Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN sử DỤNG đồ dùng dạy học TRONG môn GDCD lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 31 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1 Cơ sở lí luận
Môn GDCD (Giáo dục công dân) có vị trí quan trọng trong nhà trường
THCS. Môn học cung cấp cho học sinh một hệ thống chuẩn mực lối sống phù hợp
với yêu cầu của xã hội ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, giúp học sinh biết sống hoà
nhập với cuộc sống hiện tại với tư cách là một công dân tích cực và năng động;
góp phần quan trọng để hình thành những phẩm chất cần thiết của nhân cách con
người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và
tăng cường khả năng hội nhập trong xu thế phát triển và tiến bộ của thời đại.
Mặt khác dạy học môn GDCD phải nhằm tạo ra sự thống nhất giữa nhận
thức và hành động, giữa lới nói và hành vi. Như vậy, môn GDCD cần phải đảm
bảo cung cấp cho học sinh những phương thức ứng xử về đạo đức, pháp luật, văn
hoá trong cuộc sống, hình thành ở mỗi học sinh sự thống nhất giữa nhận thức và
hành động, hướng học sinh vào việc thực hành trong cuộc sống hàng ngày các
chuẩn mực và mẫu hành vi tích cực mà bài học đặt ra; khơi dậy trong học sinh ý
chí thể hiện sự thống nhất đó.
Cùng với những môn học khác, môn GDCD góp phần đào tạo những người
công dân mới vừa có tri thức khoa học vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, có ý
thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước. Từ đó các em thấy rõ trách
nhiệm của mình: Luôn luôn có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp , Pháp luật,
biết tự rèn luyện bản thân để trở thành người công dân hữu ích cho quê hương, đất
nước.
Vì vậy, để phát huy tính tích cực của học sinh thì việc sử dụng có hiệu quả
đồ dùng dạy học là điều kiện hết sức quan trọng giúp học sinh chiếm lĩnh các giá
trị , các chuẩn mực đạo đức , pháp luật thông qua việc nắm tri thức , thực hành và
rèn luyện trong và ngoài giờ học.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
1.2.1. Từ thực tế xã hội:
1



Những năm gần đây, đạo đức xã hội đang bị xuống cấp, tội phạm của những
người chưa thành niên có chiều hướng gia tăng, một trong những nguyên nhân dẫn
đến các em có lối sống buông thả, thiếu văn hoá, phạm tội là hiểu biết về các giá trị
đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và pháp luật của các em còn hạn chế.Vì
vậy giáo dục đạo đức, pháp luật trong nhà trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
góp phần quan trọng trong việc giáo dục và rèn luyện con người ý thức tuân theo
những chuẩn mực của đạo đức xã hội và tuân theo pháp luật.
Bên cạnh đó trước đây, phần lớn giáo viên dạy bộ môn này là giáo viên chủ
nhiệm hoặc những giáo viên những bộ môn khác được phân công giảng dạy nên họ
không có điều kiện và ít quan tâm đến việc đầu tư cho bài giảng, chưa có kiến thức
sâu rộng và kinh nghiệm khai thác và sử dụng kênh hình trong các tiết dạy. Do đó
hiệu quả giờ dạy đạo đức, pháp luật chưa cao, các em hiểu biết về các chuẩn mực
đạo đức, pháp luật còn mơ hồ.
Những năm gần đây, phần lớn giáo viên dạy bộ môn này đã được đào tạo
chính qui, được phân công chuyên giảng dạy bộ môn này, nên họ rất quân tâm đến
việc đầu tư cho từng tiết dạy, đặc biệt là họ rất quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng
trực quan và áp dụng các phương tiện hiện đại trong giảng dạy môn GDCD. Chính
vì lẽ đó mà chất lượng và hiệu quả giờ dạy đạo đức, pháp luật được nâng cao hơn
trước.
Môn GDCD ở trường THCS trước đây thường bị coi làm môn học phụ nên
các giờ học thường diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, phương pháp chủ yếu là
phương pháp thuyết trình . Trong giờ học , học sinh được hoạt động ít , thụ động ,
giờ học không gây hứng thú , đồ dùng dạy học ít được sử dụng hoặc sử dụng một
cách hình thức. Nên đó chưa phải là là phương pháp tích cực vì học sinh chưa thực
sự có cơ hội để thể hiện thái độ , lập trường của cá nhân mình .Những giờ học như
vậy , học sinh ít có khả năng sáng tạo.
1.2.2. Từ mục tiêu đổi mới phương pháp:
Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học. Với định hướng “ lấy học sinh làm trung tâm” giáo viên cần

đa dạng hoá các phương pháp dạy học đảm bảo hiệu quả cao và học sinh tích cực,
2


chủ động trong học tập.Vì vậy việc dạy đạo đức, pháp luật giáo viên không chỉ sử
dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại mà còn phải sử dụng phương pháp trực
quan. Tức là sử dụng các phương tiện, đồ dùng dạy học nhằm minh hoạ cho nội
dung bài giảng ( Như: tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, băng hình, băng tiếng, bảng số
liệu, thống kê…).thông qua các đồ dùng trực quan học sinh có thể tiếp thu tri thức
thiết lập mối quan hệ giữa nội dung kiến thức với thực tế cuộc sống. Các em biết
vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, vào trong vấn đề cụ thể hàng ngày. Cho
nên giờ học đạo dức, pháp luật rất sôi nổi, chất lượng giờ dạy được nâng cao, học
sinh nắm bắt các chuẩn mực của đạo đức, pháp luật chắc và nhanh.
1.2.3. Từ thực tế đơn vị:
Trong những năm gần đây công tác bồi dưỡng chỉ đạo chuyên môn của Phòng
giáo dục và Đào tạo ngày càng chặt chẽ hơn, các cụm chuyên môn được quan tâm,
sinh hoạt tương đối hiệu quả. Bên cạnh đó tại đơn vị công tác chỉ đạo đổi mới
phương pháp được thống nhất từ Ban giám hiệu đến các tổ, nhóm và từng cá nhân,
đặc biệt là sử dụng đồ dùng dạy học có kết hợp các phương tiện hiện đại sẽ góp
phần nâng cao chất lượng giờ dạy nhiều hơn, mỗi giáo viên dạy Giáo dục công dân
đều xác định rằng: “ Muốn cho giờ dạy đạo đức, pháp luật không bị khô cứng và
tẻ nhạt phải sử dụng đồ dùng trực quan” giúp học sinh nắm vững kiến thức theo
nguyên lí:“ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của nhân thức chân lý, của sự nhận
thức hiện thực khách quan”. (Lê nin).
Bên cạnh đó trong những năm gần đây nhà trường đã từng bước trang bước bị
các phương tiện phục vụ cho giảng dạy như máy tính, mạng Internet nên việc sưu
tầm tư liệu như tranh ảnh rất thuận tiện. Vì vậy mỗi giáo viên đều suy nghĩ, tìm tòi
để làm sao nâng cao chất lượng sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy bộ môn
GDCD nhằm đem lại hiệu quả cao trong việc dạy và học bộ môn này.

Từ những cơ sở thực tiễn trên đây đòi hỏi phải có sự thay đổi về phương pháp
dạy học . Muốn làm được điều đó , giáo viên phải là những người tổ chức , điều
khiển các hoạt động học tập , hạn chế tối đa sự độc thoại của thầy bằng cách sử
dụng đồ dùng dạy học một cách trực quan , phong phú , tạo ra sự hấp dẫn trong tiết
3


học , học sinh chủ động tiếp cận đồ dùng dạy học , phân tích , đánh giá từ đó rút ra
nội dung bài học . Như vậy học sinh có cơ hội tối đa phát triển tính độc lập , sáng
tạo , chủ động tiếp thu kiến thức , nâng cao nhận thức , rèn luyện kỹ năng , còn
người giáo viên chỉ là người tổ chức tiết học thành môi trường để học sinh mà thôi.

PHẦN II : NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
1.1. Đồ dùng dạy học là gì ?
Đồ dùng dạy học ở đây được hiểu là những phương tiện, thiết bị vật chất
được sử dụng trong quá trình dạy học như Tư liệu, tranh, ảnh, bản đồ, biểu đồ, sơ
đồ, bản thống kê, số liệu, phim tình huống, phim tư liệu, trò chơi…Ngoài ra, ta có
thể sử dụng một số đồ dùng thông thường trong gia đình, trong sinh hoạt: Dùng để
sắm vai, chơi trò chơi
1.2. Chức năng của đồ dùng dạy học:
Các kiểu và loại đồ dùng dạy học tuy có khác nhau nhưng chức năng của chúng
là tích hợp và cơ động. Mỗi đồ dùng dạy học đều có thể thực hiện các chức năng
sau:
- Thông báo hay trình bày thông tin.
- Giới thiệu vào bài
- Minh họa, giải thích, mô tả trực quan.
- Tổ chức và tiến hành các hoạt động.
- Kết thúc bài học và giáo dục học sinh
1.3. Tác dụng của đồ dùng dạy học:

Tạo điều kiện để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, loại trừ khuynh
hướng dạy chay làm cho các giờ học khô khan, mang tính chất lý thuyết, áp ñặt đối
với học sinh.
Làm tăng tính hấp dẫn đối với nội dung học tập, gây hứng thú học tập ở học
sinh.
Làm cho việc học trở nên dễ dàng hơn, thuận lợi hơn. Các đồ dùng dạy học
là nguồn cung cấp các chất liệu để học sinh khai thác nội dung học tập một cách
4


tích cực, tự giác. Trong dạy học đổi mới, học sinh hoạt động dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, nếu không có đồ dùng, thiết bị dạy học thì việc tổ chức các hoạt
động của học sinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn, do đó kết quả học tập không đạt yêu
cầu mong muốn.
1.4. Sử dụng đồ dùng dạy học môn GDCD theo hướng đổi mới:
Việc sử dụng đồ dùng dạy học bộ môn phải tuân theo những yêu cầu nhất
định. Để việc sử dụng có hiệu quả, tránh xu hướng lạm dụng hoặc sử dụng một
cách hình thức, trước hết đồ dùng và sử dụng đồ dùng phải gắn bó hữu cơ với
phương pháp dạy học, như một thành tố của phương pháp dạy học. Mỗi hoạt động
dạy học được xây dựng trên cơ sở vận dụng một phương pháp dạy học cụ thể, có
phương tiện dạy học phù hợp để hỗ trợ cho hoạt động đó. Vì vậy sử dụng phương
tiện dạy học phải đúng lúc, đúng chỗ, kịp thời, tránh đưa ra một cách tuỳ tiện.
Một yêu cầu rất quan trọng là đồ dùng dạy học phải có tác dụng kích thích
học sinh tư duy, suy nghĩ, tìm tòi, không phải chỉ như một phương tiện minh hoạ
nội dung bài học. Khi sử dụng thiết bị, phương tiện dạy học là giáo viên cung cấp
cho học sinh những chất liệu cần thiết để học sinh tìm tòi, tự kiến tạo tri thức, kỹ
năng trên cơ sở làm việc với nguồn thông tin từ các phương tiện dạy học mà giáo
viên trình bày, giới thiệu, học sinh phải có ý kiến nhận xét, đánh giá về nội dung,
tính chất sự việc, rút ra kết luận bài học cần thiết.
Mặt khác đổi mới phương pháp dạy học không chỉ là đổi mới phương tiện và

không có nghĩa là dùng nhiều phương tiện dạy học, mà điều quan trọng là sử dụng
phương tiện dạy học một cách hợp lý, có hiệu quả, tránh lạm dụng hoặc sử dụng
một cách hình thức, Cần tránh xu hướng sử dụng đồ dùng dạy học một cách tràn
lan, không có chủ đích rõ rệt, mà mỗi đồ dùng dạy học đưa ra cần được khai thác
triệt để.
2. Các bước tiến hành sử dụng đồ dùng trực quan:
Dạy đạo đức, pháp luật cũng như tất cả các môn học khác là phải sử dụng đồ
dùng trực quan để minh hoạ cho nội dung bài giảng. Đồ dùng trực quan trong các
tiết dạy đạo đức, pháp luật hiện nay rất đa dạng và phong phú, trong giai đoạn hiện
nay khi khoa học công nghệ đang phát triển, mạng Intenet dang được sử dụng ngày
5


càng rộng rãi Vì vậy trong một tiết dạy giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức
trực quan khác nhau vào những mục đích khác nhau nhằm làm cho bài giảng thêm
hấp dẫn, đạt hiệu quả cao. Từ thực tiễn giảng dạy tôi thấy có những hình thức trực
quan như sau:
2.1. Chuẩn bị đồ dùng dạy học:
Muốn sử dụng đồ dùng trực quan đạt hiệu quả cao trong mỗi bài dạy đạo
đức, pháp luật, người giáo viên dạy GDCD phải chuẩn bị đồ dùng trực quan sử
dụng trong tiết dạy. Do những đồ dùng trực quan sử dụng trong các tiết dạy đạo
đức, pháp luật ít có sẵn nên việc chuẩn bị đồ dùng cho một tiết dạy khá công phu
đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư về mặt thời gian, công sức, trí tuệ và lòng nhiệt
tình.
Trước hết người giáo viên phải xác định xem trong tiết dạy này cần sử dụng
loại đồ dùng gì? Bảng, phấn, giấy, bút, thước; tư liệu, tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ,
sơ đồ; phiếu học tập, bảng phụ…hay các loại phương tiện kỹ thuật nghe nhìn như
máy băng đĩa ghi âm, máy chiếu các bản in, máy băng đĩa hình, các phương tiện
đa chức năng như máy tính , máy chiếu, các phần mềm dạy học trên máy vi tính…
Khi đã xác định được bài dạy này cần sử dụng những loại đồ dùng nào thì

người giáo viên sẽ bắt tay vao công việc chuẩn bị.
Ví dụ1: Khi dạy tiết ngoại khóa : “An toàn giao thông” (GDCD 8), tôi thấy ở bài
này cần sử dụng những đồ dùng sau:
- Máy vi tính.
- Máy chiếu Projector.
- Hình vẽ các biển báo, đèn tín hiệu….
- Phiếu học tập, bảng phụ, bút dạ.
- Băng hình, tranh ảnh về các tình huống đi đường
- Thông tin, số liệu, hình ảnh về tình hình TTATGT.
Từng bài dạy giáo viên cần biết trong phòng đồ dùng của nhà trường đã có
những đồ dùng nào, nếu thiếu thì tiến hành làm và sưu tầm, cố gắng vận động học
sinh cùng tham gia: vẽ tranh, sưu tầm tranh ảnh, tìm số liệu, khi cần có thể tự quay
hoặc nhờ đồng nghiệp quay những đoạn phim tư liệu ngắn hoặc các tình huống.
6


Biển báo nguy hiểm

Biển báo cấm

Đi hàng ba, hàng tư

Tuyên truyền An toàn giao thông

Biển báo chỉ dẫn

Đá bóng dưới lòng đường

Cảnh sát giao thông làm nhiệm vu


7


Khi đã có những đồ dùng cần sử dụng, tôi tiến hành nghiên cứu thật kỹ từng
ký hiệu trên bản đồ, hình vẽ, tìm hiểu chi tiết nội dung, ý nghĩa của từng bức
tranh, hình vẽ, ý nghĩa của những số liệu để khi lên lớp giảng dạy được tốt. Trong
quá trình sưu tầm tư liệu tôi cố gắng tích lũy và sắp xếp chúng theo từng chủ đề
khác nhau như: chủ đề về An toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng
ngừa lây nhiễm HIV/AIDS , Thanh niên, Hôn nhân gia đình, Hội nhập quốc tế, Bộ
máy Nhà nước, các chuẩn mực đức. Trong từng chủ đề có các thể loại tư liệu khác
nhau: Phim tư liệu, tình huống, tranh ảnh, mẫu chuyện…những tư liệu này không
chỉ dạy học ở lớp 9 mà còn những lớp khác tùy theo chủ đề để lựa chọn. Việc sắp
xếp này cũng giúp cho giáo viên dễ dàng trong việc lấy dùng khi cần thiết, giáo
viên có thể trình chiếu trực tiếp, thiết kế giáo án điện tử hoặc photo ra giấy để dạy.
Để làm được những điều đã trình bày thi người giáo viên phải có những am
hiểu tình hình chính trị xã hội chủa địa phương, đất nước, phải cập nhật thông tin
trên đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí, trên mạng Internet để kịp thời bổ
sung những tranh ảnh, bài viết, số liệu mới để đảm bảo tính chính xác, cập nhập
của bài giảng.
2.2. Sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả:
Muốn sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả, trước hết người giáo viên cần
xác định loại phương tiện cần sử dụng, tác dụng của nó đối với bài giảng.
2.2.1. Tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ, bản đồ:
Những đồ dùng trực qua này sẽ có tác dụng gây ấn tượng sâu sắc trong ký
ức mỗi học sinh. Nếu người giáo viên sử dụng tốt các phương tiện đó sẽ giúp cho
học sinh phát triển được óc quan sát, trí tưởng tượng, khả năng tư duy liên hệ thực
tế. Nó còn giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những điều thu nhận được.
Ví du 1: khi dạy bài 4: Bảo vệ hòa bình (GDCD 9) chúng ta có thể giới thiệu đến
học sinh những bức tranh
Khi xem những bức ảnh này học sinh sẽ hình dung được:

- Hậu quả to lớn của chiến tranh.
- Ngày nay chiến tranh vẫn xãy ra nhiều nơi trên thế giới
8


- Trách nhiệm của cộng đồng thế giới, mỗi quốc gia, mỗi con người phải làm
gì để ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình.

Mỹ ném bom nguyên tử Nhật bản

Hậu quả của chiến tranh

Bảo vệ trật tự xã hội

Bảo vệ Tổ Quốc

Biểu tình vì hòa bình

Vẽ tranh vì hòa bình
9


Ví du 2: Khi dạy bài 17: Nhà nước CH XHCN Việt Nam (Lớp 7); bài 18: Bộ máy
Nhà nước cấp cơ sở (Lớp 7); Bài 20; Hiến pháp nước CH XHCN Việt Nam (Lớp
8): Giáo viên có thể giới thiệu các sơ đồ sau, nhằm giúp học sinh hiểu được một
cách dễ dàng cơ cấu tổ chức Nhà nước ta từ trung ương đến địa phương:
- Cơ quan quyền lực Nhà nước CH XHCN Việt Nam.
- Tổ chức bộ máy nhà nước CH XHCN Việt Nam.
- Cơ cấu tổ chức cơ quan hành chính nhà nước CH XHCN Việt Nam.
- Cơ cấu tổ chức cơ quan xét xử nước CH XHCN Việt Nam.

- Cơ cấu tổ chức cơ quan kiểm sát nước CH XHCN Việt Nam.

10


11


Ví dụ 3: Khi dạy bài: Ngoại khóa: “An toàn giao thông” (Lớp 9)giáo viên có thể
đưa ra “Biểu đồ so sánh tai nạn giao thông theo từng tháng năm 2008 và 2009”
Mục đích: Nhằm giúp học sinh so sánh tình hình tai nạn giao thông 2 năm gần nhất
về số người chết theo từng tháng(có so sánh cùng thời điểm của 2 năm 2008, 2009)
từ đó có cái nhìn khái về tình hình tai nạn giao thông cả nước.

Biểu đồ so sánh tai nạn giao thông theo từng tháng năm 2008 và 2009:

12


Ví dụ 4: Khi dạy bài: Ngoại khóa: “Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc” (lớp 9) giáo viên có
thể giới thiệu “Bản đồ hành chính Việt Nam”:
Qua bản đồ giúp học sinh hiểu được:
- Đất nước ta, vị trí tiếp giáp với nước ngoài, một phần đất nước ngoài biển
khởi (Hoàng Sa, Trường Sa)
- Xác định được vùng trời, vùng biển, những tất đất thiêng liêng của Tổ Quốc
 Hình thành ý thức công dân, nghĩa vụ đối với đất nước
Ví dụ 5: Khi dạy bài: Ngoại khóa “An toàn giao thông” (Lớp 8) giáo viên có thể
giới thiệu “Lược đồ mạng lưới giao thông đường sắt Việt Nam” để :
- Giới thiệu mạng lưới giao thông đường sắt ở Việt Nam và đặc điểm của
đường sắt nước ta: Hầu hết các đường bộ đều giao cắt với đường sắt trên

cùng một mặt phẳng (đoạn đường đó gọi là đường ngang). Ở nước ta có
khoảng hơn 1000 đoạn đường như vậy, trên các đoạn đường đó thường xảy
ra tai nạn vô cùng nguy hiểm.
- Tìm những biện pháp đảm bảo an toàn khi đi qua đoạn đường bộ giao cắt
với đường sắt.
- Biết bảo vệ tài sản trên đường sắt, tránh việc ném đá lên tàu, đảm bảo an
toàn tại địa phương nơi tàu đi qua

Đường bộ giao với đường sắt

Bản đồ hành chính Việt nam
13


2.2.2. Bảng thống kê, số liệu:
Bảng thống kê, số liệu ấy sẽ là những minh chứng có sức thuyết phục nhất,
sinh động nhất về thực tiễn cuộc sống. Giúp học sinh có cái nhìn thực tế, thiết thực
so với lý thuyết chung chung, Từ đó các em nắm bài vững, hiểu bài sâu.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Ngoại khóa: “An toàn giao thông” (Lớp 9) giáo viên có thể
đưa ra “Bản thống kê tình hình tai nạn giao thông”giúp học sinh:
- Thấy được những tổn thất to lớn về người do tai nan giao thông gây ra.
- Diễn biến phức tạp của tai nạn giao thông.
- Tìm ra những giải pháp góp phần hạn chế tai nạn giao thông.
Tai nạn giao thông

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008


Tỉ lệ giảm so với

( Toàn quốc)
Số vụ
14.701.
14.624.
11.522
Số người chết
12.731.
13.150.
10.397
Số người bị thương
10. 877.
10.546.
7.413
Bảng thống kê tình hình tai nạn giao thông.

năm trước
13,3%
12,7 %
24.8 %

Ví dụ 2 : Khi dạy bài 14: “ Phòng, chống nhiễm HIV/ AIDS” (GDCD 8) giáo viên
có thể giới thiệu “Bảng thống kê tình hình nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam” nhằm
giúp học sinh:
- Thấy được nguy cơ, mức độ lây lan nhanh chóng của đại dịch HIV/AIDS ở
nước ta đối với tất cả mọi người, không phân biệt độ tuổi, giới tính, tầng lớp
- Thấy được sự nguy hiểm của căn bệnh thế kỉ. Có ý thức phòng ngừa và
tuyên truyền mọi người phòng chống sự lây lan của HIV/AIDS.

- Tránh phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS.
Cả nước
Số người nhiễm HIV
Số bệnh nhân AIDS
Số người tử vong vì AIDS

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

2001
41. 622

2003
79. 660

2006
104. 111

2007
128.36

2008
135.171


17. 289
10. 071

7
25.219
14.04

29.134
41.418

6. 251
3. 426

11. 254
6. 325

2
Bảng thống kê tình hình nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam
2.2.3. Phim tư liêu, Video clip tình huống:
14


Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc tìm những
thước phim tư liệu, phóng sự điều tra, Video clip tình huống không còn qua khó
khăn đối với người giáo viên, những tư liệu này có rất nhiều trên Iternet. Điều quan
trọng là người giáo viên phải biết lựa chọn cho phù hợp vứi từng bài học, vừa
mang tính giáo dục cao.
Trong quá trình giảng dạy của mình, tôi đã cố gắng sưu tầm, sắp xếp các loại
tư liệu này thành những chuyên mục, các đoạn phim có thể sử dụng dạy nhiều lớp

khác nhau với cùng một chủ đề.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Lý tưởng sống của thanh niên” (GDCD 9) tôi sẽ cho học
sinh xem đoạn Video clip hình ảnh về Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Video
clip về “Thanh niên tình nguyện” đi đến vùng sâu, vùng xa, Video clip về thanh
thiếu niên ăn chơi hư hỏng, đánh bạc đua xe…nhằm giúp học sinh:
- So sánh hai lối sống đối lập nhau và hậu quả của việc ăn chơi hư hỏng.
- Thấy được trách nhiệm to lớn của thanh niên trong sự nghiệp Công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước.
- Có ý thức phấn đấu rèn luyện của bản thân, có nhu cầu cống hiến vì sự
nghiệp chung.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý của công dân”
(GDCD 9) tôi sẽ cho học sinh xem những đoạn Video clip “Buôn bán ma túy”,
“Học sinh đi hàng ba, hàng tư”, “lấn chiếm lòng, lề đường”, “Đi xe trong sân
trường”nhằm giúp học sinh xác định các khái niệm:
- Vi phạm pháp luật hình sự,
- Vi phạm pháp luật hành chính;
- Vi phạm pháp luật dân sự;
- Vi phạm kỉ luật.
 có ý thức chấp hành tốt các quy định của pháp luật và nôi quy của nhà trường
Ví dụ 3:

Khi dạy bài 12 “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân”

(GDCD 9) tôi sẽ cho học sinh xem đoạn Video clip về “Bạo lực gia đình”, nhằm
giúp học sinh thấy được đó là hành vi vi phạm pháp luật cần lên án, qua đó giúp
15


các em liên hệ đến gia đình mình, nơi em ở từ đó giáo dục ý thức trách nhiệm của
mình đối với gia đình.

2.2.4. Những câu chuyện có thật trong cuộc sống, qua báo chí …
Những câu chuyện ấy sẽ là phương tiện minh hoạ chân thực nhất, sống động
nhất góp phần làm cho bài giảng thêm hấp dẫn, tác động trực tiếp đến tâm tư, tình
cảm của học sinh. Thông qua những câu chuyện thực tế giáo viên bồi dưỡng cho
học sinh những quan điểm đúng đắn, các em biết yêu ghét rõ ràng; biết bênh vực
những việc làm, hành động đúng; biết đấu tranh với những hành động, việc làm sai
trái, vi phạm nội qui trường lớp, vi phạm pháp luật.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 8 “Năng động sáng tạo” (GDCD 9) tôi đã kể cho học sinh
nghe câu chuyện về “Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký”dù phải viết bằng chân nhưng
đã vượt qua khó khăn, vượt qua số phận để trở thành “Nhà giáo ưu tú”, câu chuyện
về “Thần đèn Nguyễn Cẩm Lũy” chỉ học hết tiểu học nhưng có “biệt tài” di dời các
công trình. Từ đó giúp học sinh có ý thức vươn lên trong cuộc sống, biết vượt qua
khó khăn, năng động, sáng tạo trong công việc vươn tới thành công, có đóng góp
cho xã hội.

Cổng Tam quan được “Thần đèn Nguyễn
Cẩm Lũy di dời đến địa điểm hiện nay

Thầy giáo
Nguyễn Ngọc Ký

Ví dụ 2: Khi dạy bài 6 “Hợp tác cùng phát triển” (GDCD 9) tôi sẽ kể về tiến trình
gia nhập WTO của Việt Nam và vai trò của Bác Vũ Khoan và Bác Trương Đình
Tuyển trong công tác đàm phám. Việc gia nhập WTO có ý nghĩa vô cùng to lớn đối
16


với Việt Nam. Khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và trên con
đường hội nhập.


Lễ kí Việt nam gia nhập WTO

Bác Vũ Khoan

Bác Trương Đình Tuyển

2.3. Lựa chọn đồ dùng dạy học theo yêu cầu sách giáo viên có sưu tầm bổ sung
phù hợp:
Đây là khâu quan trọng quyết định hiệu quả giờ dạy, nếu dựa vào ý thích
chủ quan của bản thân thì rất dễ bị sai lầm. Nếu sử dụng tuỳ tiện sẽ lạc chủ đề và
phản tác dụng giáo dục, hiệu quả giờ dạy sẽ thấp. Khi chuẩn bị bài lên lớp, giáo
viên cần hiểu được: giảng bài này cần sử dụng phương tiện, đồ dùng trực quan gì?
Và sử dụng khi nào? Vào mục đích gì? Để phù hợp với nội dung bài giảng, vừa sát
hợp với thực tiễn cuộc sống vừa có tính giáo dục cao.
Theo tôi muôn sử dụng đồ dùng dạy học phù hớp yêu cầu từng bài giảng và
mang lại hiêu quả cao, người giáo viên cần chú ý những vấn đề sau:
2.3.1. Phải xác định nội dung cơ bản của bài trên cơ sở chuẩn kiến thức sách
giáo khoa về mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ từ đó lựa chọn phương tiện, đồ
dùng phù hợp.
Ví dụ: Khi dạy bài 7 “Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc”
(GDCD 9) tôi đã xác định định yêu cầu cơ bản của bài này:
- Kiến thức : Hiểu thế nào là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ý nghĩa của truyền
thống dân tộc và sự cần thiết phải kế thừa. Trách nhiệm của công dân
- Kĩ năng :Biết phân biệt truyền thống tốt đẹp với phong tục, tập quán lạc hậu cần
xóa bỏ.
17


- Thái độ : Tôn trọng, bảo vệ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Phê phán
những hành vi thiểu tôn trọng xa rời truyền thống dân tộc. Từ đó quyết định chọn

lựa đồ dùng sau:
- Tranh ảnh các làng nghề truyền thống, lễ hội Cầu ngư (Miền Trung), các Video
Clip: Lế hội đền Hùng, lế hội Chùa Hương, ca trù, Cồng chiêng Tây Nguyên, múa
rối nước. Nhằm giúp học sinh hiểu rõ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam
- Tranh ảnh về mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu nhằm giúp học sinh hình thành kĩ
năng phân biệt được truyền thống tốt đẹp với mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu.

Lễ hội cầu ngư ở Phan Thiết

Múa rối nước

2.3.2. Tìm hiểu kĩ từng yêu cầu của sách giáo viên về phương tiện, đồ dùng
dạy học:
Đây chính là một trong những cơ sở để giáo viên lựa chọn đồ dùng trực
quan nhằm đảm bảo tính chính xác, phù hợp với yêu cầu bài giảng, đảm bảo tính
khoa học của bộ môn.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 16 “Quyền tham gia quản lí Nhà nước và xã hội của công
dân” (GDCD 9) SGV đã chỉ dẫn cho người giáo viên những đồ dùng trực quan cần
minh hoạ cho bài giảng là:
- Luật khiếu nại, tố cáo.
- Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.
- Luật bầu cử đại biểu HĐND.
18


- Sơ đồ nội dung bài học
Từ đó giáo viên có thể chuẩn bị thêm hình ảnh, băng hình, mẫu chuyện có liên
quan đến bài học để nội dung bài giảng sinh động hơn.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 15 “Phòng ngừa tai nạn, vũ khí, cháy nổ và các chất độc hại”

(GDCD 8) Sách giáo viên đã ghi rõ ở mục tài liệu và phương tiện để giáo viên
chuẩn bị như sau:
- Luật Hình sự năm 1999
- Luật phòng cháy và chữa cháy.
- Các thông tin, sự kiện trên sách, báo về tai nạn, vũ khí, cháy nổ và các chất
độc hại.
Giáo viên có thể bổ sung thêm hình ảnh, băng hình, mẫu chuyện có liên quan
đến bài học để tăng thêm tính thời sự của bài dạy.
2.3.3. Luôn theo dõi tình hình thực tế, thời sự, báo, đài, có phong cách sống
chuẩn mực:
Đây là kinh nghiệm rất bổ ích giúp người giáo viên có vốn kiến thức, hiểu
biết sâu rộng mà để khai thác, sử dụng đồ dùng trực quan, làm cho việc sử dụng
các phương tiện, đồ dùng này hay hơn, hấp dẫn hơn và đạt hiệu quả cao. Tìm đọc
tài liệu tham khảo và tìm hiểu tình hình thực tế để giáo viên có thêm cơ sở lựa
chọn các hình ảnh, phương tiện minh hoạ cho bài giảng điển hình nhất, mới nhất,
sát hợp với thực tiễn và có tính giáo dục cao.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 18 “Sống có đạo đức và tuân theo pháp luật” (GDCD 9). Với
bài này, yêu cầu giáo viên cần chuẩn bị một số bộ luật quan trọng:
- Luật di sản văn hóa.
- Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
- Luật Hôn nhân gia đình.
- Một số Nghị quyết của Đảng về Giáo dục-đào tạo, Khoa học công nghệ, về
văn hóa.
- Ngoài ra giáo viên cần tìm hiểu những tấm gương về danh nhân đất nước,
địa phương những tấm gương tiêu biểu được giới thiệu trên truyền hình
“Người đương thời”; cần đọc và có hiểu biết về kiến thức chính trị xã hội.
19


- Bản thân giáo viên phải là người sống có đạo đức, có lí tưởng, yêu trẻ, yêu

nghề, mẫu mực trong cuộc sống, chấp hành tốt pháp luật, gia đình văn hóa,
gắn bó với cộng đồng, nhà trường và nơi ở.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 13: “ Phòng, chống tệ nạn xã hội” ( GDCD 8) giáo viên cần
nghiên cứu và tìm hiểu những tài liệu sau:
- Luật Phòng, chống ma tuý năm 2000.
- Bộ luật hình sự Năm 1999.
- Tranh ảnh, băng hình về tác hại của tệ nạn xã hội và hoạt động phòng chống tệ
nạn xã hội.
Để bài giảng của mình thêm hay, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, để có những số
liệu thống kê, tranh ảnh minh hoạ cho bài giảng tôi đã tìm hiểu tình hình thực tế ở
địa phương, tìm đọc báo chí, đọc và tìm hiểu những qui định của pháp luật về
phòng ngừa tệ nạn xã hội, tìm đọc các tư liệu trên mạng Internet…Qua đọc những
tài liệu đó, tôi đã có những số liệu cụ thể nhất, sống động nhất để minh hoạ cho bài
giảng. Thông qua những số liệu, hình ảnh đó học sinh trực tiếp hiểu rõ tính chất
nguy hiểm của tệ nạn xã hội, từ đó các em cũng thấy rõ các biện pháp phòng chống
của nhà nước và địa phương, liên hệ được trách nhiệm của bản thân.
2.4. Chọn đồ dùng dạy học phù hợp để sử dụng cho từng hoạt động khác
nhau :
Cùng với việc lựa chọn, tìm hiểu các phương tiện, đồ dùng trực quan người
giáo viên cần tìm ra cách thức sử dụng đồ dùng trực quan cho phù hợp và đem lại
hiệu quả cao.Vì sử dụng tuỳ tiện, không đúng mục đích sẽ không đem lại kết quả
mà còn ảnh hưởng không tốt đến chất lượng, hiệu quả dạy và học. Tùy từng đặc
điểm của hoạt động mà giáo viên có lựa chon đồ dùng, phương tiện cho phù hợp.
2.4.1. Hoạt động giới thiệu bài :
Đối với hoạt động này, nếu chỉ đàm thoại hay thuyết trình thì hiệu quả sẽ
không cao, không lôi cuống được học sinh. Thông thường đối với hoạt động này
chỉ cần một hoạt cảnh sắm vai tình huống nhỏ, một đoạn Video Clip phóng sự, sẽ
giúp cho giáo viên có lối vào bài hiệu quả, lớp học sinh động.
20



Ví dụ 1 : Khi dạy bài 15 “Phòng ngừa tai nạn, vũ khí, cháy nổ và các chất độc
hại” (GDCD 8) giáo viên có thể cho học sinh xem 1 đoạn phim ngắn về tai nạn do
cháy, nổ gây nên.
GV : Đoạn phim tư liệu trên đề cấp đến vấn đề gì ?
HS : Tai nạn do cháy nổ.
GV : Đúng những hình ảnh trên đã đề cập đến tình hình tai nạn cháy nổ ở nước ta
trong thời gian qua và hiện nay đã gây những thiệt hại vô cùng to lớn về người và
của cho đất nước, để lại những hậu quả nặng nề cho toàn xã hội. Ngày nay, chiến
tranh đã lùi xa nhưng tai nạn do cháy nổ và các chất độc hại luôn rình rập tất cả
mọi người. Vậy chúng ta làm gì để góp phần hạn chế những tai nạn do cháy nổ và
các chất độc hại gây nên, chúng ta cùng tìm hiểu bài 15.
Ví dụ 2 : Khi dạy bài 19: “ Quyền tự do ngôn luận”(GDCD 8), giáo viên có thể giới
thiệu bài mới bằng cách Sử dụng phim đèn chiếu hoặc máy chiếu đa năng chiếu
các hình ảnh sau:
- Nhân dân đóng góp ý kiến vào bản dự thảo Luật, dự thảo Hiến pháp.
- Học sinh lớp 8/1 đang họp bàn các biện pháp nâng cao chất lương học nhóm.
- Một cuộc họp tiếp xúc cử tri của HĐND xã.
- Đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường.
Rồi dặt câu hỏi:
- Quan sát các ví dụ trên và cho biét những công dân trên đây đang thực hiện
quyền gì?
( Quyền tự do ngôn luận ).
 Vậy thế nào là tự do ngôn luận? Công dân cần sử dụng quyền tự do ngôn luận
như thế nào? Chúng ta cùng nghiên cứu, tìm hiểu bài học hôm nay: Bài 10 :
Quyền tự do ngôn luận.
2.4.2. Tìm hiểu khái niệm, nội dung kiến thức cơ bản :
Với hoạt động này, tôi thường sử dụng các phương tiện trực quan như: Máy
chiếu, băng hình, tranh ảnh kết hợp với phương nêu vấn đề bằng cách đặt câu hỏi
để kích thích hoạt động tư duy của học sinh, hướng các em vào những vấn đề, kiến

thức cơ bản trong bài cần phải tìm hiểu
21


Giáo viên có thể sử dụng đồ dùng trực quan như băng hình, số liệu, bản đồ,
bảng thống kê…yêu cầu học sinh theo dõi, quan sát, thảo luận nhằm phát hiện và
rút ra những nội dung kiến thức cơ bản, trọng tâm. Lúc này giáo viên chỉ là người
gợi ý, hướng dẫn chứ nhất thiết không phải trình bày khi học sinh có thể tự làm
được.
Ví dụ 1 : Khi giảng bài 13: “Phòng chống tệ nạn xã hội” (GDCD8), để giúp học
sinh hiểu được tác hại của tệ nạn xã hội, giáo viên sử dụng băng hình về các tệ nạn
xã hội và bảng thống kê tình hình nhiễm HIV/AIDS năm 2008 như sau:
Số người nhiễm HIV
Số người chết vì AIDS
Thế giới
Hơn 40 triệu người
18,3 triệu người
Việt Nam
135. 171 người
41.418 người
Khánh Hòa
2 187 người
805 người
Được trực tiếp nhìn thấy những hình ảnh: Nhà cửa tan hoang, ruộng vườn, đồ đạc
bị bán vì cờ bạc, nghiện hút; cảnh vật vã quằn quại khi lên cơn nghiện, thân hình
gầy còm ốm yếu chết dần, chết mòn vì AIDS… các em sẽ thấy rõ nguy hiểm của
các tệ nạn xã hội đối với mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội.
Sau đó giáo viên có thể đặt câu hỏi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm với các
câu hỏi sau:
- Tệ nạn xã hội đã gây nên hậu quả như thế nào đối với bản thân mỗi người?

- Tệ đánh bạc, ma tuý, mại dâm gây tác hại ra sao đối với gia đình?
- Các tệ nạn xã hội có ảnh hưởng như thế nào đến xã hội?
Hướng dẫn học sinh liên hệ tình hình địa phương, nơi các em ở, trong gia
đình mình giáo viên kết hợp giáo dục
Ví dụ 2: Khi dạy Tiết ngoại khóa “ An toàn giao thông”( GDCD 8)
Để tìm hiểu nội dung kiến thức: Vấn đề giao thông ở Việt Nam hiện nay, tôi sử
dụng băng hình giới thiệu phóng sự về “ Tình hình trật tự an toàn giao thông”.
Hỏi: Quan sát đoạn phim trên em có nhận xét gì về tình hình TTATGT ở nước ta
hiện nay?
Được trực tiếp nhìn thấy những hình ảnh: tai nạn giao thông, ùn tắc giao
thông trên đoạn đường dài mấy km; hiện tượng phóng nhanh, vượt ẩu, lạng lách,
22


đánh võng trên đường, đèo 3, 4 người trên một xe máy… các em sẽ dễ dàng nhận
thấy: Tình hình TTATGT ở nước ta hiện nay diễn biến rất phức tạp:
Khẳng định:
- Nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông: phóng nhanh, vượt ẩu, điều khiển
phương tiện khi uống rượu bia, không chấp hành các quy định về an toàn giao GT.
- TNGT tăng hàng năm và có diễn biến phức tạp, gây thiệt hại to lớn về người và
tài sản.
- Ùn tắc giao thông nghiêm trọng, gây ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế, xã hội
và ô nhiễm môi trường.
- Hiện tượng vi phạm TTATGT rất phổ biến trong đó có rất nhiều thanh niên học
sinh chúng ta.

Ùn tắc giao thông

Lạng lách, đánh võng


Tai nạn giao thông

Chuyên chở cồng kềnh

2.4.3. Hoạt động củng cố, giáo dục cuối bài:

23


Ví dụ 1 : Khi giảng bài 9: “Góp phần xây dựng nếp sống văn hóa ở cộng đồng dân
cư” (GDCD 8), để giúp học sinh khắc sâu kiến thức giáo viên có thể cho học sinh
chơi trò chơi ô chữ thông qua từng từ hàng ngang và từ chìa khóa, giáo viên kết
hợp khắc sâu kiến thức của bài và giáo dục các em ý thức góp phần xây dựng nếp
sống văn hóa ở khu dân cư từ chính gia đình mình đến trường, lớp, vân động mọi
người xung quanh bảo vệ môi trường, không sa vào tệ nạn mê tín dị đoan…

Ví dụ 2 : Khi dạy bài 13 “Phòng chống tệ nạn xã hội” (GDCD 8), giáo viên có thể
giới tranh và thiệu sơ đồ:

Tệ nạn xã hội

24


- Hãy giải thích sơ đồ và bức tranh trên? Qua đó em rút ra kết luận chung gì về các
tệ nạn xã hội?
Qua quan sát sơ đồ và bức tranh, dựa vào kiến thức cô giáo vừa giảng các em sẽ
giải thích và rút ra được nhận xét chung là:
- Các tệ nạn xã hội ( cờ bạc, ma tuý, mại dâm ) có mối liên hệ mật thiết với nhau.
- Nó vô cùng nguy hiểm đối với mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội.

Giúp học sinh rút ra được trách nhiệm của bản thân:
- Sống giản dị, lành mạnh, biết giữ mình và giúp nhau không sa vào tệ nạn xã hội.
- Tuân theo những qui định của pháp luật.
- Tích cực tham gia các hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội trong nhà trường và
địa phương.
Như vậy trong tất cả các tiết dạy đạo đức, pháp luật tiết nào cần sử dụng đồ
dùng trực quan, tôi đều tiến hành sưu tầm tư liệu, tranh ảnh, tìm đọc các tài liệu có
liên quan, tìm hiểu tình hình thực tế địa phương để lựa chọn và đưa ra những hình
ảnh, số liệu… đắt nhất, điển hình nhất, mới nhất và có sức thuyết phục nhất vào
trong bài giảng, làm cho bài giảng không bị khô khan, tẻ nhạt mà hiệu quả giờ dạy
lại cao.
2.5. Chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi phù hợp với đồ dùng dạy học :
Nhằm khai thác hết nội dung của đồ dùng dạy học, tránh tình trạng xử dụng
tùy hứng, thiếu chuẩn bị sẽ làm hạn chế hiệu quả của đồ dùng dạy học. Nếu chỉ
đưa những tranh ảnh,bản đồ, số liệu để học sinh xem chứ không yêu cầu các em
quan sát tìm hiểu, suy nghĩ, nhận xét, đánh giá và rút ra kết luận thì kho phát huy
được vai trò của nó. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy có rất nhiều tình huống
nảy sinh, lúc đó đòi hỏi người giáo viên phải giải quyết tình huống thật khéo léo
thì tiết dạy sẽ đạt kết quả tốt.
Ví dụ : Khi giảng bài 7: “Tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội”
(GDCD 8) giáo viên có thể cho hoc sinh quan sát hình ảnh:

25


×