Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp Levobupivacaine và Fentanyl trong giảm đau chuyển dạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.79 KB, 8 trang )

THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014

Hiệu quả của phương pháp gây tê ngoài màng
cứng bằng hỗn hợp Levobupivacaine và Fentanyl
trong giảm đau chuyển dạ
Võ Minh Tuấn*, Trương Văn Hiệu**.
* Bộ môn Sản, ĐHYD Tp. HCM 0909727199, Email:
** Bệnh viện Từ Dũ – Tp. HCM 0935881600, Email:

Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau, một số đặc điểm chuyển dạ, tác dụng không mong muốn của
phương pháp gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2
mcg/ml trong chuyển dạ.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả dọc tiến cứu thực hiện tại BV Từ Dũ từ 22/10/2012 - 29/4/2013 trên
206 sản phụ được GTNMC giảm đau chuyển dạ (GĐCD) bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và
fentanyl 2 mcg/ml.
Kết quả: Sau thủ thuật 15 phút VAS ≤ 3 chiếm 94,2%, giai đoạn chuyển dạ tích cực VAS ≤ 3 chiếm
92,9%, giai đoạn II chuyển dạ VAS ≤ 3 chiếm 55,8%, VAS ≤ 3 chiếm 87,2% lúc khâu tầng sinh môn. Tỷ
lệ phong bế vận động (BROMAGE) độ 0 chiếm 97,6%, độ I 1,9%, độ II 0,5%. Một số đặc điểm chuyển
dạ như cảm giác mắc rặn, thời gian chuyển dạ tương đồng với các nghiên cứu khác. Tỷ lệ sinh thường
chiếm 66%, sinh giúp: 9,7%, và sinh mổ: 24,3%. Tác dụng không mong muốn: thủng màng cứng 0,48%
(1/206); hạ huyết áp: 1%, nôn: 2%, tiểu khó, và bí tiểu: 6,4%; đau đầu: 0,5%, và đau lưng 6,8%.
Kết luận: GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml giúp GĐCD có hiệu quả
rõ rệt. Cần tiếp tục triển khai phác đồ để có thêm một sự lựa chọn trong GĐCD.
Từ khóa: Giảm đau chuyển dạ, gây tê ngoài màng cứng, chuyển dạ giai đoạn tích cực, levobupivacaine

The effect of Epidural analgesia for labor with Levobupivacaine combined with
Fentanyl
Tuan Vo,* Hieu Truong.**

Abstract


Objectives: To evaluate the effect of epidural analgesia with levobupivacaine 0.08% combined
with fentanyl 2cmg/ml and to describe some characteristics of labor and the side effects of those
medicines.
Methods: A longitudinal prospective study was carried out at Tu Du hospital from 22/10/201229/4/2013 recruited 206 pregnant women in labor whom were indiated epidural analgesia with
levobupivacaine 0.08% combined with fentanyl 2cmg/ml.
Results: VAS< 3 was 94.2 % after 15 minutes undergone epidural anesthesia; these score was
92,9% in the active stage labor ; 58.5% in the second stage of labor; 87.2% during episiorrhaphy
procedure respectively. The percentages of blocking movement (BROMAGE) were found with
level 0: 97.6 %, level 1: 1.9 %, level 2: 0.5%. Somes of labor characteristic such as feeling
of pushing, time of all labor stages were similar to other studies. The ratio of spontaneous
deliveries vs assitant deliveries vs C-section was 66% vs 9.7%, vs 24.3%. Side effects included
epidural membrane rupture (0.48% ), hypotention (1%), vomit (2%), urinary retention (6.4%),
headache (0.5%), and backache (6.8%).
Conclusions: Epidural analgesia with levobupivacaine 0.08 percent and fentanyl 2 mcg/ml
relieved pain in labor remakablely. The protocol of epidural analgesia is needed to be developed
that provide more options for anesthesiologists.
Key words: Labor analgesia, Epidural anesthesia, Active period of labor.

38


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Đặt vấn đề
Có nhiều phương pháp giảm đau chuyển dạ
(GĐCD), gây tê ngoài màng cứng (GTNMC)
được đánh giá là phương pháp an toàn, hiệu
quả và sử dụng phổ biến. Áp dụng GTNMC
để GĐCD đã có từ hơn 50 năm về trước.1 Tại
Việt Nam, bệnh viện (BV) Hùng Vương là

nơi thực hiện GĐCD đầu tiên từ năm 1988 do
Tô Văn Thình và cộng sự thực hiện GTNMC
đặt catheter để giảm đau ngắt quãng trên 62
sản phụ (SP) hiệu quả rất tốt. Sau đó, phương
pháp giảm đau này được thực hiện tại nhiều
bệnh viện khác trong toàn quốc. BV Từ Dũ
đã triển khai GĐCD bằng GTNMC từ năm
1999. Gần đây, phương pháp GTNMC liên
tục, lưu catheter bổ sung thuốc tê liều thấp
phối hợp với các thuốc giảm đau trung ương
đã được nghiên cứu sử dụng rộng rãi trong
GĐCD. Phương pháp này không chỉ giảm
nguy cơ gây độc do tích lũy thuốc tê, có tác
dụng giảm đau hiệu quả, mà còn đáp ứng quá
trình chuyển dạ sinh lý giúp cho việc kiểm
soát sinh, giảm thiểu tỉ lệ xổ thai có can thiệp
và các tác động tâm lý cho SP sau sinh.2
Năm 1988 levobupivacaine được giới
thiệu.3 Liều dùng, hiệu quả lâm sàng
của levobupivacaine tương đương với
bupivacaine nhưng độc tính trên hệ thần
kinh trung ương và tim thấp hơn. BV Từ Dũ
đã triển khai phương pháp GTNMC bằng
hỗn hợp levobupivacaine 0,1% và fentanyl
GĐCD, tuy nhiên chưa triển khai rộng rãi
và chưa có đánh giá đầy đủ về hiệu quả của
phương pháp này.
Nhằm tìm hiểu khả năng cải thiện chất lượng
GĐCD, khả năng giảm thiểu các tác dụng
ngoại ý khi dùng hỗn hợp levobupivacaine

và fentanyl để GTNMC, từ đó đưa ra thêm
một lựa chọn cho GĐCD, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Hiệu quả của phương
pháp gây tê ngoài màng cứng bằng hỗn hợp
levobupivacaine và fentanyl trong giảm đau
chuyển dạ”.

Câu hỏi nghiên cứu: GTNMC bằng hỗn hợp
levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/ml
có hiệu quả thế nào trong GĐCD?
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính: Đánh giá hiệu quả giảm đau
của phương pháp GTNMC bằng hỗn hợp
levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/
ml trong chuyển dạ.
Mục tiêu phụ
- Mô tả một số đặc điểm chuyển dạ trong nhóm
có GTNMC bằng hỗn hợp levobupivacaine
và fentanyl.
- Mô tả tỷ lệ tác dụng không mong muốn
GTNMC bằng hỗn hợp levo-bupivacaine và
fentanyl.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả dọc tiến cứu.
Đối tượng nghiên cứu
- Dân số đích: Tất cả SP thai đủ tháng ≥ 37
tuần vào chuyển dạ.
- Dân số nghiên cứu: Tất cả SP thai đủ tháng
≥ 37 tuần nhập vào khoa sinh BV Từ Dũ theo
dõi sinh ngả âm đạo.

- Dân số chọn mẫu: Tất cả SP thai đủ tháng
≥ 37 tuần vào khoa sinh BV Từ Dũ theo dõi
sinh ngả âm đạo, hội đủ các tiêu chuẩn chọn
mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tiêu chuẩn nhận vào
- SP được bác sĩ sản khoa đánh giá theo dõi
sinh ngả âm đạo khi vào chuyển dạ.
- Các SP trong giai đoạn chuyển dạ tích cực,
cổ tử cung mở ≥ 4cm.
- SP không có chống chỉ định GTNMC.
- SP thai đủ tháng ≥ 37 tuần có yêu cầu được
làm GĐCD.
39


THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014

Tiêu chuẩn loại trừ

Bước 2: Thực hiện phương pháp GTNMC

- SP không giao tiếp được.

Xác định khoang NMC bằng kỹ thuật “mất
sức cản” với nước muối sinh lý, luồn catheter
vào khoang NMC với độ sâu 3- 5cm. Sau khi
nhận thấy catheter không có chảy ra máu hay
dịch thì bơm liều test lidocain 2% 2 ml . Sau
khi mạch, huyết áp của SP ổn định và giơ hai

chân lên cao được bình thường thì bơm liều
nạp 12 ml dung dịch levobupivacaine 0,08%
+ 50 mcg fentanyl; liều nạp được chích ngắt
quãng 4 ml dung dịch thuốc tê mỗi 3 phút
với test hút ngược catheter. Sau liều nạp 10
phút, dùng dụng cụ bơm tiêm điện truyền
levobupivacaine 0,08% + fentanyl 2 mcg/ml
([L+V])với vận tốc 10 ml/giờ. Theo dõi sinh
hiệu SP, xử trí tai biến nếu có.

- SP có chiều cao dưới 1,45 m.
- SP có tiền sử dị ứng thuốc tê và thuốc họ
morphine.
Cỡ mẫu

P = 94,4%, Z: trị số phân khối chuẩn = 1,96,
d: độ chính xác tuyệt đối = 5%, n: cỡ mẫu
tối thiểu = 82 đáp ứng cho năng lực mẫu của
mục tiêu chính.
Phương pháp chọn mẫu: ngẫu nhiên đơn.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu: 10/2012
-04/2013 tại BV Từ Dũ
Công cụ nghiên cứu:
Thang điểm VAS dùng để đánh giá mức độ
đau
Thang điểm Bromage dùng để đánh giá mức
độ phong bế vận động
Dùng test cồn lạnh đánh giá mức ức chế cảm
giác
Phương thức tiến hành

Bước 1: Chuẩn bị
- Phương tiện, trang thiết bị, dụng cụ và thuốc
GTNMC
- Chọn bệnh theo tiêu chuẩn nhận và tiêu
chuẩn loại trừ.
- Giải thích cho SP về GĐCD và đồng ý ký
bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu.
- Ghi nhận các thông tin cơ bản về SP, khám
tiền mê
- Đánh giá mức độ đau qua thang điểm VAS
40

Bước 3: Theo dõi và đánh giá sau khi tiêm
thuốc 15 phút
Đánh giá tim thai, sinh hiệu SP, xử trí tai biến
nếu có, đánh giá điểm VAS, Bromage, mức
phong bế cảm giác. Truyền duy trì qua bơm
tiêm điện hỗn hợp levobupivacaine 0,08% và
fentanyl 2mcg/ml tốc độ 10ml/giờ.
Bước 4: giai đoạn chuyển dạ tích cực đến cổ
tử cung trọn.
Đánh giá tim thai, sinh hiệu SP, xử trí tai biến
nếu có, đánh giá điểm VAS, có tăng co tử
cung (TC) hay không, thời gian chuyển dạ,
cảm giác mắc rặn giai đoạn tích cực.
Bước 5: Theo dõi đánh giá giai đoạn II
chuyển dạ
Đánh giá tim thai, sinh hiệu SP, xử trí tai biến
nếu có, đánh giá điểm VAS, có tăng co tử
cung hay không, thời gian chuyển dạ, cảm

giác mắc rặn giai đoạn II, cách sinh, lý do,
cân nặng trẻ, chỉ số APGAR.
Bước 6: Theo dõi và đánh giá giai đoạn III
chuyển dạ và may tầng sinh môn
Sau khi sổ thai nếu SP đau (VAS>3) tiêm
10ml [L+F], sau tiêm 15 phút tiến hành


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

thủ thuật, nếu VAS>3 thì tê tại chỗ bằng
lidocaine. Đánh giá điểm VAS. Ngay sau khi
kết thúc cuộc sinh: khâu tầng sinh môn, kiểm
soát TC: rút bỏ catheter, băng vô trùng vị trí
gây tê. Trường hợp nghi ngờ có rối loạn đông
máu thì kiểm tra lại các xét nghiệm đông máu
trước khi rút catheter.
Bước 7: Theo dõi và đánh giá tại khoa hậu
sản.
Kết quả và bàn luận

HA tư thế ít hơn; (2) có thể theo dõi nhịp tim
thai trong thời gian đặt catheter NMC; (3)
một vài SP thấy dễ chịu; cung lượng tim mẹ
giảm nhiều hơn với tư thế gập bụng tối đa
trong tư thế nghiêng hơn tư thế ngồi trong
xác định khoang NMC. Sự gập bụng tối đa sẽ
gia tăng chèn ép động mạch chủ dưới. Ngược
lại, trong tư thế ngồi, tử cung sẽ đẩy về trước
(do đó không gây chèn ép động mạch chủ).

Cần phải tránh “tư thế bó chặt thai”, nhất là
khi SP ở tư thế nằm nghiêng.
Bảng 2: Trước khi làm GDCD, hầu hết
SP đều đau, mức độ đau vừa, nhiều, và đau
dữ dội là 99,5% (205/206). Mức độ đau sau
làm GĐCD 15 phút thay đổi đáng kể. Mức
độ đau 4-10 điểm từ 99,5% giảm xuống còn
5,8%. Đặc biệt tình trạng đau dữ dội không
có, điểm đau từ 0-1 đạt 45,1% (93/206). Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p=0,001.
Điều này cho thấy hiệu quả rõ rệt của gây tê
ngoài màng cứng giảm đau chuyển dạ bằng
hỗn hợp thuốc levobupivacaine và fentanyl.

Nhận xét:
Chúng tôi gây tê theo tư thế ngồi là chủ yếu
96,2% (198/206) (Bảng 1). Một số trường
hợp SP không hợp tác, nên chúng tôi thực
hiện tư thế nằm nghiêng trái. Ưu điểm của
tư thế nghiêng so với tư thế ngồi là: (1) hạ

Bảng 3: Mức độ đau giai đoạn chuyển dạ
tích cực: 9-10 điểm: không trường hợp; 4-8
điểm là 6,8% (14/206); từ 2-3 điểm: 59,7%
(123/206); 0-1 điểm: 33,5% (69/206). Giai
đoạn chuyển dạ tích cực là giai đoạn chuyển
dạ dài, việc ứng dụng gây tê giảm đau trong
giai đoạn này là rất quan trọng. Các kết quả
đạt được của chúng tôi cho thấy hiệu quả
giảm đau rõ của phương pháp GTNMC với

nồng độ thuốc tê thấp (0,08%), tương tự với
các tác giả khác làm tại bệnh viện Từ Dũ với
thuốc và liều lượng khác nhau. Điều này cho
thấy rằng nên giảm nồng độ thuốc tê trong
GĐCD.
GTNMC có hiệu quả giảm đau rõ lúc may
TSM: có 136/156 (87,2%) SP không đau
và đau nhẹ, 17/156 (10,9%) đau vừa, 3/206
(1,9%) đau nhiều.
41


THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014

Chúng tôi đánh giá mức độ phong bế
vận động theo thang điểm của Bromage
(Bảng 4). Phong bế vận động độ 0 chiếm
97,6% (201/206), độ 1: 1,9% (4/206), độ
2: 0,5% (1/206). Phong bế vận động là một
tác dụng không mong muốn của GTNMC
GĐCD. Phong bế vận động trong chuyển dạ
làm giảm sức rặn của SP, kéo dài thời gian
chuyển dạ, giảm chất lượng phương pháp
giảm đau cũng như sự hài lòng của SP. Nồng
độ thuốc tê giảm sẽ giảm được sự ức chế vận
động. Như vậy, với nồng độ levobupivacaine
0,08% được sử dụng trong nghiên cứu của
chúng tôi đủ để ức chế cảm giác đau và tác
dụng phong bế vận động ở mức thấp.
Mức phong bế cảm giác (Bảng 5 & 6) đồng

đều cả 2 bên chiếm đa số 94,7% (195/206).
Phong bế cảm giác không đối xứng 5,3%
(11/206), trong số này mức tê bên trái cao hơn
bên phải 7/11 trường hợp. Theo Chestnut, các
yếu tố gây ra sự không đối xứng này là: (1)
tiêm chậm một thể tích nhỏ; (2) vách ngăn
bẩm sinh đường giữa màng cứng; (3) dính
đường giữa mắc phải; (4) đầu catheter đi vào
vùng cạnh cột sống; (5) đặt đầu mũi catheter
vào phần trước khoang ngoài màng cứng.
42


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Cũng theo tác giả, nghiên cứu 236 bệnh
nhân được GTNMC, khảo sát có 7/236 mất
cảm giác lạnh một bên, và chụp cản quang
khoang NMC trên nhóm bệnh nhân này thì
thấy có 4/7 trường hợp catheter đi ra phần
trước khoang ngoài màng cứng; 3/7 trường
hợp catheter chui qua lỗ màng cứng.
Trong nghiên cứu chúng tôi, chuyển dạ thời
kỳ hoạt động (Bảng 7), sử dụng thuốc tăng co
tử cung 42,3% (66/156) trường hợp; không
tăng co 57,7% (90/156), tỷ lệ mắc rặn 52,5%
(82/156) tương tự nghiên cứu của các tác giả
khác. GTNMC với nồng độ thuốc tê thấp
không ảnh hưởng đến gò tử cung cũng như
cảm giác mắc rặn SP, đây là điểm thuận lợi

cho cuộc chuyển dạ trong thời kỳ hoạt động
vì tránh được cổ tử cung phù nề do sản phụ
rặn sớm.
Chúng tôi ghi nhận có 106/156 (67,9%) SP
có tăng co trong giai đoạn II chuyển dạ (Bảng
8). Tương tự như kết quả của V.M.Tuấn &
P.T.T.Ba (2012) tại BV Từ Dũ (66,3%).4 Số
SP có cảm giác mắc rặn trong giai đoạn II
chuyển dạ là 140/156 (89,7%), tỷ lệ này phù
hợp với các tác giả Phạm Thiều Trung (2011)
là 89,76%, Nguyễn Văn Chinh (2011)5 là
91,25%, V.M.Tuấn & P.T.T.Ba (2012) là
91%.
Tỷ lệ sinh mổ, sinh giúp của nghiên cứu này
(Bảng 9) phù hợp với thống kê tại BV Từ Dũ
trong thời gian nghiên cứu (24,2% sinh mổ).
Chỉ định cách sinh ở mỗi tuyến và mỗi BV
có đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên tất cả các

nghiên cứu của các tác giả đều thống nhất:
GTNMC không ảnh hưởng đến cách sinh,
không làm tăng tỷ lệ sinh giúp và sinh mổ.
Thay đổi tim thai và sinh hiệu sản phụ trước
và sau khi tiêm thuốc (Bảng 10): Mạch trước
khi tiêm thuốc là 85 ±7,3 lần/ phút. Sau tiêm
15 phút là 80,2 ± 64,9, sau 30 phút 79,4 ±
7,1, và sau 1 giờ 79,5 ± 6,6 có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê, với p < 0,05. Sự khác biệt
này chỉ có ý nghĩa về mặt thống kê nhưng
không làm thay đổi về ý nghĩa lâm sàng

nhiều. Huyết áp (HA) trước khi gây tê và sau
khi gây tê khác nhau có ý nghĩa thống kê, với
p < 0,05, tuy nhiên không có ý nghĩa về mặt

43


THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014

lâm sàng. Sau khi gây tê thì HA giảm hơn so
với chưa gây tê nhưng hầu hết HA nằm trong
giới hạn bình thường, không cần phải xử trí
gì. Trong nghiên cứu này có 2/206 trường
hợp HA tụt cần phải xử trí. Nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng giảm mạch, HA sau khi
GTNMC là do tác dụng làm giảm đau giúp
ngăn chặn sự tăng tiết cathecolamin do đau,
do GTNMC gây ức chế giao cảm, làm mạch
chậm, giãn mạch dẫn đến giảm HA.
Cân nặng của trẻ trung bình: 3,2 kg ± 0,37
kg, trẻ nặng nhất 4,5 kg gặp ở SP bị bệnh
tiểu đường, trẻ nhẹ nhất 2,2 kg gặp ở SP
sinh thường. Còn lại đa số cân nặng của
trẻ tập trung từ 3 kg đến 3,5 kg chiếm hơn
51%. APGAR sau 1 phút ≥ 7 chiếm tỷ lệ
95,1% (196/206). Tương tự nghiên cứu của
V.M.Tuấn & P.T.T.Ba (2012) 96,7% , thấp
hơn Nguyễn Thị Thanh6 99,6% nhưng cao
hơn Nguyễn Văn Chinh 91,2%. APGAR sau
5 phút ≥ 9 điểm là 66% (136/206); < 9 điểm

là 34% (70/206) nhưng không có trường hợp
nào có chỉ số APGAR < 7 điểm.

Hạ HA trong nghiên cứu này có 2/206
(0,97%) trường hợp. SP thứ nhất: HA trước
gây tê là 120/70 mmHg, sau gây tê 15 phút
HA tụt 80/60 mmHg, kèm theo mệt, chóng
mặt, buồn nôn, được xử trí: truyền dịch, kết
hợp cho thở ô xy, sau đó HA ổn định. SP thứ
hai: HA trước gây tê là 130/80 mmHg, sau
gây tê 15 phút HA tụt 80/60 mmHg, xử trí
tương tự nhưng HA vẫn chưa trở lại trị số
bình thường, tiếp tục xử trí thêm: ephedrin
10 mg tiêm tĩnh mạch, sau đó HA ổn định
trong suốt cuộc chuyển dạ. Cả hai trường hợp
này đều âm tính với test hút ngược, không có
dịch não tủy, máu. Trong GTNMC thì hạ HA
không đáng kể với thuốc tê nồng độ thấp.
Kết luận và kiến nghị
Phác đồ giúp GĐCD có hiệu quả rõ rệt. Đặc
điểm chuyển dạ như: cảm giác mắc rặn của
SP, thời gian chuyển dạ, tỷ lệ sinh giúp và
sinh mổ được mô tả với các tỉ lệ tương đồng
so với các phác đồ khác GTNMC GĐCD. Tỷ
lệ phong bế vận động thấp. Tình trạng sức
khỏe SP và thai ổn định. Tỷ lệ xảy ra các tác
dụng phụ thấp, dễ xử lý.
Phấn đấu tăng tỷ lệ GĐCD để nâng cao
chất lượng chăm sóc SP trong chuyển dạ.
Chỉ định GTNMC GĐCD nên rộng rãi hơn,

sớm hơn khi bắt đầu vào chuyển dạ để giúp
ngừa đau trong chuyển dạ. Cần tiếp tục triển
khai phác đồ GTNMC GĐCD bằng hỗn hợp
levobupivacaine 0,08% và fentanyl 2 mcg/
ml bệnh để có thêm một sự lựa chọn. Nghiên
cứu thêm về GTNMC GĐCD với nồng độ
thuốc tê thấp (0,0625%), ứng dụng các thuốc
tê mới như ropivacaine, levobupivacaine. Từ
đó đưa ra thêm các lựa chọn trong GĐCD
cho bác sỹ gây mê hồi sức.
Tài liệu tham khảo
1. Ali Uzuner, Kemal Tolga Saracoglu, Ayten
Saracoglu, Ozcan Erdemli (2011), “The comparative
study of epidural levobupivacaine and bupivacaine
in major abdominal surgeries”. Journal of Research
in Medical Sciences, 16, (9), pp. 435-337

44


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2. Hawkins Joy L (2010): “Epidural analgesia for labor
and deliver”. The new Enlnd journal of medicine,
363, p 1503 – 1010.
3. Hui-Ling Lee (2011), “Comparison between 0.08%
Ropivacaine and 0.06% Levobupi-vacaine for
Epidural Analgesia during Nulliparous Labor”.
Chang Gung Med J: 34: 286-92.
4. Võ Minh Tuấn & Phan Thị Thu Ba (2013). So
sánh kết cục sinh ngả âm đạo giữa có và không

giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng. ISSN
1859-1779. Tập san Y học TP. HCM; số 17, tháng
1/2013: Trang 141-148.
5. Nguyễn văn Chinh, Vũ Thị Nhung, Nguyễn văn
Chừng (2011) “Gây tê ngoài màng cứng phối hợp
Bupivacaine với Fentanyl để giảm đau trong sản
khoa” Tạp chí Y học TP HCM NXB : 2011, Tập
15,số 3, Tr 186-194
6. Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Trọng Thắng (2011),
“Hiệu quả và an toàn của giảm đau trong chuyển
dạ với gây tê ngoài màng cứng bằng bupivacaine
nồng độ thấp kết hợp fentanyl không dùng liều thử”
.Y học TP. Hồ Chí Minh, chuyên đề Gây mê hồi

sức,tập 15(3),tr 101-108.
7. Atanasova M. and Nikolov A (2011), “Epidural
analgesia for vaginal delivery. influence over the
delivery, fetal presentation, the method of delivery
and lactation”, Akush Ginekol (Sofiia), 50(6), pp.
28-36
8. Carl E Rosow, Mark Dershwitz (2008),
“Pharmacology
of
Opioid
Analgesics”.
Anesthesiology. Volume 1, (41), Medical Books,
McGraw-Hill, Usa, pp.869-896.
9. Crina L Burlacu, Buggy J Donal (2008), “Update on
local anesthetics: focus on levobupivacaine”. Ther
Clin Risk Manag; 4(2): 381-392.

10.Devor M (2006), “Pathophysiology of nerve injury”.
Pain, Volume 81, Elsevier, pp. 261-276.
11.Lin MC, Huang JY, Lao HC, Tsai PS, Huang CJ
(2010), “Epidural analgesia with low-concentration
levobupivacaine combined with fentanyl provides
satisfactory postoperative analgesia for colorectal
surgery patients.”. Acta Anaesthesiol Taiwan. 48(2)
: 68-74.

45



×