị khai thác quá mức (trang 8 - Đa dạng sinh học).