Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.96 KB, 24 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
1.1.1. Xuất khẩu nông sản và vai trò của xuất khẩu nông sản
1.1.1.1. Khái niệm
Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ vượt qua
biên giới một quốc gia thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Theo định nghĩa này thì
hoạt động xuất khẩu là một hoạt động của thương mại quốc tế, là hoạt động trao đổi
mua bán hàng hóa và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện
thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ của một quốc gia
hoặc đối với cả hai quốc gia.
Như vậy, xuất khẩu nông sản là hoạt động trao đổi nông sản giữa nước này với
nước khác. Cũng có thể hiểu xuất khẩu nông sản là nông sản sản xuất trong nước được
đem đi tiêu thụ ở nước ngoài.
1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu nông sản
Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản và là phương tiện thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Mục đích của xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng quốc gia trong
phân công lao động quốc tế, nhằm mang lại lợi ích cho quốc gia tham gia vào hoạt động
xuất khẩu.
Với Việt Nam xuất khẩu nông sản không chỉ là bộ phận cấu thành trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế mà còn là hoạt động liên quan đến cân bằng xuất nhập khẩu
quốc gia, đến cuộc sống của hàng triệu người dân nông thôn, đến khả năng nâng cao
đời sống của người dân Việt Nam. Vì vậy mà nhà nước ta luôn nhận thức đầy đủ vai trò
của xuất khẩu nông sản, hoạt động xuất khẩu nông sản đã góp phần không nhỏ đưa nền
kinh tế nước ta ngày một phát triển như hiện nay.
Vai trò của xuất khẩu nông sản thể hiện ở những điểm cụ thể như sau:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng lợi thế so sánh của mình
Mỗi quốc gia có những lợi thế khác nhau và theo thương mại quốc tế thì mỗi quốc
gia nên tập trung chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh sau đó
trao đổi với quốc gia khác. Nông sản là một trong những sản phẩm nông nghiệp không
thể thiếu được trong nhu cầu sống của con người. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện tự


nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia mà có quốc gia thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp nhưng lại có quốc gia không đủ điều kiện để phát triển nông nghiệp. Do đó nảy
sinh nhu cầu trao đổi nông sản giữa các quốc gia với nhau. Nước ta được thiên nhiên rất
ưu đãi để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, sản phẩm phong phú, bên cạnh đó
nguồn nhân lực dồi dào và giàu kinh nghiệm… do đó xuất khẩu nông sản giúp nước ta
tận dụng, khai thác được tối đa những nguồn lực sẵn có để tạo ra được những sản phẩm
có lợi thế so sánh cao.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu cho nhập khẩu
Nguồn vốn ngoại tệ có thể thu được từ các nguồn sau: xuất khẩu, đầu tư nước
ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch... nhưng xuất khẩu là nguồn vốn quan
trọng nhất để nhập khẩu. Các loại nông sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so
với các hàng hóa nông nghiệp. Vì thế xuất khẩu nông sản là giải pháp quan trọng tạo
nguồn ngoại tệ cho sự phát triển đất nước. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển
rất cần ngoại tệ để trang bị máy móc thiết bị hiện đại được nhập từ các nước phát triển
về.
- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển
Xuất khẩu cũng có nghĩa là bán hàng ra nước ngoài, xuất khẩu nông sản là bán
hàng nông sản ra nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa muốn bán được nhiều hàng thì
việc sản xuất hàng hóa nông sản phải theo nhu cầu của thị trường, của người tiêu dùng.
Hàng hóa sản xuất ra phải có tính cạnh tranh cao, chất lượng tốt, giá thành cạnh tranh,
mẫu mã sản phẩm đa dạng, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực
phẩm. Do đó khi hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu hàng nông sản
nói riêng phát triển thì nó có tác động ngược trở lại đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường,
hiện đại, chuyển từ sản xuất tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị
trường.
- Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết các vấn đề công ăn việc làm
và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là ở nông thôn
Xuất khẩu nông sản phát triển thì kéo theo đó là ngành công nghiệp chế biến và

ngành trồng trọt phát triển, khi đó sẽ giải quyết được nhiều công ăn việc làm, cải thiện,
nâng cao thu nhập và đời sống tinh thần của nhân dân, đặc biệt là nông dân và cư dân ở
nông thôn.
- Xuất khẩu có vai trò đẩy mạnh, tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại phát triển sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi để phát triển nền kinh tế
quốc dân, đặc biệt là hoạt động thương mại quốc tế. Đến lượt mình khi thương mại
quốc tế, cụ thể là xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ phát triển sẽ là yếu tố quan trọng
trong việc thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển. Xuất khẩu hàng nông sản là một trong
những ngành góp tỷ trọng lớn trong tổng giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam, do dó nó
có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta, qua đó nâng
cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chính
Xuất khẩu thường được thực hiện dưới một số hình thức chủ yếu sau đây:
- Hình thức xuất khẩu trực tiếp: Là hoạt động bán hàng trực tiếp của một nước
này cho một nước khác có nhu cầu tiêu dùng mà không qua một tổ chức trung gian nào.
Hình thức xuất khẩu này chủ yếu thông qua việc mở các văn phòng đại diện để bán sản
phẩm, giới thiệu sản phẩm hoặc đầu tư trực tiếp sang nước khác để tận dụng các lợi thế
đặc biệt của nước đó nhằm nâng cao tính cạnh tranh và lợi nhuận.
- Hình thức xuất khẩu gián tiếp: Là hình thức xuất khẩu qua trung gian thương
mại, qua đó sẽ chia sẻ bớt rủi ro cho nhà xuất khẩu trung gian. Tuy nhiên, qua hình thức
này nhà xuất khẩu trực tiếp sẽ phải sẻ chia một phần lợi nhuận cho trung gian nên lợi
nhuận của họ cũng giảm.
- Hình thức gia công quốc tế: Gia công quốc tế là hoạt động mà bên đặt gia công
giao hoặc bán toàn bộ nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công. Bên đặt
gia công phải trả cho bên gia công một khoản gọi là phí gia công.
- Hình thức tái xuất khẩu: Là xuất khẩu trở lại ra nước ngoài những hàng hóa
trước đây đã nhập khẩu nhưng không gia công chế biến. Hình thức này hưởng lợi nhuận
chênh lệch từ giá mua đi với giá bán lại.
- Hình thức chuyển khẩu: Là hàng hóa được chuyển từ một nước sang một nước
thứ ba thông qua một nước khác.

- Hình thức xuất khẩu tại chỗ: Là hành vi bán hàng hóa cho người nước ngoài trên
phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình. Hình thức này tiết kiệm được chi phí vận chuyển
nên lợi nhuận có thể lớn.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
1.1.3.1. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài
* Các yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu. Muốn xuất khẩu được thì phải có người tiêu dùng, cụ thể là nhu cầu và sức mua
của người tiêu dùng. Mà sức mua lại ảnh hưởng bởi các thông số kinh tế như thu nhập,
chi phí sinh hoạt, lãi suất, giá cả sản xuất… Một số yếu tố cơ bản để phản ánh kích
thước của thị trường tiềm năng đó là quy mô, cơ cấu và xu hướng phát triển của dân số,
xu hướng tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng GDP so với tốc độ tăng dân số để dự đoán khả
năng mở rộng thị trường của quốc gia đó.
*Các yếu tố tự nhiên
Đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh sản phẩm nông nghiệp thì yếu tố tự
nhiên được coi là yếu tố quyết định đến việc phát triển hay không của lĩnh vực nông
nghiệp bởi nó quyết định đến số lượng, chất lượng, đến tính kịp thời của nông sản hàng
hóa… Điều này đặc biệt đúng với nền nông nghiệp của Việt Nam, bởi điều kiện sản
xuất kém, khoa học công nghệ hiện đại chậm được ứng dụng hoặc đã được ứng dụng
nhưng rất hạn chế, do đó việc sản xuất vẫn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên rất nhiều.
Vì vậy nó ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản của doanh nghiệp.
*Môi trường văn hóa - xã hội
Môi trường văn hóa - xã hội là môi trường hình thành nên các giá trị, những tiêu
chuẩn, các niềm tin cơ bản, mỗi một môi trường văn hóa – xã hội khác nhau sẽ có các
đặc tính tiêu dùng khác nhau, nên sẽ có các yêu cầu khác nhau về tiêu chuẩn của các
sản phẩm. Do đó các nhà xuất khẩu khi xuất khẩu phải chọn lựa các mặt hàng phù hợp
với từng người tiêu dùng ở từng môi trường văn hóa – xã hội khác nhau, có như vậy
mới có thể xuất khẩu được nhiều nhất, hiệu quả nhất và mang lại lợi nhuận lớn nhất cho
nhà xuất khẩu.
* Môi trường chính trị, kinh tế và pháp luật

Mỗi thể chế chính trị khác nhau, mỗi chính phủ hay nhà lãnh đạo, mỗi giai đoạn
phát triển khác nhau thì có chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Điều này
sẽ ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Do đó các nhà xuất
khẩu của các nước khác phải tìm hiểu và nghiên cứu rất kỹ vấn đề này. Như pháp luật
của mỗi nước sẽ qui định những mặt hàng nào được và không được xuất khẩu, nhập
khẩu, những quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, về bảo vệ môi trường, môi trường
pháp lý có ổn định không, thuận lợi không… Đặc biệt là định hướng xuất khẩu của
chính phủ và các công cụ quản lý của nhà nước. Nhà xuất khẩu phải nghiên cứu yếu tố
này vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà xuất khẩu.
Trong lĩnh vực xuất khẩu các công cụ chính sách chủ yếu thường được sử dụng,
điều tiết hoạt động này gồm: Thuế xuất nhập khẩu, các công cụ phi thuế quan như: hạn
ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, giấy phép xuất khẩu, những qui định về tiêu chuẩn
kỹ thuật, an toàn vệ sinh…
1.1.3.2. Các yếu tố thuộc môi trường bên trong
Yếu tố bên trong doanh nghiệp là những yếu tố nội tại của doanh nghiệp, là những
yếu tố mà doanh nghiệp có thể chủ động và kiểm soát được, như yếu tố về vốn, công
nghệ sản xuất, mô hình và phương thức quản lý, nguồn nhân lực…
Một doanh nghiệp làm ăn giỏi, hiệu quả phải biết cách phát huy thế mạnh từ tiềm
lực sẵn có và hạn chế tối đa những yếu điểm và hạn chế trong hoạt động kinh doanh.
- Vốn: Là điều kiện không thể thiếu để thực hiện quá trình sản xuất và kinh
doanh, đó là yếu tố hết sức quan trọng cấu thành và thể hiện năng lực sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Con người: Là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh
nghiệp không có yếu tố này thì không tồn tại doanh nghiệp.
- Công nghệ: Là yếu tố trực tiếp nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã sản
phẩm, tạo ra sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Mô hình và trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp cũng là một trong những
yếu tố góp phần quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Ngoài các yếu tố trên còn có rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến hoạt động một
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng như: nguồn hàng, mức độ

tin cậy của nguồn cung cấp, sự cạnh tranh về giá, sự am hiểu về thị trường và khách
hàng…
Các yếu tố trên có ảnh hưởng quyết định đến khả năng khai thác và tận dụng lợi
thế từ thị trường. Nếu phát huy tốt tiềm năng của doanh nghiệp sẽ cho phép tận dụng tối
đa thời cơ với chi phí thấp để mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
1.1.4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
* Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị truờng, là
nghiên cứu về sức cung và cầu của thị trường hàng hóa nói. Việc nghiên cứu thị trường
được thực hiện theo hai bước: nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết, tức là đi sâu
nghiên cứu cung cầu thị trường.
Nghiên cứu cung: Là nghiên cứu về khối lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả của
hàng hóa đã đang bán trên thị trường của chính mình và của các đối thủ cạnh tranh.
Nghiên cứu cầu: Là nghiên cứu về nhu cầu tiêu dùng của thị trường, để trả lời các
câu hỏi: người tiêu dùng hàng hóa của mình là ai, chất lượng và yêu cầu của người tiêu
dùng về sản phẩm, khả năng thanh toán, quy mô của thị trường, đặc tính của thị trường,
lý do mua hàng, nhịp điệu mua hàng, ai đó có khả năng trở thành người tiêu dùng hàng
hoá của công ty, sản phẩm của công ty có kéo dài được chu kì sống hay không?...
Ngoài ra chúng ta phải phân tích điều kiện của thị trường và nghiên cứu các vấn
đề về cạnh tranh. Nghĩa là phải phân tích cụ thể tất cả những điều kiện mà thương mại
hoá sản phẩm có thể gặp phải như: cơ chế quản lý, con người, kinh tế, tâm lí…Bên
cạnh đó cần nghiên cứu nghiên cứu các yếu tố hình thành giá, các nhân tố tác động và
dự đoán những diễn biến của giá cả thị trường.
*Tạo nguồn hàng xuất khẩu
Đảm bảo được nguồn hàng ổn định với chất lượng tốt sẽ là điều kiện tạo nên uy
tín với các bạn hàng trên thế giới. Để làm được điều này doanh nghiệp phải dự báo
được xu hướng biến động của thị trường để hạn chế rủi ro trong kinh doanh, để tạo
được nguồn hàng ổn định trong khoảng thời gian hợp lí, làm cơ sở vững chắc cho việc
kí kết và thực hiện các hợp đồng.
Đồng thời tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu, đây là việc doanh

nghiệp nông nghiệp xây dựng hệ thống thu mua thông qua các đại lý và chi nhánh của
mình. Phải lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua để tạo nguồn hàng ổn định cho
xuất khẩu.
*Giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng
Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng
lực người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp lựa chọn phương thức giao dịch phù
hợp và thực hiện ký hợp đồng.
Đàm phán trong kinh doanh ở bất kì loại hình nào đều là một nghệ thuật. Trong
kinh doanh hợp tác làm ăn với nước ngoài các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác
nhau, với ngôn ngữ và tập quán khác nhau làm cho việc đàm phán trở nên phức tạp hơn.
Quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng ngoại thương là cơ sở để đi đến kí
kết hợp đồng. Bên cạnh đó, những tranh chấp trong thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí
cao…Chính vì vậy, đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải kinh
tế, phải áp dụng một cách khéo léo nghệ thuật đàm phán thì mới nhanh chóng đạt được
thành công như mong muốn.
Ký kết hợp đồng xuất khẩu: Về thực chất, hợp đồng xuất khẩu là những thỏa
thuận và các điều kiện mua bán hàng hóa, khối lượng hàng, chất lượng hàng hóa, giá
cả, điều kiện giao nhận, các điều khoản thanh toán… Giữa doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu và các doanh nghiệp, khách hàng cụ thể. Những thỏa thuận này được thể hiện
trong các văn bản hợp đồng nhất định. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất khẩu là căn cứ
pháp luật ràng buộc, buộc các bên phải thực hiện các nghĩa vụ của mình cũng như được
hưởng các quyền lợi nhất định. Chính vì vậy, khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh
nghiệp phải xem xét lại các khoản thỏa thuận trước khi ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Trước khi ký kết hợp đồng cần chú ý đến các khía cạnh: Tính hợp pháp của hợp
đồng xuất khẩu; phải chú ý đến các nội dung, các điều khoản của hợp đồng vì điều này
là quan trọng nhất đối với một hợp đồng.
* Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hóa với khách hàng, mỗi một doanh
nghiệp phải xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm cố gắng
không để xảy ra những sai sót, những thiệt hại đáng tiếc, hạn chế tối đa những rủi ro có

thể xảy ra.
* Phân tích đánh giá hoạt động xuất khẩu
Việc phân tích đánh giá hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là hết sức quan
trọng và cần thiết. Nó cho phép doanh nghiệp xác định được hiệu quả thực hiện của mỗi
hợp đồng xuất khẩu cũng như mỗi giai đoạn hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Nhờ cách đánh giá đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp ứng xử phù hợp với việc
thực hiện các hợp đồng xuất khẩu tiếp theo. Để đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu
doanh nghiệp sử dụng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu cả về mặt địmh tính và
mặt định lượng.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Cạnh tranh
Trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của đời sống kinh tế - xã hội cũng đều có yếu
tố cạnh tranh. Cạnh tranh là một động lực góp phần cho xã hội loài người tồn tại và
phát triển, không có cạnh tranh sẽ không có sinh tồn và phát triển. Đó là qui luật tồn tại
của muôn loài. Nhưng thế nào là cạnh tranh? Cho đến nay có nhiều định nghĩa khác
nhau về cạnh tranh.
Theo cách hiểu thông thường, cạnh tranh là quá trình mà các chủ thể tìm mọi biện
pháp để vượt lên so với các đối thủ về một lĩnh vực nhất định. Trong nhiều trường hợp
quá trình này được hiểu như là sự thi đua hay ganh đua. Cạnh tranh cũng có thể được
hiểu là quá trình tạo ra sự nổi trội của chủ thể so với các đối thủ. Đây là một quá trình
sáng tạo và đổi mới có tính chất toàn diện.
Về mặt lý luận, tùy từng giai đoạn, cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu mà có
quan điểm khác nhau về cạnh tranh. Theo giáo trình “Kinh tế chính trị Mác-Lênin”
(Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2005) thì “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu
tranh gay gắt giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa nhằm giành giật những
điều kiện có lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu được lợi nhuận cao nhất”.
Còn trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các nhà kinh doanh trên thị
trường nhằm giành ưu thế trên cùng một loại tài nguyên, một loại sản phẩm hoặc một
loại khách hàng về phía mình bằng “ mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn”. Trong

khi đó, P.Samuelson cho rằng: “cạnh tranh là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”.
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các quốc gia, các
ngành, các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh diễn ra ngày càng quyết liệt và gay
gắt, người ta thường nói “ thương trường như chiến trường” để miêu tả sự khốc liệt của
cạnh tranh. Trong cơ chế thị trường muốn phát triển sản xuất hàng hóa thì phải chấp
nhận cạnh tranh, vì cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng
theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. Tham gia vào cạnh tranh gồm: chủ thể kinh tế, đối
tượng tham gia cạnh tranh (các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ), môi trường cạnh tranh
(thị trường cạnh tranh).
* Chức năng của cạnh tranh:
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, song
xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Đối với nền kinh tế,
cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng sau:
+ Cạnh tranh đảm bảo điều chỉnh cung-cầu và là động lực thúc đẩy đổi mới:
Khi cung hàng hóa nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho
giá cả thị trường giảm xuống, chỉ những cơ sở kinh doanh có đủ khả năng công nghệ,
trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán mới tồn tại. Do vậy cạnh
tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong
sản xuất.
Khi cung một hàng hóa nào đó thấp hơn cầu, hàng hóa đó trở nên khan hiếm trên
thị trường, giá cả tăng lên tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó người kinh
doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực sản
xuất của những cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực làm tăng thêm lượng vốn đầu tư
cho sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội.
+ Hướng việc sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi hiệu quả nhất :
Mục đích của cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh tế là giành lợi thế để
hạ thấp giá các yếu tố “đầu vào” và nâng cao giá của “đầu ra” sao cho mức chi phí thấp
nhất, giành được lợi nhuận cao nhất. Như vậy trên phương diện toàn xã hội cạnh tranh

là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở thành động lực
bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong cạnh tranh tất yếu sẽ có doanh nghiệp
ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị phá sản do làm

×