Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Những vấn đề chung về chi Ngân sách Nhà nước cho Chương trình mục tiêu Quốc gia Giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.12 KB, 8 trang )

Những vấn đề chung về chi Ngân sách Nhà nước cho Chương
trình mục tiêu Quốc gia Giáo dục & Đào tạo
1.1. Sự cần thiết phải phát triển GD&ĐT
Con người với vai trò vị trí vừa là động lực quan trọng nhất của sự phát
triển xã hội, vừa là mục tiêu, là sản phẩm của xã hội và cũng đồng thời là yếu tố
quan trọng nhất của lực lượng sản xuất; mà sản phẩm trực tiếp đó chính là kết
quả của nền giáo dục đào tạo.
Mỗi thời đại và từng quốc gia có chính sách quản lý, phát triển giáo dục
riêng của mình, nhưng nét xuyên suốt lịch sử giáo dục thế giới thì Nhà nước
luôn giữ vai trò chủ thể hàng đầu và trực tiếp của nền giáo dục quốc gia. Sở dĩ
Nhà nước phải đảm bảo vai trò chủ thể phát triển giáo dục như vậy là do giáo
dục có chức năng quan trọng:
Một là chức năng giải phóng con người. Thông qua giáo dục, mỗi người
đều có cơ hội thăng tiến xã hội, thực hiện bình đẳng xã hội.
Hai là chức năng xây dựng con người mới, được hiểu theo nghĩa rộng
gồm công dân mới, những người cộng hòa mới, thế hệ mới, nhân dân mới.
Ba là chức năng góp phần tạo lập liên kết chính trị, thông qua việc giáo
dục ý thức chính trị mới cho các thế hệ công dân và đào tạo đội ngũ viên chức
nhà nước thống nhất.
Bốn là chức năng góp phần củng cố mối liên kết quốc gia nhờ vào việc
giáo dục một hệ thống chuẩn giá trị cho mọi thành viên xã hội.
Năm là chức năng tham gia kiểm soát xã hội. Giáo dục là một loại quyền
lực mềm, rất hữu hiệu đối với quá trình quản lý xã hội trong đó có kiểm soát xã
hội hiểu theo nghĩa rộng nhất của hoạt động này.
Các chức năng rất công cộng nêu trên càng khẳng định vị trí của giáo
dục như một dịch vụ công mà mọi Nhà nước hiện đại, không phân biệt thể chế
chính trị, nhất thiết phải coi việc quản lý, phát triển giáo dục là trách nhiệm tự
nhiên và quyền hạn tự thân của mình.
Lịch sử đất nước ta trải qua hàng ngàn năm dưới ách đô hộ của ngoại
bang xâm lược khi đặt ách đô hộ lên đất nước ta đều tìm mọi cách hủy hoại nền
văn hóa của ta, dìm nhân dân ta trong vòng dốt nát, tăm tối hòng dễ bề cai trị,


diệt tận gốc tinh thần yêu nước, khiến dân ta sống trong lầm than, không được
học hành, làm nô lệ suốt đời cho chúng.
Ngay sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, đối mặt với muôn
vàn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra ba nhiệm vụ có ý nghĩa chiến
lược đó là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Người nói:” Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự
nghiệp to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành, các cấp Đảng và Chính
quyền địa phương phải thực sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này. Phải chăm
sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy mạnh phát triển giáo dục của ta lên một bước
phát triển mới…”, “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
Tư tưởng ấy của Người đã được Đảng và Nhà nước ta phát triển thành đường
lối, chủ trương, chiến lược, chính sách cụ thể qua từng thời kỳ.
GD&ĐT tạo ra những con người phát triển toàn diện, có năng lực nghề
nghiệp, có tinh thần ham hiểu biết, có tư duy sáng tạo, làm chủ khoa học kỹ
thuật hiện đại, có ý thức và năng lực hợp tác, có tinh thần trách nhiệm với cộng
đồng xã hội, có nếp sống lành mạnh và sức khỏe tốt… đúng với mục tiêu của
nước ta trên chặng đường xây dựng xã hội mới - Xã hội chủ nghĩa: “Con người
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức”.
Cùng với sự phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật, đòi hỏi phải có
những con người có trình độ hiểu biết, thực sự dám nghĩ, dám làm, đó là kết quả
của một nền giáo dục toàn diện. Nhận thức được vai trò quan trọng của
GD&ĐT là nền tảng đưa nước ta thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, là
chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai, Nghị quyết Trung ương IV khóa VII của
BCH Trung ương Đảng đã đề ra: “Cùng với khoa học công nghệ, GD&ĐT là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Coi trọng cả ba mặt: Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu
quả. Phương hướng chung của lĩnh vực GD&ĐT trong 5 năm tới là phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH tạo điều kiện cho nhân dân đặc

biệt là thanh niên có việc làm, khắc phục những tiêu cực và yếu kém trong
GD&ĐT”; Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “GD&ĐT cùng
với khoa học công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Phải coi đầu
tư giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện
cho giáo dục đi trước phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội”.
Đầu tư cho sự nghiệp GD&ĐT là đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội
1.2. Chương trình mục tiêu Quốc gia Giáo dục & Đào tạo
1.2.1. Sự cần thiết của chương trình
Sau gần 15 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu
quan trọng, nhưng còn những yếu kém, bất cập. Ngày 28 tháng 12 năm 2001 Thủ
tướng Chính phủ đã ký quyết định số 201/2001/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược
phát triển Giáo dục 2001- 2010”. Chiến lược xác định rõ mục tiêu, giải pháp và
các bước đi theo phương châm đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
xây dựng một nền giáo dục có tính thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển mạnh
mẽ về chất lượng, đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển
trong khu vực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp
phần đắc lực thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 - 2010.
Xuất phát từ nhận thức và thức tiễn nêu trên mà việc đề ra CTMTQG
GD&ĐT là hết sức cần thiết. Nó sẽ giải quyết những vấn đề khó khăn, bất cập
về CSVC trong trường học, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục phù
hợp với yêu cầu mới, nâng cao chất lượng trong việc học cả lý thuyết cũng như
thực hành, hỗ trợ giáo dục ở các vùng khó khăn nhằm giảm sự chênh lệch về
chất lượng giáo dục giữa các vùng miền; đầu tư tập trung xây dựng một số
trường Đại học, Cao đẳng, TCCN trở thành trọng điểm... đó là những mục tiêu
chủ yếu của CTMTQG GD&ĐT trong giai đoạn từ 2001 đến 2010.
Chương trình mục tiêu quốc gia là một tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và
giải pháp đồng bộ về kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ, môi trường, cơ chế,
chính sách, tổ chức để thực hiện một hoặc một số mục tiêu đã được xác định

trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước trong một thời
gian nhất định.
Một chương trình mục tiêu quốc gia gồm nhiều dự án khác nhau để thực
hiện các mục tiêu của chương trình. Đối tượng quản lý và kế hoạch hóa được
xác định theo chương trình, việc đầu tư được thực hiện theo dự án.
Dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia là một tập hợp các hoạt động
để tiến hành một công việc nhất định nhằm đạt được một hay nhiều mục tiêu cụ
thể đã được định rõ trong chương trình với nguồn lực và thời hạn thực hiện
được xác định.
1.2.2. Nội dung của chương trình
Thực hiện Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001 và Quyết định
số 26/2003/QĐ-TTg ngày 17/02/2003 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT
thực hiện CTMTQG GD&ĐT giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005, thông qua
7 Dự án sau đây:
Dự án 1: “Củng cố và phát huy kết quả Phổ cập giáo dục tiểu học và xóa
mù chữ, thực hiện phổ cập giáo dục Trung học cơ sở”
Dự án 2: “Đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa”
Dự án 3: “Đào tạo cán bộ tin học và đưa tin học vào nhà trường, đẩy mạnh
dạy ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân”
Dự án 4: “Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường CSVC các trường
sư phạm”
Dự án 5: “Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng còn
nhiều khó khăn”
Dự án 6: “Tăng cường CSVC các trường học, các Trung tâm kỹ thuật tổng
hợp - Hướng nghiệp; xây dựng một số trường Đại học, THCN trọng điểm”
Dự án 7: “Tăng cường năng lực đào tạo nghề”
Về Cơ chế quản lý dự án :
- Bộ GD&ĐT quản lý, điều hành, tổng hợp chung tình hình thực hiện
CTMTQG GD&ĐT; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và các địa
phương tổ chức thực hiện các dự án số : 1, 2, 3, 4, 5, 6;

- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành có liên quan và các địa phương tổ chức thực hiện dự án số 7.
1.3. Nguồn tài chính thực hiện CTMTQG GD&ĐT
Từ sau Đại hội VI (12/1986) Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu sự
chuyển đổi toàn diện từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
nhà nước (hiện nay gọi là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN). Sự nghiệp
GD&ĐT cũng được phát triển từ một hệ thống giáo dục hầu như được Nhà
nước bao cấp gần như toàn bộ, đi học không phải đóng học phí sang quan điểm
giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, do dân và vì dân, phát triển giáo dục là trách
nhiệm và nghĩa vụ của toàn dân, thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân
dân cùng làm”, khai thác tiềm năng của nhân dân và các tổ chức kinh tế để hỗ
trợ cùng NSNN tăng cường đầu tư cho giáo dục, từ đó ngành giáo dục có điều
kiện phát triển nhanh hơn. Những năm qua chúng ta đã huy động được nhiều
nguồn vốn khác nhau bao gồm:
1.3.1. Nguồn Ngân sách Nhà nước:
- Ngân sách Nhà nước và chi Ngân sách Nhà nước: NSNN là hệ thống
các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế xã hội và dân cư
phát sinh trong quá trình nhà nước động viên, phân phối của cải xã hội dưới
hình thức giá trị nhằm hình thành quĩ tiền tệ tập trung của nhà nước, trên cơ sở

×