Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Biện pháp quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng trường trung học phổ thông ở tỉnh yên bái trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.37 KB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
NGUYỄN XUÂN TUYÊN

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP
CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG Ở TỈNH YÊN BÁI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY

LUẬN VĂN TH.S GIÁO DỤC

Ngưới hướng dẫn:.TS Bùi Trọng Tuân

Hà Nội 2006


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra chủ trương đổi mới toàn
diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: "Nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý,
nội dung phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã
hội hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam..." [18, tr.95]
Hiện nay chất lượng giáo dục toàn diện của nước ta đã có chuyển biến
bước đầu. Sự nghiệp giáo dục ngày càng được toàn xã hội quan tâm. Điều 9
luật Giáo dục năm 2005 đã ghi rõ: "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài" [32, tr.67].

-

Chất lượng giáo dục là vấn đề quan trọng hàng đầu của hoạt động



giáo dục. Chất lượng giáo dục phản ánh mức độ thực hiện mục tiêu giáo
dục, nội dung, phương pháp giáo dục, quá trình tổ chức và thực hiện các
hoạt động giáo dục. Chất lượng giáo dục không tốt thì mục tiêu giáo dục
không đạt được. Trong thời gian gần đây, chất lượng giáo dục đã được sự
quan tâm, chú ý của mọi người trong xã hội. Giáo dục ngày càng phát triển
cả qui mô, phương thức giáo dục và mạng lưới các cơ sở giáo dục. Đối với
công tác giáo dục và đào tạo thì đội ngũ giáo viên đóng một vai trò quan
trọng. Điều 15 Luật giáo dục năm 2005 đã ghi: "Nhà giáo giữ vai trò quyết
định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục"[31]. Chính vì vậy, xây dựng
và phát triển đội ngũ giáo viên là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của
ngành giáo dục và của tất cả các nhà trường.
-

Ở trường THPT, người GVCNL có vai trò hết sức quan trọng, vì

lứa tuổi học sinh THPT từ 15 – 18 tuổi đang rất cần có sự giúp đỡ và định
hướng của người lớn. Nếu không, với vốn kinh nghiệm sống ít ỏi của mình,
các em sẽ khó tránh khỏi những ảnh hưởng không lành mạnh, nhất là mặt
trái trong nền kinh tế thị trường như hiện nay ở nước ta.
1


-

Trước hết người GVCNL được coi là người thay mặt Hiệu trưởng

làm công tác quản lý và giáo dục học sinh của một lớp học, là người gần
gũi thân mật, là người hướng dẫn, chỉ đạo, khuyên nhủ học sinh mỗi khi
các em gặp khó khăn, là người cố vấn tin cậy của chi đoàn lớp.

-

GVCNL có trách nhiệm quản lý, điều hành mọi hoạt động của tập thể

lớp và tác động đến sự phát triển nhân cách của từng học sinh trong tập thể đó,
chịu trách nhiệm trước nhà trường về chất lượng giáo dục của lớp mình.

-

Để tổ chức các hoạt động giáo dục đạt kết quả, người GVCNL cần

phải có một hệ thống các kỹ năng nhất định. Trong mỗi kỹ năng, họ phải
thực hiện một chuỗi những thao tác và việc làm có quan hệ mật thiết với
nhau. Vì vậy, đòi hỏi mỗi người phải cố gắng trau dồi, rèn luyện thường
xuyên để thực hiện các kỹ năng một cách thành thạo.
-

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý nhà trường, người

Hiệu trưởng cần phải quan tâm đến đội ngũ GVCNL, đây là lực lượng chủ
đạo trong công tác giáo dục của nhà trường.
-

Xây dựng đội ngũ GVCNL giỏi làm lực lượng nòng cốt là công tác có ý

nghĩa quyết định trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục ở nhà trường phổ thông.

-

Sự phát triển của nhà trường gắn liền với sự tiến bộ, trưởng thành


của từng tập thể lớp học, gắn liền với sự tiến bộ và trưởng thành của đội
ngũ giáo viên, đặc biệt là các GVCNL. Chất lượng giáo dục toàn diện của
nhà trường phụ thuộc phần lớn vào kết quả công tác giáo dục của từng giáo
viên chủ nhiệm đối với lớp mà họ phụ trách. Công tác GVCNL là một bộ
phận quan trọng trong tổng thể các hoạt động của nhà trường phổ thông
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Chất lượng
giáo dục là chất lượng của sản phẩm của nhà trường và chất lượng sản
phẩm này phải đáp ứng yêu cầu sử dụng của xã hội trong từng thời kỳ.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Biện pháp
quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường Trung

2


học phổ thông ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận
văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để đề xuất một số biện pháp quản lý công tác GVCNL
của Hiệu trưởng trường THPT trong giai đoạn hiện nay, trước hết áp dụng
cho các trường THPT tỉnh Yên Bái.
3.

Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu

3.

1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý công tác GVCNL hiện nay ở các trường THPT


tỉnh Yên Bái.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Biện pháp quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng
ở trường THPT tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận của đề tài và các vấn đề liên quan.
4.2. Tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo viên chủ
nhiệm lớp và việc quản lý công tác này ở các trƣờng Trung học phổ
thông tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay.
4.3. Đề ra các biện pháp quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp phù
hợp, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện của các trƣờng
Trung học phổ thông, mà trƣớc hết là các trƣờng Trung học phổ
thông ở tỉnh Yên Bái.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý công tác GVCNL là một trong những việc làm quan trọng
thường xuyên ở nhà trường, nếu áp dụng các biện pháp đề ra trong luận văn
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện ở các trường THPT tỉnh
Yên Bái.

3


6.
-

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc quản

lý công tác GVCNL ở trường THPT.
-


Đề xuất được một số biện pháp quản lý công tác GVCNL ở trường

THPT phù hợp với thực tiễn trên cơ sở đúc kết những kinh nghiệm quản lý
công tác GVCNL đã có, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của nhà
trường và góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục của các
trường THPT tỉnh Yên Bái.
7.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng 2 nhóm phương
pháp nghiên cứu:
7.1 Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
Tham khảo Luật giáo dục năm 2005, các văn kiện của Đảng, Nhà
nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Yên Bái,
nghiên cứu sách, tài liệu khoa học có liên quan đến đề tài.
7.2 Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
+

Khảo sát thực tế thông qua việc nghiên cứu, tham quan các trường

THPT tỉnh Yên Bái.
+

Hỏi ý kiến bằng phiếu đối với cán bộ của Sở Giáo dục và Đào tạo

Yên Bái, các đồng chí Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, cán bộ, giáo viên,
giáo viên đang trực tiếp làm công tác giáo viên chủ nhiệm lớp, học sinh.


8.

+

Phân tích các văn bản, báo cáo, các số liệu, tư liệu…

+

Tổng kết kinh nghiệm.

Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

8.1 Giới hạn của đề tài: Biện pháp quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm
lớp ở một số trường THPT tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay (2006 –
2010).
4


8.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên
cơ sở thực tế của công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp và biện pháp quản
lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở ba trường THPT thuộc ba vùng khác
nhau của tỉnh Yên Bái.
9. Cấu trúc nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về công tác giáo viên chủ nhiệm lớp và
việc quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường Trung học phổ
thông
Chƣơng 2: Thực trạng về công tác giáo viên chủ nhiệm lớp và việc
quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở các trường Trung học phổ

thông tỉnh Yên Bái
Chƣơng 3: Biện pháp quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp của
Hiệu trưởng trường Trung học phổ thông ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn
hiện nay

5


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP
VÀ VIỆC QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP



TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ

THÔNG 1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Tại Chỉ thị số 40/CT-TW ngày 15.6.2004 Ban bí thư Trung ương
Đảng nhấn mạnh: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ
về cơ cấu... đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” [2].
Muốn phát triển kinh tế xã hội thì trước hết phải xây dựng và thực
hiện tốt chiến lược phát triển toàn diện con người. Nguồn lực con người là
sự kết hợp hài hoà giữa trí lực, thể lực, nhân cách và kinh nghiệm sống. Vì
thế trong nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực luôn đặt ra mục tiêu phát triển
con người. Có con người phát triển đầy đủ và toàn diện thì mới có nhân lực
chất lượng cao.



nước ta hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, đời sống

vật chất của nhân dân ta được cải thiện và ngày càng được nâng cao, nhân
cách con người đã có những biến đổi, bên cạnh mặt tích cực, cũng đã xuất
hiện một số mặt tiêu cực, có ảnh hưởng đến công tác giáo dục trong nhà
trường. Tình trạng suy thoái về đạo đức của một bộ phận học sinh, ảnh
hưởng của lối sống thực dụng, chỉ biết hưởng thụ, không biết cống hiến,
chán học, bỏ học, mục đích động cơ học tập chưa rõ ràng, các tệ nạn xã hội
len lỏi vào nhà trường đó là những vấn đề nổi cộm trong những năm gần
đây. Vì vậy nhà trường, gia đình, xã hội cần có sự liên kết chặt chẽ trong
việc giáo dục học sinh; trong nhà trường vai trò chính là đội ngũ giáo viên
và đặc biệt là GVCNL.
Khi đề cập đến công tác GVCNL đã có nhiều tài liệu, công trình
nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, có thể kể đến các công trình tiêu biểu như:
6


- Cải tiến việc quản lý đội ngũ GVCNL của Hiệu trưởng trường phổ
thông (Đề tài cấp trường) - của Lưu Xuân Mới (Chủ nhiệm đề tài). Trường
Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội 1998.
-

Giáo dục học (Chương XVI. Người GVCNL) - của Phạm Viết

Vượng. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004
-

Phương pháp công tác của người giáo viên chủ nhiệm ở trường


Trung học phổ thông - của Hà Nhật Thăng (Chủ biên). NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, năm 2004.
Công tác GVCNL ở trường Phổ thông - của Hà Nhật Thăng
(Chủ
biên). NXB Giáo dục, Hà nội 2006.
Một số không nhiều bài báo, tư liệu khác viết về công tác GVCNL như:

- Rèn luyện một số kĩ năng làm công tác GVCNL cho sinh viên Cao
đẳng sư phạm - của Vũ Đình Mạnh. Tạp chí Giáo dục số 126 (11/2005).
-

Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng làm công tác GVCNL cho sinh

viên Cao đẳng sư phạm - của Vũ Đình Mạnh. Tạp chí Giáo dục số 135 (Kỳ
1-4/2006)...
Hầu hết các tài liệu, công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức
khái quát chung công tác GVCNL, chưa đi sâu và đề xuất các biện pháp
quản lý cụ thể thực hiện công tác GVCNL ở trường THPT. Ở tỉnh Yên Bái,
vấn đề quản lý công tác GVCNL trong trường THPT thường được Hiệu
trưởng các trường THPT quan tâm, song nó chỉ tồn tại ở dạng những kinh
nghiệm trên báo cáo sơ kết, tổng kết năm học của các nhà trường.
Như vậy, cho đến nay, theo những tài liệu mà chúng tôi có được vẫn
còn thiếu những công trình đề cập đến các biện pháp quản lý công tác
GVCNL ở trường THPT một cách đầy đủ và hệ thống.
Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi muốn đi sâu hơn để xác
định cơ sở lý luận, khảo sát thực tiễn và trên cơ sở đó đề xuất một số biện
pháp quản lý công tác GVCNL góp phần nâng cao chất lượng giáo

7



dục toàn diện trong các trường THPT trên địa bàn tỉnh Yên Bái đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Giáo dục, giáo dục toàn diện
1.2.1.1. Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài
người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn
hoá dân tộc của nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội
loài người không ngừng tiến lên. Các nhà nghiên cứu giáo dục đã đưa ra
nhiều định nghĩa về giáo dục:
Theo “Từ điển Giáo dục” (NXB Từ điển bách khoa): “Giáo dục là
hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác
động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và
lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình
thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách, phù hợp với mục đích ,
mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã
hội” [43, tr.105].
Theo Đặng Vũ Hoạt và Nguyễn Hữu Dũng: “Giáo dục là một nhu
cầu tất yếu của xã hội và sự xuất hiện hiện tượng giáo dục là một tất yếu
lịch sử. Nó diễn ra theo cơ chế những thế hệ đi trước truyền lại cho những
thế hệ đi sau những kinh nghiệm tích luỹ được và thế hệ sau tiếp thu nó làm
phong phú thêm vốn kinh nghiệm đó. Chính nhờ cơ chế này những giá trị
vật chất và những giá trị tinh thần của loài người không những không bị
mai một đi mà điều quan trọng là lại được phát triển không ngừng”[23,
tr.2].
Theo Nguyễn Sinh Huy và Nguyễn Văn Lê:
+ Theo nghĩa rộng “Giáo dục là sự hình thành có mục đích và tổ
chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế

8


giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ cho con người; với nghĩa
rộng nhất khái niệm này bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những
yếu tố tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người đáp ứng
các yêu cầu kinh tế - xã hội” [24, tr.33].
+

Theo nghĩa hẹp: “Giáo dục bao gồm quá trình hoạt động nhằm tạo

ra cơ sở khoa học của thế giới quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối
với hiện thực của con người kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá
trình này xem như một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể”[24, tr.33].
“ Về bản chất, giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh
nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người.
Về hoạt động, giáo dục là quá trình tác động đến các đối tượng giáo
dục để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách.
Về mặt phạm vi, khái niệm giáo dục bao hàm nhiều cấp độ khác nhau:

+

Ở cấp độ rộng nhất, giáo dục có thể hiểu là quá trình hình thành

nhân cách dưới ảnh hưởng của những tác động chủ quan và khách quan, có
ý thức và không có ý thức của cuộc sống, hoàn cảnh xã hội đối với các cá
nhân. Đó là quá trình xã hội hoá con người.
+

Ở cấp độ thứ hai, giáo dục có thể hiểu là hoạt động có mục đích


của xã hội, với nhiều lực lượng giáo dục, tác động có kế hoạch, có hệ thống
đến con người để hình thành những phẩm chất nhân cách (Giáo dục xã hội).
+ Ở cấp độ thứ ba, giáo dục được hiểu là quá trình tác động có kế
hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của các nhà sư phạm
trong nhà trường tới học sinh nhằm giúp cho họ nhận thức, phát triển trí tuệ
và hình thành những phẩm chất nhân cách. Đó là quá trình sư phạm. Ở cấp
độ này giáo dục bao gồm: Quá trình dạy học và quá trình giáo dục theo
nghĩa hẹp.

9


+

Ở cấp độ thứ tư, giáo dục được hiểu là quá trình bồi dưỡng để hình

thành những phẩm chất đạo đức cụ thể, thông qua việc tổ chức cuộc sống,
hoạt động và giao lưu. Ở cấp độ này khái niệm giáo dục ngang hàng với
khái niệm dạy học (Giáo dục theo nghĩa hẹp)” [44, tr. 22,23].
Từ các định nghĩa trên, ta thấy giáo dục là một khái niệm cơ bản
thường được dùng trong khoa học và thực tiễn đời sống xã hội. Ta có thể
hiểu một cách chung nhất: Giáo dục là hoạt động chuyển giao hệ thống tri
thức cho thế hệ sau nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách cá nhân – xã
hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã hội. Khái niệm giáo dục còn được
phân nhỏ về ngoại diên và nội hàm thành các khái niệm: Giáo dục nhà
trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội; về nội dung giáo dục thì có:
Giáo dục ý thức công dân, giáo dục văn hoá- thẩm mỹ, giáo dục lao động,
hướng nghiệp, giáo dục thể chất – quân sự, giáo dục môi trường, giáo dục
dân số, giáo dục giới tính, giáo dục phòng chống ma tuý…

Giáo dục được coi là khởi nguồn của sự phát triển. Không có giáo
dục thì không có bất cứ sự phát triển nào đối với con người, đối với kinh tế,
văn hoá. Chính nhờ có giáo dục mà các di sản tư tưởng và kỹ thuật của các
thế hệ trước được truyền lại cho thế hệ sau. Các di sản này được tích luỹ
ngày càng phong phú làm cho xã hội phát triển.
1.2.1.2. Giáo dục toàn diện
Theo Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Đắc Hưng: “Giáo dục toàn diện là
những biện pháp tổng thể của nhà trường, gia đình và xã hội tác động tới
học sinh, sinh viên nhằm hình thành và phát triển tất cả các mặt: trí tuệ, đạo
đức, sức khoẻ và nhân cách con người nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống hạnh phúc của mỗi cá nhân. Giáo dục toàn
diện trong nhà trường thường biểu hiện ở nội dung giáo dục bao gồm đầy
đủ các mặt: đức dục, trí dục, mỹ dục, thể dục, giáo dục nghề nghiệp…phù
hợp với điều kiện và đặc điểm đặc thù của từng cấp học, bậc học” [5
,tr.266].

10


“Thực hiện giáo dục toàn diện nhằm đào tạo những người lao động
có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có đạo đức, có tri thức văn hoá, có sức khỏe
và có kỷ luật. “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
cho học sinh sinh viên”. Giáo dục truyền thống cách mạng, văn hoá dân tộc
xuyên suốt các hoạt động và mọi hình thức giáo dục. Ở đây, việc chú trọng
cải tiến nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước phù hợp với từng bậc học, cấp học là hết sức quan trọng, quan tâm
đến việc tăng cường học ngoại ngữ, tin học” [5, tr.237].
1.2.2. Quản lý, chức năng quản lý
1.2.2.1. Quản lý

Mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, bất luận tổ chức có mục
đích gì, cơ cấu và qui mô ra sao, đều cần đến hoạt động quản lý và có
người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được mục đích của mình. Vậy
hoạt động quản lý là gì ?
Theo Đại từ điển tiếng Việt, quản lý là: “Tổ chức, điều khiển hoạt
động của một đơn vị, một cơ quan: quản lý lao động, quản lý cán bộ, quản
lý công việc‟‟ hoặc quản lý là: “Trông coi, giữ gìn, theo dõi việc gì: quản
lý hồ sơ lý lịch, quản lý vật tư.”[46, tr.1363]
Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động quản lý
là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý)
đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho
tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.[14]
Theo Giáo trình khoa học quản lý (Hồ Văn Vĩnh - chủ biên): “Quản
lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra”.[45]
Các nhà lý luận quản lý trên thế giới như: Frederick Winslow Taylor,
[Mỹ, (1856-1915)]; Henri Fayol, [Pháp, (1841–1925)]; Max Weber, [Đức,
11


(1864-1920)]; đều đã khẳng định: Quản lý là khoa học đồng thời là nghệ
thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội. Nói đến hoạt động quản lý người ta
thường nhắc đến ý tưởng sâu sắc của K-Marx: “Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự
điều khiển mình còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng”.
Quản lý có thể xét theo ngữ nghĩa: Quản lý = Quản + Lý, quá trình
“Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”, quá trình
“Lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp đổi mới hệ vào thế “phát triển”. Nếu người
đứng đầu tổ chức chỉ lo việc “Quản”, tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì
tổ chức dễ trì trệ, tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến việc “Lý” tức là chỉ lo

việc sắp xếp tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng của sự ổn định thì
sự phát triển của tổ chức không bền vững. Trong “Quản” phải có “Lý”,
trong “Lý” phải có “Quản” để động thái của hệ ở thế cân bằng động: Hệ
vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa các
nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực)[3].

Các định nghĩa khác:
- Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ huy,
điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con
người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với qui
luật khách quan.
-

Hoạt động quản lý là sự tác động qua lại một cách tích cực giữa

chủ thể và đối tượng quản lý qua con đường tổ chức; là sự tác động điều
khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động của các đối tượng quản lý, lãnh
đạo cùng hướng vào việc hoàn thành những mục tiêu nhất định của tập thể
và xã hội.
1.2.2.2. Chức năng quản lý

12


Nhiều người đã khái quát hoá hoạt động quản lý thành một quá trình
đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách thực hiện bốn chức năng:
+

Chức năng kế hoạch hóa.


+

Chức năng tổ chức.

+

Chức năng chỉ đạo thực hiện.

+

Chức năng kiểm tra đánh giá.

Bốn chức năng này được coi như bốn công đoạn tạo nên một chu
trình quản lý. Các chức năng này có quan hệ chặt chẽ với nhau, đan xen với
nhau và đều cần đến thông tin quản lý. Ta có thể mô hình hóa hoạt động
quản lý như một chu trình với các chức năng đó như sau:[14]

13


Sơ đồ 1: Chu trình quản lý
Lập kế hoạch

Kiểm tra

Chỉ đạo thực hiện

Khoa học quản lý đặt trên nền tảng phương pháp luận của triết học,
Chính trị học, Điều khiển học, Kinh tế học, Văn hoá học, Lý thuyết thông
tin… Sự phát triển của khoa học quản lý kéo theo sự phát triển của lý

thuyết dự báo, kế hoạch hoá,…
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng công nghệ và thông
tin, xu hướng dân chủ hoá xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, đòi
hỏi tính hệ thống trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý ở cả ba cấp: Cấp
tác nghiệp, cấp trung gian và cấp cao. Không thể có cán bộ quản lý giỏi
kiểu “cha truyền con nối” hoặc chỉ trông cậy vào “năng lực bẩm sinh”.
“Quản lý” là một nghề, và “nhà quản lý” dù ở cấp nào thì cũng phải được
đào tạo.
1.2.3. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.3.1. Khái niệm chung
Trong lĩnh vực giáo dục, quản lý giáo dục có vai trò hết sức quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Người quản lý cần
phối hợp và sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và tin lực của tổ
chức để đạt được mục tiêu giáo dục. Khái niệm "Quản lý giáo dục", chủ
yếu có hai cấp độ: Cấp vĩ mô và cấp vi mô.
14


-

Đối với cấp vĩ mô:

Theo Nguyễn Kỳ - Bùi Trọng Tuân: "Quản lý hệ thống giáo dục có
thể xác định như là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng
đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ
thống (từ Bộ đến các trường, các cơ sở giáo dục khác,...) nhằm mục đích
bảo đảm việc giáo dục xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức
và vận dụng những qui luật chung của chủ nghĩa xã hội, cũng như của các
qui luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý của trẻ
em, thiếu niên và thanh niên" [25, tr.14].

- Đối với cấp vi mô:


cấp độ vi mô thì quản lý giáo dục là quản lý nhà trường.

Theo Đặng Quốc Bảo: “Trường học là một thiết chế xã hội trong đó
có diễn ra quá trình đào tạo, giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai
nhân tố: “Thầy – Trò”. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong
guồng máy của Hệ thống giáo dục quốc dân nó là đơn vị cơ sở ” [4].
Theo Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các
cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học
sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn
lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà
trường”[44, tr.205].
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ, với từng học sinh” [20].
Theo Trần Kiểm: “Quản lý trường học có thể hiểu là một hệ thống
những tác động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến
tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà
trường nhằm huy động và phối hợp sức lực và trí tuệ của họ vào mọi mặt
15


hoạt động của nhà trường hướng vào hoàn thành có chất lượng và hiệu quả
mục tiêu dự kiến” [27, tr.27].
Tóm lại, quản lý trường học về bản chất là quản lý con người (tập thể
cán bộ, giáo viên và học sinh) và quản lý các nguồn lực cơ sở vật chất –
thiết bị giáo dục của nhà trường. Do đó, có thể hiểu quản lý trường học là

những tác động tối ưu của chủ thể quản lý (lãnh đạo trường học) đến giáo
viên, học sinh và các cán bộ khác nhằm tận dụng các nguồn lực hướng vào
đẩy mạnh các hoạt động của nhà trường. Tiêu điểm là thúc đẩy quá trình
đào tạo thế hệ trẻ, thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo,
đưa nhà trường tiến lên trạng thái mong muốn .
1.2.3.2. Quản lý trường Trung học phổ thông
* Đặc thù của quản lý trường Trung học phổ thông:
Trường THPT thuộc cấp học cuối cùng trong bậc học phổ thông. Nó
là đơn vị cơ sở của hệ thống giáo dục đồng thời là một tổ chức xã hội trong
cộng đồng, vì thế ta nói: trường THPT là một tổ chức sư phạm – xã hội.
Với tư cách là một tổ chức xã hội, trường THPT tham gia hoạt động trong
một hệ thống thống nhất ở cấp quận, huyện, tham gia thực hiện mục tiêu
kinh tế - xã hội của địa phương. Trường THPT là đơn vị văn hóa tiêu biểu
trong cộng đồng. Điều này càng thể hiện rõ nét đối với các trường THPT ở
một tỉnh miền núi như Yên Bái. Có thể nói văn hóa trường học thường vượt
qua văn hóa cộng đồng, trường học như một trung tâm tái sản xuất văn hóa
liên tục ở nơi nó hoạt động.
Với tư cách là một tổ chức sư phạm, quản lý trường THPT phân biệt
hẳn với mọi hình thức quản lý xã hội khác. Đó là bản chất sư phạm của quá
trình giáo dục, trong đó giáo viên, học sinh vừa là khách thể quản lý nhưng
lại đồng thời là chủ thể tự quản lý. Họ là những người đang tham gia một
hoạt động rất đặc thù là: lấy nhân cách đào tạo nhân cách. Sản phẩm của
hoạt động là nhân cách được tạo ra bao hàm cả tự đào tạo. Chính vì vậy,
các mối quan hệ quản lý trong trường học mang bản chất
16


dân chủ sâu sắc. Trường THPT được coi như một hệ tự quản lý tiêu biểu.
Tính đặc thù của hoạt động quản lý trường THPT thể hiện tập trung ở hoạt
động dạy và hoạt động học.

Cấp trung học phổ thông là cấp học cuối cùng của giáo dục phổ
thông. Đây là cấp học vừa trực tiếp tạo nguồn cho bậc cao đẳng, đại học nói
riêng, vừa góp phần quan trọng vào việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung. Cấp học này, một mặt
chuẩn bị cho học sinh những tri thức và kỹ năng về khoa học xã hội, nhân
văn, toán học, khoa học tự nhiên, kỹ thuật để họ có thể được tiếp tục đào
tạo ở bậc học tiếp theo, mặt khác cần hình thành cho họ những hiểu biết về
nghề phổ thông cần thiết cho cuộc sống, tham gia lao động sản xuất, xây
dựng xã hội và khi có điều kiện có thể tiếp tục học lên. Từ nền tảng đó mà
phát triển các hệ thống phẩm chất, năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu xây
dựng đất nước trong giai đoạn mới. Chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trước yêu cầu phát triển
của đất nước, đáp ứng nhu cầu của người học, giáo dục THPT cần thiết
phải đổi mới, cần thực hiện nguyên tắc dạy học phân hoá, có như vậy sẽ
nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện.
Luật giáo dục năm 2005, điều 28 có ghi: “Giáo dục trung học phổ
thông phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở,
hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông; ngoài những nội dung chủ yếu
nhằm đảm bảo chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản toàn diện và hướng
nghiệp cho mọi học sinh còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để
phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh” [32].
Giáo dục THPT nhằm góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri
thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có
đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà
17


trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và năng lực chuyên môn
sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế nhiều thành

phần, có khả năng làm việc hợp tác theo nhóm...
Theo Trần Kiểm tính đặc thù của quản lý trường THPT phụ thuộc
nhiều vào đặc điểm lao động sư phạm của giáo viên, đó là:
-

Lao động của giáo viên được chuyên môn hóa cao.

Đối tượng của lao động sư phạm là học sinh phần lớn từ 15
đến 17
tuổi.
- Phương tiện lao động chủ yếu của giáo viên là phương tiện tinh
thần.
-

Thời gian lao động trên lớp của giáo viên khó tách bạch khỏi thời

gian lao động ngoài giờ lên lớp. Bất cứ lúc nào, người giáo viên vẫn có thể
nghĩ về công việc sư phạm của mình.
-

Mặt kinh tế của lao động sư phạm gắn chặt với mặt giáo dục.

Hiệu quả là hiệu suất lao động của người giáo viên, là chất lượng

thực hiện mục tiêu đào tạo [27, tr.34, 35].
* Vai trò quản lý của Hiệu trưởng
Điều 54, Luật Giáo dục năm 2005 qui định:
-

Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của


nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận.
Hiệu trưởng các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân
phải
được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý trường học.
- Tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng; thủ tục bổ
nhiệm, công nhận Hiệu trưởng trường đại học do Thủ tướng Chính phủ quy
định; đối với các trường ở cấp học khác do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo quy định; đối với cơ sở dạy nghề do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước về dạy nghề quy định.[32]
*

Theo điều 17 của Điều lệ trường phổ thông Hiệu trưởng có những

nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:


18


+

+

Tổ chức bộ máy nhà trường;

+

Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;


Quản lý giáo viên, nhân viên, học sinh; quản lý chuyên môn; phân

công công tác, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên,
nhân viên;

+

+

Quản lý và giáo dục học sinh;

+

Quản lý hành chính, tài chính, tài sản của nhà trường;

Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên,

nhân viên, học sinh; tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động
của nhà trường;
+

Được theo học các lớp chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các chế

độ hiện hành [7].
Trong các nhà trường cần xây dựng những mô hình quản lý có tính
mềm dẻo, linh hoạt. Người giáo viên cần có cơ hội tương tác nhiều hơn với
người đứng đầu nhà trường. Vì vậy, mô hình quản lý ''hợp tác" ''cộng tác"
cần được hình thành và phát triển mạnh mẽ hơn, trên cơ sở tính năng động
và sáng tạo của người Hiệu trưởng. Nhờ đó người Hiệu trưởng có thể đảm
đương vai trò ''người lãnh đạo chuyên môn" và người quản lý cao nhất.


1.2.4. Biện pháp quản lý
Khi bàn về việc nâng cao chất lượng giáo dục, các nhà khoa học đều
rất quan tâm đến việc tìm kiếm các con đường, các biện pháp tác động đến
quá trình dạy học ở trên lớp và hoạt động ở ngoài giờ lên lớp.
-

Vậy biện pháp là gì? Đó là: “Cách làm, cách tiến hành, cách giải

quyết một vấn đề cụ thể”.[46, tr.161].
Từ cách hiểu về biện pháp như trên ta suy ra:

19


- Biện pháp quản lý là cách quản lý, cách giải quyết những vấn đề
liên quan đến quản lý.
-

Biện pháp quản lý công tác GVCNL là cách làm, cách quản lý,

cách giải quyết những vấn đề thuộc công tác GVCNL nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục toàn diện trong nhà trường phổ thông.

1.3. Nội dung công tác giáo viên chủ nhiệm lớp và chức năng của giáo
viên chủ nhiệm lớp ở trƣờng Trung học phổ thông
1.3.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm
lớp trong nhà trường phổ thông
1.3.1.1. Vị trí và vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp
Trong nhà trường phổ thông người GVCNL có vị trí, vai trò rất quan

trọng:
-

GVCNL là người thay mặt Hiệu trưởng thực hiện nguyên lí giáo

dục của Đảng, Nhà nước và mục tiêu, kế hoạch của ngành giáo dục và đào
tạo trong một lớp học - đơn vị cơ bản của nhà trường .
-

GVCNL là người trực tiếp quản lí giáo dục toàn diện học sinh

trong một lớp học: cụ thể hoá mục tiêu, kế hoạch và chương trình hành
động của nhà trường ở từng lớp học. GVCNL có trách nhiệm tổ chức, chỉ
đạo, đôn đốc và kiểm tra các hoạt động của lớp mình, chịu trách nhiệm
trước nhà trường và hội đồng nhà trường về chất lượng giáo dục toàn diện
của lớp mình.
-

GVCNL là đầu mối của sự phối hợp trong việc hình thành và phát

triển nhân cách của học sinh trong lớp học, thống nhất mối liên hệ và mọi
tác động giáo dục, liên kết, phối hợp với giáo viên bộ môn, Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, phụ huynh học sinh và các lực lượng xã hội
khác để thống nhất các biện pháp giáo dục học sinh trong lớp.

20


-


GVCNL là cầu nối giữa nhà trường và các lực lượng giáo dục khác

với tập thể học sinh và mỗi cá nhân học sinh: truyền đạt và tổ chức thực
hiện những kế hoạch, nội qui, nền nếp, các chỉ thị, yêu cầu của Hiệu trưởng
đến từng học sinh trong lớp học. Đồng thời GVCNL cũng báo cáo cho Hiệu
trưởng những thông tin từ phía học sinh, phản ánh kịp thời và đầy đủ diễn
biến của tập thể học sinh và từng cá nhân học sinh về
những tâm tư nguyện vọng, đề đạt kiến nghị của học sinh để giúp Hiệu
trưởng quản lí có hiệu quả hơn.
-

GVCNL còn phải biết dự báo xu hướng phát triển nhân cách của

học sinh trong lớp để có phương hướng tổ chức hoạt động giáo dục, dạy
học phù hợp với điều kiện và khả năng của từng học sinh.
-

Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện mục tiêu phát triển con

người theo yêu cầu của xã hội , giáo dục và đào tạo phải được thực hiện với
một cơ chế mở, mà giáo dục nhà trường không phải là lực lượng duy nhất.
Nhưng giáo dục của nhà trường phải giữ vai trò điều tiết, định hướng cho
các lực lượng xã hội khác thực hiện mục tiêu giáo dục, góp phần xây dựng
môi trường sư phạm thống nhất, các lực lượng xã hội trong giáo dục bao
gồm nhà trường, gia đình và xã hội.
Sơ đồ 2 : Mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm lớp với một số tổ chức,
đoàn thể trong nhà trƣờng

21



TỔ CHUYÊN MÔN

TỔ CHỦ NHIỆM

BAN ĐẠI DIỆN
CHA MẸ HỌC SINH
CỦA LỚP

BCH ĐOÀN TNCS
HỒ CHÍ MINH
CỦA NHÀ TRƯỜNG

Ghi chú :

Chỉ mối quan hệ thường xuyên.

Chỉ mối quan hệ không thường xuyên.
Từ sơ đồ trên ta thấy :
Dưới góc độ thông tin trong quản lí thì GVCNL được xem như là
một trong những nút thông tin quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống
thông tin trong nhà trường với các chức năng thu nhận và xử lí, truyền đạt
thông tin.
Dưới góc độ giáo dục học thì GVCNL là một chủ thể giáo dục gần
gũi, thân thiết nhất với đối tượng giáo dục (tập thể học sinh và từng học
sinh) với nhiệm vụ là giáo dục mỗi cá nhân học sinh thông qua việc xây
dựng tập thể học sinh, giáo dục cá nhân học sinh bằng tập thể và trong tập
thể.
Dưới góc độ quản lý thì GVCNL là nhà quản lý thực hiện các chức
năng quản lý đối với các hoạt động của tập thể lớp và từng học sinh, khai

thác và phát huy sức mạnh tổng hợp các lực lượng giáo dục như: giáo viên


22


×